Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TÓM TẮT LUẬN VĂN Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.95 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, vấn đề đạo đức kinh doanh cũng đang được các học giả,
những nhà kinh doanh, nhà quản lý, người tiêu dùng và toàn xã hội đặc
biệt quan tâm. Người Mỹ đã sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan
trọng của đạo đức đối với công việc kinh doanh. Họ đã bỏ ra khá nhiều
công sức và tiền bạc để nghiên cứu vấn đề này. Chỉ tính riêng trong
năm 2000, theo Trung tâm vì một nền văn hoá kinh doanh có đạo đức,
đã có tới 52 công trình nghiên cứu được xuất bản tại Mỹ viết về ảnh
hưởng của đạo đức kinh doanh tới thu nhập tài chính của các công ty.
Trong đó, đa số các công trình nghiên cứu (33 công trình) cho rằng,
công ty có đạo đức sẽ dễ làm ăn phát đạt hơn.
Ở Việt Nam, đạo đức kinh doanh là một vấn đề khá mới không
những đối với các nhà kinh doanh mà với cả những người nghiên cứu
về lĩnh vực này. Các vấn đề như: đạo đức kinh doanh, văn hoá kinh
doanh, văn hoá doanh nghiệp, văn hoá công ty… mới chỉ nổi lên từ khi
Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế. Trước đó, những vấn đề này ít được nhắc tới. Đặc biệt, kể từ
khi Việt Nam gia nhập WTO có nhiều phạm trù mới được xuất hiện
như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, thị trường chứng khoán,
thị trường thương mại… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở
nên phổ biến hơn trong xã hội.
Hiện nay, nền kinh tế đang chuyển sang vận hành theo thể chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
môi trường kinh doanh trở nên đa dạng và sôi động hơn. Hoạt động
kinh doanh là những hành vi, những quyết định, cách ứng xử, nguyên
tắc hoạt động của doanh nhân trên thương trường. Do vậy, đạo đức
kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc định hướng, điều chỉnh hoạt
động của các doanh nhân nhằm đảm bảo lợi ích của cá nhân cũng như
lợi ích của toàn xã hội, góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành
mạnh và ổn định.


1
Tuy nhiên, trong xã hội đang nảy sinh nhiều vấn đề đạo đức, cả
trong lĩnh vực kinh doanh. Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất và kinh
doanh đang xuất hiện nhiều hiện tượng lừa đảo, kinh doanh bất chấp
pháp luật như: buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, hàng nhái, hàng kém
chất lượng, gian lận thương mại, lừa dối người tiêu dùng… Vì vậy, xây
dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là vấn đề ngày càng nhận được sự
quan tâm nhiều hơn của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các doanh
nghiệp, người tiêu dùng, nhiều tổ chức kinh tế xã hội ở các cấp các
ngành, các lĩnh vực và của toàn xã hội.
Từ mối quan tâm đó chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề xây dựng
đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội)”
làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến xây dựng đạo đức kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay được
giới nghiên cứu, những người làm công tác lý luận, các nhà khoa học,
nhà kinh doanh, người tiêu dùng, những người làm công tác quản lý nhà
nước, hoạt động xã hội… quan tâm nhiều.
Theo hướng nghiên cứu cơ bản một số tác giả đã tập trung làm rõ
các khái niệm đạo đức, đạo đức kinh doanh. Chẳng hạn, cuốn “Môi
trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh”. Do GS.TS Ngô Đình Giao
(chủ biên). Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1997. Tác giả đã làm rõ
những vấn đề rất cơ bản trong kinh doanh là môi trường kinh doanh và
đạo đức kinh doanh. Trong đó, tác giả làm rõ sự cần thiết phải nghiên
cứu môi trường trong kinh doanh, các yếu tố thuộc môi trường kinh
doanh và yếu tố văn hoá có ảnh hưởng đến kinh doanh như thế nào,
trách nhiệm xã hội trong kinh doanh là cần thiết đối với các doanh
nghiệp… Ngoài ra, các tác giả còn tập trung làm rõ những khái niệm có

liên quan như: đạo đức, đạo đức kinh doanh… trên cơ sở đó đưa ra các
quan điểm đánh giá, phán xét đạo đức kinh doanh; hay cuốn “Giáo
trình đạo đức kinh doanh và văn hoá công ty”, Nguyễn Mạnh Quân
(chủ biên). Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2007. Tác
2
giả đã tập trung làm rõ các khái niệm liên quan đến đạo đức kinh
doanh, văn hoá công ty, trách nhiệm xã hội, thương hiệu và sự xuất
hiện các vấn đề đạo đức trong kinh doanh. Đặc biệt, tác giả đã giới
thiệu cách tiếp cận với quá trình ra quyết định về hành vi đạo đức và
các công cụ phân tích hành vi đạo đức trong kinh doanh. Mục đích là
nhằm cung cấp phương pháp và công cụ phân tích hành vi đạo đức
trong kinh doanh, trên cơ sở phương pháp và công cụ đã phân tích trên,
tác giả giới thiệu một số vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình thông
qua các tình huống cụ thể về những vấn đề thực tiễn.
Vẫn theo hướng nghiên cứu trên, các khái niệm này còn được trình
bày trong một số công trình nghiên cứu khác. Tiêu biểu như: “Đạo đức
kinh doanh và văn hoá công ty: phương pháp môn học và phân tích tình
huống” của Nguyễn Mạnh Quân. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội, 2007; Bùi Xuân Phong trong cuốn “Đạo đức kinh doanh
và văn hoá doanh nghiệp”. Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông,
Hà Nội, xuất bản năm 2009.
Theo hướng nghiên cứu ứng dụng các tác giả tập trung nghiên cứu
những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này
phải kể đến:
- Cuốn “Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của Hà Huy Thành (chủ biên). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội, xuất bản năm 2000. Tập thể tác giả đã phân tích sự tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường đối với các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội như: Kinh tế, sự phân tầng xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo,
đạo đức, môi trường… qua đó đề ra các giải pháp khắc phục những tiêu

cực trên.
- Cuốn “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”.
Từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc do Lại Văn Toàn làm chủ
tịch hội đồng biên tập. Nhà xuất bản Thông tin Khoa học Xã hội. Hà Nội,
1996. Các tác giả đã phân tích quan hệ giữa kinh tế thị trường và luân lý
đạo đức; sự tác động có tính hai mặt của kinh tế thị trường đối với đạo
đức; đạo đức trong kinh tế thị trường và việc xây dựng đạo đức trong
kinh tế thị trường. Tập thể tác giả đã phân tích về sự xung đột giữa lợi ích
3
và giá trị đạo đức; nguyên nhân của tình hình đạo đức xã hội hiện nay
trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp xây dựng lại đạo đức hiện nay.
- Mai Ngọc Cường, Vũ Thành Hưng, Bùi Anh Tuấn trong cuốn
“Đạo đức kinh doanh: lý thuyết và thực hành” (1996). Nhà xuất bản
Thống kê, Hà Nội lại tiếp cận vấn đề từ góc độ khác. Các tác giả đã làm
sảng tỏ những nguyên lý cơ bản về đạo đức kinh doanh: vai trò, tầm
quan trọng của đạo đức kinh doanh, lịch sử các tư tưởng về đạo đức
kinh doanh và cơ sở triết học của lý thuyết đạo đức kinh doanh. Đồng
thời làm sáng tỏ các chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc xác định hành vi
đạo đức. Trên nền tảng những nguyên lý cơ bản về đạo đức kinh doanh,
tập thể tác giả đã vận dụng những tư tưởng cơ bản của đạo đức kinh
doanh vào thực tiễn thông qua việc nghiên cứu các tình huống và chiến
lược nâng cao đạo đức kinh doanh trong doanh nghiệp ở phần sau.
- Trần Hữu Quang, Nguyễn Công Thắng (chủ biên): “Văn hoá kinh
doanh - Những góc nhìn” (2008). Nhà xuất bản Trẻ - Thời báo kinh tế
Sài Gòn. Tập thể tác giả lại nhìn nhận và phân tích đạo đức kinh doanh
ở những khía cạnh khác nhau như: chữ “tín” trong kinh doanh; mối
quan hệ giữa kinh doanh và đạo đức; đạo đức với đối tác và đối thủ;
doanh nhân và chữ lợi… Từ sự phân tích đạo đức kinh doanh ở những
khía cạnh khác nhau đó, các tác giả đã chỉ ra rằng: chữ “tín” là phẩm
chất cao quý nhất của người kinh doanh, các doanh nghiệp muốn thành

công trong kinh doanh, trước hết hãy biết giữ chữ “tín”. Mặt khác,
trong kinh doanh phải có đạo đức, phải có cái “tâm” thì mới gặt hái
được thành công lâu dài, ổn định, thậm chí phải có đạo đức với cả đối
tác và đối thủ của mình…
- Trong cuốn “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh
tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước
ta hiện nay” của tập thể các nhà nghiên cứu và giảng viên thuộc học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh do Nguyễn Chí Mỳ chủ biên, lại
bàn về vấn đề đạo đức mới trong cơ chế thị trường; sự biến đổi của
thang giá trị đạo đức trong cơ chế đó; xây dựng đạo đức mới cho cán bộ
quản lý trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4
Từ đó, tập thể tác giả đề ra các phương hướng và giải pháp hình thành
thang giá trị đạo đức mới.
- Nguyễn Thị Lan lại xem xét vấn đề dưới góc độ “Nhìn nhận của
người dân về đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân”.
Tạp chí Tâm lý học - Số 5. Năm 2006. Tác giả đã xây dựng thang đo
đánh giá của người dân Hà Nội về đạo đức kinh doanh của các chủ
doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay ở nước
ta. Theo tác giả, các chủ doanh nghiệp tư nhân tuy có nhiều đóng góp
trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay nhưng không vì thế
mà người dân xoá nhoà, san bằng tất cả cái tốt và cái xấu trong hoạt
động kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Trái lại, càng kỳ
vọng bao nhiêu ở sự đóng góp của các chủ doanh nghiệp tư nhân đối
với cộng đồng, với xã hội người dân càng có xu hướng nhìn nhận khắt
khe hơn, yêu cầu cao hơn đối với họ. Vì vậy, khi tìm kiếm những giải
pháp giáo dục và xây dựng chế tài nhằm nâng cao đạo đức kinh doanh
trong giai đoạn hiện nay cần phải chú ý điều này.
Với hướng nghiên cứu này còn có nhiều công trình khác liên quan
đến đề tài. Song trong phạm vi hạn hẹp của luận văn chúng tôi không

có điều kiện liệt kê ra tất cả.
Ngoài ra, còn có một hướng nghiên cứu khác, kết hợp cả hai hướng
nghiên cứu trên. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đạo đức
kinh doanh, các tác giả đã đưa ra các đề xuất, biện pháp nhằm xây dựng
đạo đức kinh doanh.
Theo hướng nghiên cứu này có các công trình tiêu biểu như: “Bài
giảng Văn hoá kinh doanh”, Dương Thị Liễu (chủ biên). Nhà xuất bản
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2008; cuốn “Văn hoá doanh
nghiệp” của Đỗ Thị Phi Hoài. Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, 2009;
Vương Liêm trong cuốn “Kinh tế học Internet: từ thương mại điện tử
đến Chính phủ điện tử”. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,
2001; Cuốn “Giáo trình Pháp luật kinh tế” của Nguyễn Hợp Toàn (chủ
biên). Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2008; Phạm
Côn Sơn: “Tâm đức trong kinh doanh - 99 điều cần biết”. Nhà xuất bản
Lao động, Hà Nội, 2006…
5
Đáng chú ý là các bài đăng trên Tạp chí triết học với một loạt bài
viết của nhiều tác giả liên quan đến chủ đề của đề tài. Trong đó, một số
bài viết đã thành công trong cách tiếp cận và giải quyết vấn đề từ
phương diện triết học, chẳng hạn như, bài “Về vai trò của đạo đức kinh
doanh và việc xây dựng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay” của
tác giả Trịnh Duy Huy, đăng trên Tạp chí Triết học, số 2, tháng 4 năm
2001; bài “Xây dựng đạo đức kinh doanh - Cơ sở cho việc thực hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” của Đỗ Thị Kim Hoa (Tạp chí
Triết học, số 10, tháng 10 năm 2009); bài “Vấn đề xây dựng đạo đức
nghề nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của
Nguyễn Văn Phúc. (Tạp chí Triết học, số 7, tháng 10 năm 2001); bài
“Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và
những biến động trong lĩnh vực đạo đức” của Nguyễn Trọng Chuẩn
(Tạp chí Triết học, số 9, tháng 12 năm 2001)…

Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn của mình, tác giả
còn tham khảo nhiều tài liệu có liên quan đến đạo đức kinh doanh như:
các bài viết của các nhà khoa học trong nước; các bài báo, các sách của
nước ngoài đã được công bố và dịch sang tiếng Việt Nam, cùng những
tài liệu có liên quan đến chủ đề của đề tài.
Các công trình nghiên cứu trên đã phân tích các khía cạnh cụ thể
khác nhau với những nội dung rất phong phú và đa dạng ở mức độ
nông sâu khác nhau về vấn đề đạo đức trong kinh tế thị trường, đạo đức
trong kinh doanh. Cũng đã có công trình nghiên cứu đưa ra cái nhìn
tổng quan về thực trạng đạo đức kinh doanh tại Việt Nam và các giải
pháp nhằm hoàn thiện đạo đức kinh doanh ở Việt Nam. Song, đạo đức
xã hội nói chung, đạo đức kinh doanh nói riêng, với tư cách là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh sự biến đổi của tồn tại xã hội, cũng luôn có
sự biến đổi cùng với sự biến đổi của kinh tế thị trường. Do đó, hệ thống
hoá, phân tích thực trạng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay, đặc
biệt làm rõ vai trò của đạo đức trong kinh doanh, từ đó đưa ra những
phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
là một hướng mới mà người viết tiếp tục nghiên cứu.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ giữa đạo đức và kinh
doanh, đặc biệt là vai trò của đạo đức trong kinh doanh. Trên cơ sở đó,
luận văn đưa ra một số nội dung của đạo đức kinh doanh cần xây dựng
và đề xuất các phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề xây dựng đạo
đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, phân tích một số vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình - qua

thực tế ở Hà Nội (sau khi sát nhập).
Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng và nâng
cao đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề về đạo đức kinh doanh trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề của đạo đức kinh doanh
trên địa bàn Hà Nội (sau khi sát nhập). Trên cơ sở đó, xác định những
nội dung cơ bản để xây dựng đạo đức kinh doanh (mà chủ yếu là xây
dựng đạo đức cho giới doanh nhân) và đề xuất một số phương hướng và
giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng ta, quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và kế thừa có chọn lọc những công trình
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài
đã được công bố.
Luận văn sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với các phương pháp phân tích - tổng
hợp; lôgic - lịch sử; phương pháp điều tra, khảo sát thực tế; phương
pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể…
7
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống hoá, có bổ sung những vấn đề lý luận
cơ bản về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận
văn còn phân tích, đánh giá một số vấn đề đạo đức kinh doanh ở nước
ta hiện nay (qua thực tế ở Hà Nội).
Luận văn đã đưa ra một cách hiểu về khái niệm đạo đức kinh
doanh; một số nội dung của đạo đức kinh doanh cần xây dựng và đề

xuất một số giải pháp nhằm xây dựng một hệ thống đạo đức kinh doanh
mới ở nước ta hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập của sinh viên các trường Đại học,
Cao đẳng, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách liên quan
đến tiêu đề của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
luận văn được chia thành 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Đạo đức kinh doanh và tầm quan trọng của đạo đức
kinh doanh.
Chương 2: Phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức kinh
doanh ở Việt Nam.
8
Chương 1
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
Đạo đức có mối quan hệ với kinh tế, kinh doanh là điều không ai
nghi ngờ. Đó là mối quan hệ biện chứng gắn bó mật thiết, hữu cơ với
nhau. Xem xét mối quan hệ đó trước hết cần khẳng định lại một nguyên
lý cơ bản của quan điểm duy vật về lịch sử là tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và có sự tác động
trở lại đối với tồn tại xã hội đã sinh ra nó.
Xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức có rất
nhiều quan điểm khác nhau. Trong đó, hiện nổi lên hai vấn đề vừa có
tính cấp bách vừa có tính lâu dài. Đó là vấn đề tác động của kinh tế thị
trường đối với đạo đức và vấn đề vai trò của đạo đức trong kinh tế thị
trường.
1.1.1. Tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức

Ở nước ta hiện nay, sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo
đức diễn ra hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Điều đó khiến cho
việc đánh giá tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức khó có
được sự thống nhất tuyệt đối. Chính vì vậy, khi bàn về vấn đề này cũng
có rất nhiều ý kiến khác nhau. Song tựu chung lại cho đến nay nổi lên
ba quan điểm chủ yếu. Đó là:
1.1.1.1. Kinh tế thị trường tác động tiêu cực đối với đạo đức
Những người theo quan điểm này cho rằng, kinh tế thị trường và
đạo đức là bài xích lẫn nhau, là đối lập nhau, hoạt động của kinh tế thị
trường không bao hàm việc sản sinh ra những giá trị đạo đức, kinh tế
thị trường càng phát triển thì đạo đức càng suy thoái. Do đó, chấp nhận
kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc chấp nhận suy thoái về đạo đức,
lối sống.
9
1.1.1.2. Kinh tế thị trường tác động tích cực đối với đạo đức
Những người theo quan điểm này cho rằng, kinh tế thị trường hoàn
toàn không đối lập mà thống nhất với đạo đức. Theo họ, một cơ chế
kinh tế chỉ có thể xuất hiện và tồn tại nếu nó hợp lý, tức là nó có vai trò
đối với sự phát triển kinh tế. Trong đời sống hiện nay, kinh tế thị
trường là mô hình kinh tế có ưu thế nhất, mang lại hiệu quả cao nhất
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nó có thể cho phép huy động tối đa
mọi nguồn lực tự nhiên và xã hội để thúc đẩy sản xuất, không ngừng
nâng cao sản xuất và thu nhập xã hội. Vì vậy, nó chính đáng về mặt đạo
đức. Từ đó họ đi đến kết luận: kinh tế thị trường không chỉ hợp lý về
mặt lịch sử mà nó còn chính đáng về mặt đạo đức. Do đó, nó có tác
động tích cực thúc đẩy xã hội phát triển.
Những cách lý giải trên đều mang tính phiến diện, một chiều hoặc
là quá nhấn mạnh đến ảnh hưởng tích cực, hoặc là quá nhấn mạnh đến
ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức, do đó chưa
đánh giá đúng tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức. Trên

thực tế, kinh tế thị trường tác động đến đạo đức theo cả hai hướng: tích
cực và tiêu cực.
1.1.1.3. Kinh tế thị trường tác động có tính hai mặt đối với đạo đức
Đây là quan điểm được nhiều người thừa nhận nhất và đây cũng là
quan điểm chính thống của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trong cơ chế thị trường các chủ thể kinh tế bao giờ cũng chịu sự
chi phối của các nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường như: sự trung
thực trong kinh doanh, tôn trọng đối tác, giữ chữ tín, bảo vệ môi
trường. Nhưng các chủ thể kinh doanh không chỉ tự giác mà còn tự
nguyện thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực thị trường thì những
chuẩn mực thị trường sẽ chuyển hoá về chất để trở thành chuẩn mực
đạo đức.
Như vậy, kinh tế thị trường tự nó đã bao chứa khả năng tác động
một cách tích cực đến đạo đức. Do đó, nó chẳng những không đối lập
mà còn là một nhân tố khách quan của việc xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
10
Nếu từ trong bản chất, kinh tế thị trường tự nó đã chứa đựng khả
năng tác động tích cực đến sự phát triển đạo đức thì cũng chính từ trong
bản chất, kinh tế thị trường cũng chứa đựng khả năng tác động tiêu cực
đến đạo đức. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng (1996) đã xác định: “Mặt khác, cơ chế thị trường có những
tác động tiêu cực mâu thuẫn với chủ nghĩa xã hội”.
Chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường chưa lâu, nhưng tác động
từ mặt trái của kinh tế thị trường đối với đạo đức đã trở thành mối lo
ngại của toàn xã hội. Những biểu hiện của sự xuống cấp đạo đức được
Đảng ta chỉ ra tại Hội nghị trung ương lần thứ năm Ban chấp hành
trung ương khoá VIII.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa đạo đức và
kinh tế, kinh doanh có hai xu hướng biến đổi. Một mặt, dưới sự tác

động của kinh tế thị trường làm cho các chủ thể kinh doanh phải trung
thực trong kinh doanh, tôn trọng đối tác, giữ chữ tín trong kinh doanh,
bảo vệ môi trường để có được lợi ích lâu dài. Song cũng xuất phát từ
lợi ích mà các chủ thể kinh doanh có thể có các hành vi vô đạo đức:
làm hàng giả, hàng kém chất lượng, buôn gian bán lận, thiếu trung thực
trong kinh doanh, lừa gạt khách hàng, tàn phá môi trường,… nhằm thu
được lợi nhuận tối đa - đó là kiểu kinh doanh vô đạo đức. Vì vậy, cùng
với việc chủ động, tự giác, từng bước xây dựng và hoàn thiện nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải tăng cường
công tác bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng bản lĩnh đạo đức doanh nhân,… để phát huy những tác động tích
cực, ngăn ngừa, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường đối với đạo đức xã hội nói chung, đạo đức kinh doanh nói riêng.
1.1.2. Vai trò của đạo đức trong kinh tế thị trường
1.1.2.1. Quan điểm xem nhẹ vai trò của đạo đức đối với kinh doanh
Những người theo quan điểm này cho rằng, đạo đức chẳng có vai
trò gì trong kinh doanh cả, họ đã tách rời một cách tuyệt đối giữa đạo
đức và kinh doanh, đặt đối lập hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức.
Theo họ, kinh doanh là kinh doanh, đạo đức là đạo đức, đã kinh doanh
thì không thể nói đến đạo đức được. Do đó, hành vi kinh doanh không
11
có tính cách của hành vi đạo đức còn đạo đức không phải là phạm trù
quan tâm của doanh nghiệp vì nó không mang lại lợi ích thiết thực cho
doanh nghiệp. Xuất phát từ quan niệm như trên, họ đi đến kết luận:
trong hoạt động thị trường, hành vi kinh doanh với tư cách là hành vi
kinh doanh chỉ chịu sự điều tiết của các nguyên tắc, các chuẩn mực thị
trường. Về cơ bản những nguyên tắc, quy tắc thị trường được pháp chế
hoá thành luật kinh doanh và những quy định có tính pháp quy đối với
kinh doanh.
Với cách lập luận trên, những người xem nhẹ vai trò của đạo đức

đối với hoạt động kinh tế cho rằng, mấu chốt của vấn đề nằm ở cơ chế,
chính sách, pháp luật. Vì vậy, để giải quyết vấn đề cũng chỉ nên và chỉ
cần thực hiện ở một số khâu và lĩnh vực đó. Do vậy, việc đưa đạo đức
vào kinh doanh là bất hợp pháp, không cần thiết thậm chí còn cản trở
hành vi kinh doanh, cản trở sự phát triển kinh tế.
1.1.2.2. Quan điểm đề cao vai trò của đạo đức đối với kinh doanh.
Những người theo quan điểm này cho rằng, giữa đạo đức và kinh
doanh có mối quan hệ hữu cơ không tách rời, việc tách rời tuyệt đối
hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức là không khoa học. Trên thực
tế, nếu tách rời giữa đạo đức và kinh doanh, tìm động lực kinh doanh
chỉ ở lợi nhuận và do đó, quản lý xã hội chỉ duy nhất dựa vào cơ chế,
chính sách, pháp luật để điều tiết kinh doanh thì hiệu quả điều tiết sẽ bị
hạn chế. Bởi lẽ, các chủ thể kinh doanh, trong chừng mực không có sự
phát triển tương ứng về đạo đức kinh doanh, nghĩa là không bị ràng
buộc bởi các chuẩn mực đạo đức, bởi tình cảm và lương tâm ở tầng sâu
tâm lý, thì lòng hám lợi sẽ khiến họ luôn tìm mọi cách để “lách luật”,
phá hoại sự cạnh tranh trung thực, làm cho hoạt động thị trường không
diễn ra một cách bình thường, lành mạnh được. Bởi pháp luật, chính
sách dẫu hoàn thiện đến đâu cũng không tránh khỏi những khiếm
khuyết nhất định. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang trong quá trình
hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng
xã hội chủ nghĩa là một điều mới mẻ, chưa có tiền lệ. Những khiếm
khuyết của cơ chế, chính sách và quản lý trong thời gian qua đã tạo
điều kiện cho hàng loạt các trường hợp kinh doanh, vừa vi phạm pháp
12
luật, vừa vi phạm đạo đức để lại những tổn hại to lớn không chỉ đối với
công quỹ mà cả đối với bản thân các doanh nghiệp, doanh nhân đã vi
phạm đạo đức trong kinh doanh. Từ đó, những người theo quan điểm
này cho rằng, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế và tăng cường pháp chế
trong kinh doanh, nhà nước cần chủ động và tích cực “đạo đức hoá”

lĩnh vực kinh doanh, tạo ra sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật
trong quản lý.
Trong điều kiện kinh tế thị trường đạo đức có vai trò to lớn đối với
hoạt động kinh doanh. Vai trò của đạo đức trong kinh doanh được thể
hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, ý thức đạo đức bổ sung và kết hợp với ý thức pháp quyền
điều chỉnh các hành vi kinh doanh theo khuôn khổ pháp luật và quỹ đạo
của các chuẩn mực đạo đức xã hội.
Thứ hai, đạo đức kinh doanh là điều kiện cần để làm lành mạnh hoá
các hoạt động kinh doanh và để nâng cao vị thế và danh tiếng của giới
doanh nhân với xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể thấy đạo đức ngày càng có vai trò quan
trọng trong kinh doanh, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam gia nhập
WTO và hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, đẩy mạnh nghiên cứu đạo
đức kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở đó xây dựng và áp dụng đạo đức kinh doanh là
một trong những nhiệm vụ gắn liền với chính quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1.2. Đạo đức kinh doanh - những nội dung cần xây dựng
1.2.1. Đạo đức kinh doanh
1.2.1.1. Khái niệm đạo đức
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội đặc thù chỉ có ở con người và xã hội loài người. Từ
điển triết học của Rôzentan định nghĩa: “Đạo đức là một trong những
hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều
chỉnh hành vi của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
không trừ lĩnh vực nào”.
13
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: “Đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã

hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan
hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin
cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội”.
Như vậy, quan điểm về đạo đức như trên có những điểm tương
đồng. Do đó, khi nói đến danh từ đạo đức cần lưu ý một số đặc điểm
bản chất của nó, đó là:
Thứ nhất, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại
xã hội; xét đến cùng thì đạo đức là cái có sau và bị tồn tại xã hội quy
định.
Thứ hai, chức năng cơ bản của đạo đức là điều chỉnh và đánh giá
hành vi của con người trong xã hội.
Thứ ba, cách thức điều chỉnh hành vi con người của đạo đức, dựa
trên những quan niệm và chuẩn mực xã hội.
Thứ tư, đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân loại.
1.2.1.2. Khái niệm kinh doanh
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi cho chủ thể (kinh
doanh).
1.2.1.3. Khái niệm đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một dạng đạo đức nghề nghiệp, được áp
dụng trong lĩnh vực kinh doanh, bao gồm các nguyên tắc, chuẩn mực
đạo đức có tác dụng điều chỉnh, đánh giá và hướng dẫn hành vi của các
chủ thể hoạt động kinh doanh; chúng được những người hữu quan tự
giác, tự nguyện thực hiện và sử dụng để phán xét các hành vi trong kinh
doanh là đúng hay sai, hợp đạo đức hay phi đạo đức.
1.2.2. Những nội dung của đạo đức kinh doanh cần xây dựng ở
Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Trung thực, giữ chữ tín trong kinh doanh
14

Đây là tiêu chuẩn hàng đầu về đạo đức của các doanh nhân và cũng
là tiêu chí cơ bản để xây dựng đạo đức kinh doanh. Trung thực, giữ chữ
tín trong kinh doanh có nghĩa là, các doanh nhân phải luôn trung thực
trong việc chấp hành luật pháp của Nhà nước, luôn trung thực trong
giao tiếp với bạn hàng (trong giao dịch, đàm phán và ký kết) và người
tiêu dùng, trung thực ngay cả với bản thân, không hối lộ, tham ô, thụt
két, chiếm công vi tư dù hàng ngày, hàng giờ vẫn va chạm trực tiếp với
tiền và hàng, lại có quyền quyết định trực tiếp trong tay và cũng có thể
không ai biết được ngoài lương tâm mình.
Trung thực, giữ chữ tín trong kinh doanh còn đòi hỏi và biểu hiện
thành các yêu cầu như: tôn trọng con người (tôn trọng đối tác, đối thủ,
tôn trọng người tiêu dùng…), tôn trọng pháp luật, giao dịch hợp lý và
cạnh tranh bình đẳng.
Buôn bán thật thà, kinh doanh có đạo đức, trung thực, giữ chữ tín…
ngày nay đã trở thành một trào lưu không thể đảo ngược trên thế giới.
Đó là một trong những nội dung cốt lõi của đạo đức kinh doanh xã hội
chủ nghĩa.
1.2.2.2. Phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh
Đây là một phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị tiêu biểu cho các
doanh nhân thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh cũng là lý tưởng sống của mỗi doanh nhân Việt Nam chân
chính. Bởi vì, mỗi doanh nhân Việt Nam đều hiểu rằng, lý tưởng cuộc
sống là động cơ chủ yếu và cao nhất, nó chỉ đạo mọi hoạt động của con
người trong hiện tại và quyết định các kế hoạch trong tương lai.
Kinh doanh ở Việt Nam hiện nay là kinh doanh trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện đó, thì
tiêu chuẩn cơ bản nhất về xây dựng đạo đức doanh nhân là doanh nhân
phải có lý tưởng “vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh”.
1.2.2.3. Doanh nhân có tinh thần dân tộc
15
Tinh thần tự tôn dân tộc là một vũ khí vô cùng quý giá của mỗi
quốc gia. Đối với dân tộc ta cũng vậy, mặc dù trải qua bao thăng trầm
của lịch sử nhưng trong mỗi con người Việt Nam, tinh thần ấy vẫn
không ngừng tuôn chảy. Đa số người Việt Nam hôm nay đã hiểu được
ít nhiều về điều này và họ sẽ vui vẻ ưu tiên dùng hàng Việt Nam nếu
tinh thần ấy được những doanh nhân thế hệ hôm nay khơi gợi đúng
cách. Tuy nhiên, để phát huy được tinh thần dân tộc và làm cho sức
mạnh này bùng nổ và lan toả thì trách nhiệm chính không phải ai khác
mà chính là giới doanh nhân. Vì vậy, các doanh nhân Việt Nam hôm
nay muốn thành công cần phải biết khơi gợi tinh thần dân tộc trong
nhân dân. Để làm được điều này thì trước hết doanh nhân Việt Nam
phải là những người có tinh thần dân tộc.
1.2.2.4. Năng động, sáng tạo, nhạy bén, biết chớp thời cơ tạo cơ
hội trong kinh doanh; biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh để cùng
phát triển
“Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và
các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu
thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có
đấu tranh”. Bối cảnh đó đã tạo ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và
thách thức to lớn. Trong bối cảnh đó, những doanh nghiệp năng động,
sáng tạo, nhạy bén, biết chớp thời cơ tạo cơ hội trong kinh doanh,
không ngừng nghiên cứu, tiếp cận thị trường, dám nghĩ, dám làm, quyết
tâm trong sản xuất, chịu khó, cần cù, luôn quan tâm cải tiến kỹ thuật
trong hoạt động sản xuất, cải tiến mẫu mã, tạo ra sản phẩm mới, đáp
ứng thị hiếu của người tiêu dùng, biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh
để cùng phát triển, sẽ tận dụng tốt cơ hội tạo ra thế và lực mới để vượt

qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn. Ngược lại, những doanh nghiệp
kém năng động, sáng tạo, không nhạy bén, không biết chớp thời cơ thì
cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên lấn át cơ hội, cản trở sự
phát triển. Vì vậy, những doanh nhân Việt Nam hôm nay muốn vươn xa
ra thị trường thế giới, muốn đứng vững trong quá trình hội nhập quốc tế
thì ngoài việc có bản lĩnh đạo đức của người kinh doanh, cần phải có sự
16
năng động, sáng tạo, nhạy bén, biết chớp thời cơ tạo cơ hội trong kinh
doanh; biết hợp tác và cạnh tranh lành mạnh để cùng phát triển.
17
1.2.2.5. Gắn lợi nhuận với đạo đức.
Ở nước ta, trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, kinh doanh trước hết phải vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong lĩnh vực kinh doanh điều
đó có nghĩa là, phải giải quyết hài hoà, hợp lý nhất quan hệ giữa lợi ích
cá nhân và lợi ích xã hội, giữa lợi nhuận và đạo đức. Việc giải quyết
một cách hợp lý mối quan hệ này chỉ có nghĩa là chủ thể kinh doanh,
trong khi thực hiện lợi ích chính đáng của mình, không làm tổn hại đến
lợi ích chính đáng của người khác, của cộng đồng, của xã hội. Các chủ
thể kinh doanh trong khi hướng tới lợi ích cá nhân mà vẫn biết tôn
trọng lợi ích của người khác, của cộng đồng, của xã hội. Hơn thế, nếu
biết tôn trọng lợi ích của người khác thì lợi ích cá nhân mới ổn định và
lâu dài. Theo nghĩa đó đạo đức phải được xây dựng và trở thành nhân
tố bên trong của kinh doanh, thành nhu cầu, động lực thúc đẩy con
người thực hiện các hành vi đạo đức một cách tự giác, tự nguyện trong
quá trình kinh doanh. Muốn làm được điều đó, các chủ thể kinh doanh
phải luôn gắn kết lợi nhuận với đạo đức, lợi ích cá nhân phải gắn liền
với lợi ích của xã hội.
1.3. Tầm quan trọng của việc xây dựng đạo đức kinh doanh
Nước ta hiện nay đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền

kinh tế thị trường. Tuy nhiên, kinh tế thị trường ở nước ta là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà định hướng xã hội chủ nghĩa là
một điều mới mẻ, chưa có tiền lệ. Vì vậy, cả trong việc xây dựng cơ
chế, pháp luật kinh doanh, cả trong sự quản lý của nhà nước về kinh
doanh vẫn còn những bất cập, những khiếm khuyết nhất định. Do
“thiếu một hệ thống đồng bộ các đạo luật chặt chẽ và nghiêm ngặt mà
tình trạng lừa đảo, chộp giật, tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, trốn thuế,
làm hàng giả để làm giàu bất chính có điều kiện nảy sinh và tồn tại”.
Song, cho dù pháp luật và chính sách dẫu hoàn thiện đến đâu cũng
không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Nếu các chủ thể kinh
doanh, trong chừng mực không có sự phát triển tương ứng về đạo đức
kinh doanh, nghĩa là không bị ràng buộc bởi các chuẩn mực đạo đức,
bởi sự tự giác của lý trí, bởi tình cảm và lương tâm ở tầng sâu tâm lý,
18
thì vì lợi nhuận họ sẽ lách qua những khiếm khuyết, những khe hở của
pháp luật và chính sách, phá hoại sự cạnh tranh trung thực, làm cho
hoạt động thị trường không thể diễn ra một cách bình thường, lành
mạnh được. Vì vậy, xây dựng và phát huy vai trò của đạo đức kinh
doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay là vấn đề có tầm quan trọng to lớn và có ý nghĩa cả về
mặt đạo đức lẫn mặt kinh tế.
19
Chương 2
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC
KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Một số vấn đề về đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay
(qua thực tế ở Hà Nội)
2.1.1. Nhận thức của người dân Hà Nội về đạo đức kinh doanh
Nhận thức của người dân Hà Nội về đạo đức kinh doanh nói chung
và quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải

bàn. Khi được hỏi về đạo đức kinh doanh cũng như quyền lợi của người
tiêu dùng không phải ai cũng biết và hiểu được đúng bản chất của vấn
đề. Sở sĩ có tình trạng này một phần là do những tài liệu chuyên môn
viết về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam không nhiều, hầu hết các sách
được dịch từ nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, Austrâylia… Bên cạnh đó,
việc tuyên truyền, phổ bến rộng rãi kiến thức về đạo đức kinh doanh và
các quyền của người tiêu dùng chưa được thực hiện tốt.
Mặt khác, hầu hết các trường Đại học, Cao đẳng dạy về kinh doanh
ở Việt Nam gần đây mới chính thức đưa môn “đạo đức kinh doanh”
vào giảng dạy. Vì là môn khoa học còn khá mới mẻ nên đạo đức kinh
doanh trong những năm gần đây mặc dù được bàn đến khá nhiều song
nội hàm của khái niệm này vẫn chưa có sự thống nhất trong giới học
thuật cũng như trong các cơ quan quản lý xã hội. Chính vì vậy, mặc dù
thường được nghe về đạo đức kinh doanh nhưng cách hiểu của người
dân, của các doanh nghiệp về vấn đề này còn khá mơ hồ.
2.1.2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
Hiện nay, ở Việt Nam, khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp còn tương đối mới mẻ. Vì vậy, việc thực hiện trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp cho đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Do chưa thấy
được vai trò quan trọng cũng như lợi ích từ việc thực hiện trách nhiệm
xã hội đem lại nên nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không làm tròn
trách nhiệm của mình đối với xã hội như xâm phạm quyền và lợi ích
20
hợp pháp của người lao động, người tiêu dùng, gây ô nhiễm môi
trường…
Tuy nhiên, thời gian gần đây, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
đang trở thành một nội dung được quan tâm, các doanh nghiệp ngày
càng chú ý nhiều hơn đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội bởi họ
nhận thức được rằng, thực hiện trách nhiệm xã hội sẽ mang lại cho các
doanh nghiệp những lợi ích và cơ hội lớn. Nhiều doanh nghiệp đã chủ

động thực hiện trách nhiệm xã hội và nhờ đó thương hiệu của họ ngày
càng được nhiều người biết đến như: Mai Linh, Kinh Đô, Duy Lợi,
điều đó đã và sẽ mang lại cho họ uy tín và do đó mang lại lợi nhuận
kinh tế và cả lợi ích chính trị - xã hội.
2.1.3. Vấn đề sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Với thời gian tồn tại chưa dài (khoảng 20 năm) so với lịch sử tồn
tại hàng trăm năm của các nước Âu - Mỹ, nên ý thức về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ của người dân Việt Nam nói chung (người dân Hà Nội
nói riêng) còn rất thấp, do đó họ không mấy quan tâm đến vấn đề này.
Chính vì vậy mà sở hữu trí tuệ ở Việt Nam thường xuyên bị vi phạm.
2.1.4. Quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người lao động
Thời gian vừa qua, các cuộc đình công xảy ra ở nhiều địa phương
trong cả nước, do đó vấn đề quan hệ giữa chủ doanh nghiệp và người
lao động cũng được đề cập đến nhiều hơn trên các phương tiện thông
tin đại chúng. Chính vì vậy mà người dân đã có ý thức tương đối rõ
ràng về vấn đề này.
Ngoài những vấn đề vừa trình bày trên đây, đạo đức kinh doanh
còn có rất nhiều khía cạnh khác. Song, trong khuôn khổ hạn hẹp của
luận văn, chúng tôi không có điều kiện trình bày tất cả.
2.2. Phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh
2.2.1. Phương hướng xây dựng đạo đức kinh doanh
- Quán triệt quan điểm của Đảng và đạo đức Hồ Chí Minh về xây
dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam
21
- Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
kết hợp với tiếp thu có chọn lọc các giá trị đạo đức của nhân loại trong
quá trình xây dựng đạo đức kinh doanh.
- Xã hội hoá công tác xây dựng đạo đức kinh doanh.
2.2.2. Giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh
Quán triệt quan điểm của Đảng và những tư tưởng cơ bản của Chủ

tịch Hồ Chí Minh về đạo đức, cùng với sự kế thừa những giá trị đạo
đức truyền thống, đặc biệt là những giá trị đạo đức kinh doanh tốt đẹp
của dân tộc và sự xem xét có chọn lọc những lý luận và thực tiễn liên
quan tới vấn đề trên của thế giới và qua những ví dụ thực tế, những số
liệu thu thập được về những vấn đề đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện
nay, dưới đây chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm
xây dựng đạo đức kinh doanh trong điều kiện nền kinh tế thị trường còn
chưa hoàn chỉnh ở nước ta hiện nay.
- Đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xác lập cơ sở kinh tế vững chắc cho
sự phát triển của đạo đức kinh doanh.
- Bổ sung, hoàn thiện khung pháp luật Việt Nam nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho đạo đức kinh doanh.
- Tạo lập một môi trường kinh doanh lành mạnh
- Giáo dục ý thức đạo đức kinh doanh cho doanh nhân và người
dân
- Nâng cao nhận thức về đạo đức kinh doanh ở Việt Nam.
- Thực hiện xã hội hoá công tác xây dựng đạo đức kinh doanh
- Khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao đạo đức kinh doanh
của mình.
- Nâng cao vai trò giám sát của khách hàng và cộng đồng xã hội
trong việc xây dựng đạo đức kinh doanh.
Như vậy, việc xây dựng và phát huy vai trò của đạo đức kinh doanh
là công việc không chỉ của giới kinh doanh mà là công việc của toàn xã
hội. Nó đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ và được triển khai trên
phạm vi toàn xã hội.
22
KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường đang là hiện tượng có tính toàn cầu, là điều kiện
tất yếu để mọi quốc gia thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngày

nay, không thể nói đến phát triển nếu không chuyển sang nền kinh tế thị
trường. Ở nước ta, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 - 1986)
Đảng ta đã khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi
mới cơ chế kinh tế: từ cơ chế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình
chuyển đổi đó đã tạo ra sự biến đổi to lớn về nhiều mặt, trong đó có cả
sự biến đổi mang tính hai mặt của đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là một vấn đề khá mới mẻ ở nước ta. Trong
các xã hội truyền thống, đạo đức và kinh doanh là hai mặt mâu thuẫn và
tách rời nhau. Chỉ khi chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với các mục tiêu cơ bản là “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thì mới có các điều kiện thuận lợi
để đạo đức kinh doanh phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, đạo đức và kinh doanh có mối quan
hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Đạo đức kinh doanh, theo
chúng tôi, là một dạng đạo đức nghề nghiệp đước áp dụng trong lĩnh
vực kinh doanh, bao gồm các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức có tác
dụng điều chỉnh, đánh giá và hướng dẫn hành vi của các chủ thể hoạt
động kinh doanh; chúng được những người hữu quan tự giác, tự nguyện
thực hiện và sử dụng để phán xét các hành vi trong kinh doanh là đúng
hay sai, hợp đạo đức hay vô đạo đức. Vai trò của đạo đức kinh doanh
không chỉ thể hiện ở khả năng điều chỉnh hành vi một cách tự giác, tự
nguyện, sự mặc nhiên chấp nhận của mỗi cá nhân thông qua lương tâm
của họ và có sự tác động của dư luận xã hội mà còn là điều kiện cần để
họ giữ được chữ “tín” đối với khách hàng và tạo ra môi trường kinh
doanh lành mạnh.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn chưa hoàn thiện, định hướng xã hội chủ nghĩa là một điều
23

còn mới mẻ, do đó, cả trong cơ chế chính sách lẫn pháp luật còn nhiều
khiếm khuyết; pháp luật chưa hoàn thiện, chưa đầy đủ và thiếu đồng
bộ. Mặt khác, dẫu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
khung pháp luật có hoàn thiện đến đâu đi chăng nữa cũng không tránh
khỏi những khiếm khuyết nhất định, nếu như những doanh nhân không
có sự phát triển tương xứng về đạo đức thì lòng hám lợi sẽ khích thích
họ lách qua những kẽ hở, sự khiếm khuyết của pháp luật để thu lợi bất
chính cho bản thân. Chính vì vậy, vấn đề không chỉ là tiếp tục hoàn
thiện cơ chế kinh tế, pháp luật và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà
nước, mà cùng với nó, cần phải đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy
vai trò của đạo đức trong kinh doanh.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cùng với quá
trình hội nhập quốc tế đang mở ra những cơ hội phát triển mới, đồng
thời cũng đặt ra những thách thức mới đòi hỏi chúng ta phải vượt qua.
Đối với giới doanh nhân và hệ thống doanh nghiệp nước ta hiện nay thì
vấn đề phát huy tối đa nội lực, tận dụng tốt các nguồn ngoại lực, để
nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức mạnh cạnh tranh, hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã được Đảng và Nhà
nước đề ra là vấn đề quan trọng nhất. Để giải quyết vấn đề trên, chúng
ta không thể bỏ qua nhiệm vụ tạo lập và xây dựng đạo đức kinh doanh
trong xã hội.
Để xây dựng đạo đức kinh doanh, trước hết, cần xây dựng các
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh, trong đó, trung thực,
giữ chữ tín, tự tôn dân tộc, phấn đấu vì lý tưởng dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, năng động, sáng tạo, nhạy bén, biết
chớp thời cơ trong kinh doanh, là những phẩm chất đặc biệt quan
trọng. Mặt khác, đạo đức và văn hoá Việt Nam chính là cơ sở và nguồn
nội lực rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung,
của lĩnh vực kinh doanh nói riêng. Nếu biết phát huy nguồn lực này
một cách hiệu quả kết hợp với tận dụng tốt các nguồn ngoại lực thì giới

doanh nhân và hệ thống các doanh nghiệp nước ta có thể tạo ra một
kiểu kinh doanh đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và có trình độ quốc
tế, chẳng những để phục vụ tốt các nhu cầu trong nước mà còn là lợi
24
thế trong việc chinh phục các thị trường của các nước trong khu vực và
trên toàn thế giới. Bởi vậy, nghiên cứu và xây dựng đạo đức kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
việc làm cần thiết và là yêu cầu cấp bách hiện nay. Tuy nhiên, việc xây
dựng đạo đức kinh doanh là công việc không chỉ của giới kinh doanh
mà là công việc của toàn xã hội. Nó đòi hỏi phải có những giải pháp
đồng bộ và phải được triển khai trên phạm vi toàn xã hội.
Cũng như văn hoá, đạo đức xã hội nói chung và đạo đức kinh
doanh nói riêng là những phạm trù phức tạp, cần có nhiều thời gian và
công sức để hoàn thiện và phát triển. Là một quốc gia đang phát triển,
Việt Nam mới tham gia vào tiến trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế, vào WTO , nên những phạm trù như: văn hoá kinh doanh, văn
hoá doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh còn khá mới mẻ ở nước ta.
Được biết trong thời gian tới, chính phủ Việt Nam đang có chủ trương
nâng cao trình độ nhận thức cho người dân và doanh nghiệp về các vấn
đề có liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá. Bộ Giáo
dục và Đào tạo cũng đang khuyến cáo các trường Đại học, Cao đẳng
cần đổi mới chương trình đào tạo cho phù hợp với trình độ chung trên
thế giới.
Có được những yếu tố thuận lợi này và truyền thống đạo đức lâu
đời của người Việt Nam, hy vọng trong thời gian tới, nhận thức của
người Việt Nam nói chung, người dân Hà Nội nói riêng về đạo đức
kinh doanh sẽ nhanh chóng được nâng cao, góp phần duy trì sự phát
triển bền vững và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân Việt
Nam.
25

×