Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

BÀI 3 PHÁT TRIỂN bền VỮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.25 KB, 25 trang )


Phát triển bền vững


213
BÀI 3 - PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
MỤC TIÊU
Sau khi học xong bài này, sinh viên có khả năng:
1. Trình bày được các nguyên lý cơ bản của phát triển bền vững
2. Hiểu được vai trò của nguyên tắc phòng ngừa, nguyên tắc công bằng trong
cùng thế hệ và giữa các thế hệ trong việc xây dựng các chính sách, chương
trình và quản lý sức khoẻ môi trường
3. Trình bày được một số tiêu chí và chỉ thị (indicators) đánh giá phát triển
bền vững
4. Trình bày được những tác động của kỹ thuật hiện đại cũng như kỹ thuật lỗi
thời lên phát triển bền vững

1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG
1.1. Khái niệm chung về phát triển bền vững
Để duy trì sự sống của bản thân và tiếp tục sự phát triển của nòi giống, ngay
từ thời kỳ nguyên thuỷ của lịch sử nhân loại, con người đã có những hoạt động khai
thác tài nguyên thiên nhiên, chế biến thành những vật phẩm cần thiết cho mình,
hoặc để cải thiện những điều kiện thiên nhiên, tạo nên môi trường sống thích hợp
với mình. Trong lúc tiến hành những hoạt động đó, con người ít nhiều đã biết rằng
mọi can thiệp vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường luôn luôn có hai mặt lợi, hại
khác nhau đối với cuộc sống trước mắt và lâu dài của con người. Một số kiến thức
và biện pháp thiết thực để ngăn ngừa những tác động thái quá đối với môi trường đã
được đúc kết và truyền đạt từ thế hệ này qua thế hệ khác dưới dạng những tín
ngưỡng và phong tục.
Trong các xã hội công nghiệp, với sự phát hiện những nguồn năng lượng
mới, vật liệu mới và kỹ thuật sản xuất tiến bộ hơn nhiều, con người đã tác động


mạnh mẽ vào tài nguyên thiên nhiên và môi trường, can thiệp một cách trực tiếp và
nhiều khi thô bạo vào các hệ thiên nhiên. Để “chế ngự” thiên nhiên, con người
nhiều khi đã tạo nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa mục tiêu phát triển của xã hội
loài người với các quá trình diễn biến của tự nhiên. Để đạt tới những năng suất cao
trong sản xuất nông nghiệp, con người đã chuyển đổi các dòng năng lượng tự nhiên,
cắt nối các mắt xích thức ăn vốn có của thiên nhiên, đơn điệu hoá các hệ sinh thái,
sử dụng năng lượng bổ sung to lớn để duy trì những cân bằng nhân tạo mong manh.
Đặc biệt là trong nửa cuối thế kỷ 20, sau những năm hồi phục hậu quả của
thế chiến lần thứ hai, hàng loạt nước tư bản chủ nghĩa cũng như xã hội chủ nghĩa
tiếp tục đi sâu vào công nghiệp hoá, nhiều nước mới được giải phóng khỏi chế độ
thực dân cũng có điều kiện phát triển mạnh mẽ nền kinh tế của mình. Một số nhân
tố mới như cách mạng khoa học và kỹ thuật, sự bùng nổ dân số, sự phân hoá các
quốc gia về thu nhập đã tạo nên nhiều nhu cầu và khả năng mới về khai thác tài
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
214



nguyên thiên nhiên và can thiệp vào môi trường. Trật tự bất hợp lý về kinh tế thế
giới đã tạo nên hai loại ô nhiễm: “ô nhiễm do thừa thãi” tại các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển và: “ô nhiễm do đói nghèo” tại các nước chậm phát triển về kinh tế.
Có thể nói rằng mọi vấn đề về môi trường đều bắt nguồn từ phát triển.
Nhưng con người cũng như tất cả mọi sinh vật khác không thể ngừng tiến hoá và
ngừng sự phát triển của mình. Đó là qui luật của sự sống, của tạo hoá mà vạn vật
đều phải tuân theo một cách tự giác hay không tự giác. Con đường để giải quyết
mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng giữ sao
cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Phát triển đương
nhiên sẽ biến đổi môi trường, nhưng làm sao cho môi trường vẫn làm đầy đủ các
chức năng: đảm bảo không gian sống với chất lượng tốt cho con người, cung cấp
cho con người các loại tài nguyên cần thiết, tái xử lý các phế thải của hoạt động của

con người, giảm nhẹ tác động bất lợi của thiên tai, duy trì các giá trị lịch sử văn hoá,
khoa học của loài người. Hay nói một cách khác đó là: phát triển bền vững (PTBV).
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại
của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ
tương lai. Phát triển bền vững là một phương hướng phát triển được các quốc gia
trên thế giới ngày nay hướng tới, đó là niềm hy vọng lớn của toàn thể loài người.
PTBV có đặc điểm: 1- Sử dụng đúng cách nguồn tài nguyên thiên nhiên mà
không làm tổn hại hệ sinh thái và môi trường; 2- Tạo ra các nguồn vật liệu và năng
lượng mới; 3- ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ phù hợp với hoàn cảnh địa
phương; 4- Tăng sản lượng lương thực, thực phẩm; 5- Cấu trúc và tổ chức lại các
vùng sinh thái nhân văn để phong cách và chất lượng cuộc sống của ngươì dân đều
thay đổi theo hướng tích cực
Có khá nhiều mô hình PTBV, đã được đề xuất. Tuy nhiên, sơ đồ kinh điển
mô hình PTBV thường được đề cập như là sự dung hoà giữa ba lĩnh vực : Kinh tế -
Môi trường - Xã hội (Hình 1)
Kinh tế





Xã hội Môi trường

Hình 1. Mô hình kinh điển về mối quan hệ giữa Kinh tế - Môi trường - Xã hội.

Phát triển bền vững


215
Với chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế của đất nước cũng như của các

ngành, các địa phương đều nhằm duy trì một tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP
ở mức độ cao khoảng 8-10%/năm và trong một thời gian dài sẽ tăng áp lực lên môi
trường tự nhiên và xã hội. Nếu trình độ công nghệ của sản xuất và cơ cấu sản xuất
của nền kinh tế không được cải thiện hoặc tốc độ đổi mới công nghệ không theo kịp
tốc độ phát triển kinh tế thì sự tăng trưởng GDP ở mức cao cũng đồng nghĩa với
việc tăng khối lượng tài nguyên khai thác cho sản xuất và tăng lượng chất thải vào
môi trường. Sự suy giảm về môi trường sẽ xẩy ra khi năng lực tải của môi trường bị
sự tăng trưởng kinh tế vi phạm (Vụ Khoa học Giáo dục Môi trường 2002). Khi các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế không đưa yêu cầu bảo vệ môi
trường vào ngay trong quá trình soạn thảo và áp dụng thì sự tăng trưởng kinh tế sẽ
là nguy cơ gây suy giảm môi trường. Hơn nữa, với định hướng cơ cấu các ngành
sản xuất sẽ chuyển dịch theo hướng tăng nhanh của tỉ lệ công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ (thường được xác định khoảng 12-15%/năm), so với sản xuất nông nghiệp
(khoảng 4-6%/năm), các vấn đề về môi trường dự kiến sẽ gia tăng. Ngoài ra, định
hướng phát triển của nền công nghiệp Viêt Nam hiện đang dựa vào các ngành khai
thác, sơ chế tài nguyên như công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí,
điện năng, chế biến nông-lâm-hải sản. Do đó, công nghiệp Việt Nam phát triển với
tốc độ càng cao thì khả năng gây ô nhiễm môi trường càng lớn. Về mặt xã hội, sự
gia tăng dân số với nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm, nhu cầu lương thực, nhu cầu
được đảm bảo về việc làm, vui chơi, giải trí v.v. cũng tạo áp lực lên sự phát triển
kinh tế và làm gia tăng suy thoái môi trường.

1.2. Các nguyên tắc của phát triển bền vững
Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) trong tác phẩm “Hãy
cứu lấy trái đất - chiến lược cho một cuộc sống bền vững”, 1991 đã nêu ra 9
nguyên tắc của một xã hội bền vững:
• Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng;
• Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người;
• Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất;
• Hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài nguyên

không tái tạo;
• Giữ vững trong khả năng chịu đựng được của Trái đất;
• Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân;
• Để cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình;
• Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát
triển và bảo vệ;
• Xây dựng khối liên minh toàn cầu.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
216


Tuy nhiên, các nguyên tắc này thực sự khó áp dụng trong thực tế của một thế
giới đầy các biến động về chính trị, kinh tế và văn hoá. Thực tế đòi hỏi cần thiết lập
một hệ thống nguyên tắc khác có tính khả thi và sát thực tế hơn. Luc Hens (1995)
đã lựa chọn trong số các nguyên tắc của của Tuyên bố Rio về Môi trường và Phát
triển để xây dựng một hệ thống các nguyên tắc mới của PTBV. Những nguyên tắc
đó là:
1.2.1. Nguyên tắc về sự uỷ thác của nhân dân
Nguyên tắc này yêu cầu chính quyền phải hành động để ngăn ngừa các thiệt
hại môi trường ở bất cứ đâu khi xảy ra, bất kể đã có hoặc chưa có các điều luật quy
định về cách giải quyết các thiệt hại đó. Nguyên tắc này cho rằng, công chúng có
quyền đòi chính quyền với tư cách là tổ chức đại diện cho họ phải có hành động
ứng xử kịp thời các sự cố môi trường.
1.2.2. Nguyên tắc phòng ngừa
Ở những nơi có thể xảy ra các sự cố môi trường nghiêm trọng và không đảo
ngược được, thì không thể lấy lý do là chưa có những hiểu biết chắc chắn mà trì
hoãn các biện pháp ngăn ngừa sự suy thoái môi trường.
Nguyên tắc phòng ngừa được đề xuất từ các bài học kinh nghiệm của thế
giới về phát minh ra thuốc trừ sâu DDT và tác hại của việc khai thác rừng mưa
Brazin. Phát minh ra DDT vào những năm 50-60 của thế kỷ 20 được xem là phát

minh vĩ đại của loài người, vì nó đã tạo ra cho con người một loại vũ khí mạnh để
tiêu diệt bệnh sốt rét và các loại côn trùng phá hoại mùa màng. Tuy nhiên, việc phát
hiện ra tính chất độc hại kéo dài và khả năng tích luỹ của DDT trong các mô mỡ của
cơ thể con người và sinh vật về sau đã dẫn tới việc cấm sử dụng chúng. Thí dụ liên
quan đến rừng mưa Brazin cũng xẩy ra vào những năm đó, khi chính phủ Brazin
được các cố vấn khoa học tư vấn rằng: để phát triển nhanh về kinh tế, cần phải khai
thác khu rừng mưa nhiệt đới, nơi chỉ có những người Indian nguyên thuỷ sinh sống.
Chính phủ Brazin đã cho phép mở đường khai thác khu vực rừng mưa. Kết quả là
nhiều khu rừng bị phá huỷ, tính đa dạng sinh học của rừng suy giảm, lá phổi hành
tinh bị thu hẹp. Bản thân người Indian không phát triển được, mà còn bị tiêu diệt
bởi các chứng bệnh của nền văn minh du nhập như: viêm phổi, HIV/AIDS, v.v.
Nguyên tắc phòng ngừa có một số lý do để tồn tại: khoa học, kinh tế và xã
hội. Lý do khoa học tồn tại nguyên lý phòng ngừa như đã nói trên liên quan đến sự
hiểu biết chưa đầy đủ hoặc thiếu kinh nghiệm của con người về ảnh hưởng của các
phát minh mới, sản phẩm mới, hành động mới, v.v. Lý do kinh tế của nguyên lý
phòng ngừa là biện pháp phòng ngừa bao giờ cũng có chi phí thấp hơn biện pháp
khắc phục. Lý do xã hội của nguyên lý phòng ngừa liên quan tới sức khoẻ và sự tồn
tại an toàn của con người.
1.2.3. Nguyên tắc công bằng giữa các thế hệ
Đây là nguyên tắc cốt lõi của phát triển bền vững, yêu cầu rõ ràng rằng, việc
thoả mãn nhu cầu của thế hệ hiện nay không được làm phương hại đến các thế hệ

Phát triển bền vững


217
tương lai thoả mãn nhu cầu của họ. Nguyên tắc này phụ thuộc vào việc áp dụng
tổng hợp và có hiệu quả các nguyên tắc khác của PTBV.
Tài nguyên và các chức năng môi trường của trái đất đang là các yếu tố
quyết định sự tồn tại của loài người chúng ta. Tài nguyên và các chức năng môi

trường của trái đất theo khả năng tái tạo có thể chia thành hai loại: tái tạo và không
tái tạo. Loại không tái tạo rõ ràng sẽ mất dần đi trong quá trình khai thác và sử
dụng. Loại tái tạo cũng có thể suy thoái, cạn kiệt do khai thác quá mức tái tạo và do
ô nhiễm môi trường. Sự phát triển của loài người hiện nay đang phải đối mặt với
hàng loạt các khủng hoảng: khủng hoảng năng lượng, khủng hoảng lương thực,
khung hoảng môi trường và khủng hoảng dân số. Các khủng hoảng này đang làm
cạn kiệt các dạng tài nguyên thiên nhiên, suy thoái các dạng tài nguyên xã hội và
các chức năng môi trường. Như vậy, các thế hệ con cháu chúng ta trong tương lai
sẽ phải đối mặt với một nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt và một
không gian môi trường sống có thể bị ô nhiễm. Để thực hiện công bằng giữa các thế
hệ chúng ta cần: khai thác tài nguyên tái tạo ở mức thấp hơn khả năng tái tạo, khai
thác và sử dụng hợp lý các dạng tài nguyên không tái tạo và thực hiện các biện pháp
bảo vệ môi trường sống của trái đất.
1.2.4. Nguyên tắc công bằng trong cùng một thế hệ
Con người trong cùng thế hệ hiện nay có quyền được hưởng lợi một cách
bình đẳng trong việc khai thác các nguồn tài nguyên và bình đẳng trong việc chung
hưởng một môi trường trong sạch. Nguyên tắc này được áp dụng để xử lý mối quan
hệ giữa các nhóm người trong cùng một quốc gia và giữa các quốc gia. Nguyên tắc
này ngày càng được sử dụng nhiều hơn trong đối thoại quốc tế. Tuy nhiên, trong
phạm vi một quốc gia, nó cực kỳ nhạy cảm đối với các nguồn lực kinh tế - xã hội và
văn hoá.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trong quá khứ, hiện tại đang diễn ra
trong bối cảnh sự phân chia và cạnh tranh giai cấp, dân tộc và quốc gia trong việc
xác lập quyền lợi khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các chức năng môi
trường. Do vậy để đảm bảo công bằng trong cùng một thế hệ đòi hỏi: (1) Xác lập
quyền quản lý khai thác và sử dụng tài nguyên của các cộng đồng dân cư trong
phạm vị một địa bàn lãnh thổ; xác lập quyền quản lý quốc gia đối với mọi nguồn tài
nguyên thiên nhiên và xã hội trong lãnh thổ quốc gia; phân định quyền quản lý khai
thác và sử dụng tài nguyên giữa các quốc gia trên phạm vi phần lãnh thổ ngoài
quyền tài phán của các quốc gia. (2) Xác lập quyền và nghĩa vụ của các cộng đồng

và các quốc gia trong việc khai thác và sử dụng các chức năng môi trường của các
vùng lãnh thổ và toàn bộ không gian trái đất. (3) Thu hẹp sự chênh lệch kinh tế giữa
các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển và kém phát triển.
Tăng viện trợ phát triển cho các nước nghèo đồng thời với việc giảm sự lãng phí
trong tiêu thụ tài nguyên của dân cư ở các quốc gia phát triển, giảm đói nghèo ở các
nước đang phát triển.
1.2.5. Nguyên tắc công bằng về quyền tồn tại của con người và sinh vật trái đất
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
218


Con người và sinh vật trái đất là các thành phần hữu sinh trong hệ thống môi
trường sống vô cùng phức tạp của hành tinh chúng ta: Tự nhiên - Con người và Xã
hội loài người. Các sinh vật là các mắt xích của hệ thống đó, nên sự tồn tại của
chúng liên quan đến sự bền vững và ổn định của hệ thống môi trường. Do vậy, các
sinh vật tự nhiên có quyền tồn tại trong không gian trái đất, cho dù nó có giá trị trực
tiếp như thế nào đối với loài người. Sự diệt vong của các loài sinh vật sẽ làm mất đi
nguồn gen quý hiếm mà trái đất chỉ có thể tạo ra nó trong nhiều triệu năm phát triển
1.2.6. Nguyên tắc phân quyền và uỷ quyền
Các quyết định cần phải được soạn thảo bởi chính các cộng đồng bị tác động
hoặc bởi các tổ chức thay mặt họ và gần gũi nhất với họ. Vì vậy, các quyết định
quan trọng cần ở mức địa phương hơn là mức quốc gia, mức quốc gia hơn là mức
quốc tế. Như vậy, cần có sự phân quyền và uỷ quyền về sở hữu tài nguyên, về nghĩa
vụ đối với môi trường và về các giải pháp riêng của địa phương đối với các vấn đề
môi trường. Tuy nhiên, địa phương chỉ là một bộ phận của quốc gia và là một phần
nhỏ của các hệ thống quốc tế rộng lớn. Thông thường, các vấn đề môi trường có thể
phát sinh ngoài tầm kiểm soát địa phương, ví dụ như sự ô nhiễm nước và không khí
không có ranh giới địa phương và quốc gia. Trong trường hợp đó, nguyên tắc uỷ
quyền cần được xếp xuống thấp hơn các nguyên tắc khác.
1.2.7. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, người sử dụng môi trường phải

trả tiền
Người gây ô nhiễm phải chịu mọi chi phí ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm
đối với môi trường, bằng cách tính đầy đủ các chi phí môi trường nảy sinh từ các
hoạt động của họ và đưa các chi phí này vào giá cả của hàng hóa và dịch vụ mà họ
cung ứng. Người sử dụng các thành phần môi trường, tương tự như vậy cũng phải
trả thêm chi phí về những thành phần môi trường họ đã sử dụng. Các nguyên tắc
này là cơ sở quan trọng để tính thuế môi trường, phí môi trường và các khoản tiền
phạt trong sử dụng tài nguyên và các chức năng môi trường của doanh nghiệp và cá
nhân.

2. CÁC TIÊU CHÍ VÀ CHỈ THỊ VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Phát triển bền vững là mục tiêu phát triển của các quốc gia trên thế giới. Tuy
nhiên, làm thế nào để chúng ta có thể đánh giá được sự phát triển của một quốc gia
là bền vững hay không bền vững? Độ bền vững của sự phát triển thường được đánh
giá thông qua các tiêu chí và chỉ thị đo mức bền vững của 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội
nhân văn và môi trường. Theo định nghĩa của Ủy ban PTBV Liên hợp quốc thì tiêu
chí là “phạm trù các điều kiện hoặc quá trình theo đó việc quản lý bền vững có thể
được đánh giá”. Một tiêu chí được đặc trưng bằng một bộ các chỉ thị (indicator) - là
chỉ số, chỉ tiêu, hay thông số định lượng đặc trưng cho một hoặc một số tính chất
môi trường, kinh tế, xã hội nào đó, có thể được mô tả hoặc đo lường một cách định
lượng. Các chỉ thị này giúp định hướng quan trắc, giám sát định kỳ đánh giá diễn

Phát triển bền vững


219
biến về PTBV. Không có một tiêu chí hoặc chỉ thị đơn lẻ nào có thể đánh giá được
PTBV về một lĩnh vực nào đó mà cần phải có một bộ các tiêu chí và chỉ thị.
2.1. Bền vững về kinh tế
Bền vững về kinh tế có thể được đánh giá thông qua giá trị và mức ổn định

của các chỉ số tăng trưởng kinh tế truyền thống như: Tổng sản phẩm trong nước
GDP, tổng sản phẩm quốc gia GNP, GDP hay GNP bình quân đầu người, mức tăng
trưởng GDP, cơ cấu GDP
GDP hoặc GNP cho biết khả năng sản xuất và dịch vụ của một quốc gia. Chỉ tiêu
này cho phép so sánh mức độ phát triển kinh kế của một quốc gia ở những thời
điểm khác nhau cũng như so sánh sự phát triển của các quốc gia khác nhau trên thế
giới. GDP thường được điều chỉnh bằng sức mua thực của GDP, gọi tắt là PPP
(Purchase Parity Power). GDP/đầu người là giá trị trung bình về sản xuất và dịch vụ
mà một người dân trong quốc gia đó có thể làm ra. Chỉ thị này thể hiện quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và mức gia tăng dân số. Căn cứ vào GDP/người mà các tổ
chức quốc tế thường phân các quốc gia trên thế giới thành các nhóm: thu nhập thấp;
thu nhập trung bình thấp; thu nhập trung bình cao; và thu nhập cao (Lê Thạc Cán,
2002).
Tăng trưởng GDP thể hiện lượng tăng của GDP trong một năm cụ thể so với GDP
năm trước, tính bằng %. Một quốc gia phát triển bền vững về kinh tế phải bảo đảm
tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người cao. Các nước thu nhập thấp có mức
tăng trường GDP vào khoảng 5%. Nếu có mức tăng trưởng GDP cao nhưng GDP
bình quân đầu người thấp thì vẫn xem là chưa đạt tới mức bền vững (Nguyễn Đắc
Hy, 2003). Ngoài ra, nền kinh tế của một quốc gia thường gồm các lĩnh vực khác
nhau như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Mỗi một lĩnh vực có khả năng sinh
lợi khác nhau, nhưng thông thường thì lĩnh vực dịch vụ và công nghiệp sinh lợi
nhiều hơn nông nghiệp. Do đó, cùng một GDP như nhau nhưng nền kinh tế nào có
cơ cấu GDP với tỉ lệ dịch vụ và công nghiệp cao thì có khả năng tăng trưởng nhanh
hơn.
Chỉ tiêu bền vững mới về kinh tế được thiết lập trên cơ sở điều chỉnh các bất hợp lý
trong cách tính truyền thống: Chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội điều chỉnh ANP
(Anderson, 1991) được tính bằng cách lấy GNP trừ vốn đầu tư, tổn thất tài nguyên
thiên nhiên, cộng giá của lao động gia đình và dịch vụ thương mại không trả tiền;
Chỉ số phúc lợi kinh tế bền vững ISEW (Daly và Cobb, 1989) được tính bằng thu
nhập cá nhân có bổ sung giá trị lao động tại gia đình, giá của các dịch vụ tập thể

công cộng, suy thoái môi trường và suy giảm các giá trị liên quan tới an toàn của
con người. Năm 2002, Lê Trình và cộng sự đã thực hiện đề tài nghiên cứu xây dựng
các tiêu chí phát triển bền vững ở Việt Nam, trong đó đã đề xuất hai vấn đề, bốn
mục tiêu và 12 chỉ thị PTBV về kinh tế (xem Bảng 1). Các chỉ thị này được đưa ra
căn cứ vào các điều kiện của việc xác lập một chỉ thị đánh giá mức độ PTBV, điều
kiện thực tế về số liệu thống kê của Việt Nam và tham khảo bộ chỉ thị của Ủy ban
PTBV Liên hợp quốc cũng như của các quốc gia khác.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
220


Bảng 1. Các chỉ thị đánh giá phát triển bền vững về kinh tế
(Nguồn: Lê Trình và cộng sự 2002)
Chỉ thị Vấn
đề
Mục tiêu
Tên chỉ thị Đơn vị đo
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm
trong nước GDP
%
Tốc độ tăng trưởng GDP/đầu người %
Tỷ lệ GDP từng ngành kinh tế so với
GDP quốc gia
%
Tốc độ lạm phát %
Tỉ lệ đầu tư so với GDP %
Chênh lệch GDP giữa các vùng %
Tăng trưởng
kinh tế nhanh
và bền vững

nhằm
“chuyển dịch
mạnh cơ cấu
kinh tế, cơ
cấu lao động
theo hướng
công nghiệp
hóa, hiện đại
hóa”
Tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc
gia (GNP)
%
Mở rộng kinh
tế đối ngoại
Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu %
Cân bằng ngân sách Nhà nước Chênh lệch
thu chi (đồng)

Cấu
trúc
kinh tế
Đảm bảo nền
tài chính
mạnh
Tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP %
Tỷ lệ ngân sách dành cho công tác
BVMT so với tổng ngân sách nhà nước
% Đầu tư
cho
BVMT


Đầu tư thích
đáng cho bảo
vệ môi
trường
(BVMT)
Mức giải ngân hỗ trợ phát triển chính
thức cho bảo vệ môi trường
Đồng

2.2. Bền vững về xã hội
Tính bền vững xã hội của một quốc gia được đánh giá thông qua các tiêu chí
và chỉ thị như: chỉ thị phát triển con người (HDI- Human Development Index), chỉ
thị bất bình đẳng về thu nhập, tiêu chí về giáo dục, dịch vụ y tế và các hoạt động
văn hóa.
Chỉ thị phát triển con người HDI là chỉ số tổng hợp của tuổi thọ trung bình của
người dân (l), học vấn trung bình của người dân (e), và khả năng về kinh tế thể hiện
qua sức mua tương đương (Purchase Parity Power - PPP/người).
HDI = f (PPP/người, l, e)
Chỉ số HDI < 0,500 là chậm phát triển, HDI từ 0,501 - 0,799 phát triển trung
bình, HDI > 0,800 phát triển cao. Một quốc gia muốn phát triển bền vững thì phải
đạt điều kiện HDI tăng trưởng và HDI đạt trên mức trung bình.

Phát triển bền vững


221
Chỉ số bình đẳng thu nhập (hệ số Gini). Đây được xem là một tiêu chí về tính bền
vững xã hội của một quốc gia vì bất công bằng trong phân phối thu nhập là nguyên
nhân cơ bản của bất ổn xã hội, gây ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững. Hệ số

Gini bằng không trong trường hợp công bằng tuyệt đối trong thu nhập. Hệ số Gini
càng lớn chứng tỏ mức mất công bằng càng cao.
Tiêu chí về giáo dục đào tạo (thường được cụ thể hóa thành những chỉ thị như tỉ lệ
người biết chữ theo độ tuổi, tỉ lệ trẻ em học tiểu học, trung học, số sinh viên trên
10.000 dân, số học sinh/giáo viên, ngân sách nhả nước chi cho giáo dục bằng %
tổng ngân sách v.v.)
Tiêu chí về dịch vụ y tế xã hội, thường được cụ thể hóa thành các chỉ thị như: số
bác sĩ trên 1000 dân, số giường bệnh trên 1000 dân, tỷ lệ % dân được hưởng dịch
vụ y tế xã hội, tỷ lệ % dân được sử dụng nước sạch, tỉ lệ trẻ em dưới 12 tháng tuổi
được tiêm chủng đầy đủ, ngân sách nhà nước chi cho dịch vụ xã hội về y tế bằng %
tổng ngân sách, hoặc tổng GDP.
Tiêu chí về hoạt động văn hóa thường khó xác định hơn và được cụ thể hóa bằng số
tờ báo, ấn phẩm được phát hành cho 1000 dân, số thư viện trên 10.000 dân, số
người trên 1 tivi, số kết nối internet/1000 dân, số thuê bao điện thoại/1000 dân. Một
xã hội phát triển bền vững về giáo dục, y tế, và văn hóa phải có sự tăng trưởng của
các chỉ số nêu trên. Trên đây là các tiêu thí và chỉ thị cơ bản. Ngoài ra, Lê Trình và
cộng sự (2002) cũng đề xuất 35 chỉ thị cụ thể nhằm đánh giá phát triển bền vững về
mặt xã hội của một quốc gia. Các chỉ thị này đo lường tính bền vững của tám vấn đề
xã hội: nghèo đói, việc làm, dân số, y tế, giáo dục, nhà ở, an ninh trật tự xã hội và
văn hóa.
2.3. Bền vững về môi trường
Môi trường sống có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của từng cá thể con người cũng như toàn thể loài người. Theo Lê Thạc Cán
(2002), môi trường có ba chức năng chính: là không gian sống của con người, là nơi
cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con
người, và cũng là nơi chứa đựng và xử lý phế thải do con người tạo ra trong cuộc
sống và hoạt động sản xuất.
Để bảo đảm bền vững về môi trường trước hết cần phải bảo đảm bền vững
về không gian sống cho con người. Muốn vậy thì dân số phải không được vượt quá
khả năng chịu tải của không gian; Chất lượng môi trường được duy trì ở mức tốt

hơn hoặc tối thiểu phải bằng tiêu chuẩn cho phép; Lượng xả thải phải không vượt
quá khả năng tự xử lý, phân huỷ tự nhiên của môi trường. Sự bền vững về tài
nguyên thiên nhiên thể hiện ở chỗ lượng sử dụng phải nhỏ hơn hoặc bằng lượng
khôi phục tái tạo được với tài nguyên tái tạo, hoặc lượng thay thế với tài nguyên
không tái tạo. Để cụ giúp cho việc đánh giá sự phát triển bền vững về mặt môi
trường, Lê Trình và cộng sự (2002) xây dựng bộ 27 chỉ thị thuộc 11 mục tiêu và 7
vấn đề (xem Bảng 2). Hệ thống chỉ thị và các phương pháp xác định các chỉ thị này
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
222


cũng như các chỉ thị về mặt kinh tế, xã hội cần được nhiều nhà quản lý, khoa học,
doanh nghiệp góp ý để đi đến thống nhất và được Chính phủ phê chuẩn trước khi
đưa vào áp dụng đánh giá và so sánh mức độ phát triển bền vững của quôc gia tại
các thời kỳ khác nhau cũng như với các quốc gia khác trên thế giới.

Bảng 2. Bộ chỉ thị đánh giá tính bền vững về môi trường
(Nguồn: Lê Trình và cộng sự 2002)

Chỉ thị Vấn đề Mục tiêu
Tên chỉ thị Đơn vị

Tỷ lệ diện tích rừng (không tính cây công
nghiệp) so với diện tích tự nhiên
% Bảo vệ và sử
dụng hợp lý tài
nguyên thực vật
Diện tích cây xanh theo đầu người ở thành
phố, thị xã
m

2

Lượng phân bón được sử dụng trên diện
tích đất nông nghiệp
Kg/ha
Diện tích đất bị ô nhiễm do chất thải nguy
hại
Ha
Lượng hóa chất BVTV được sử dụng trên
diện tích đất nông nghiệp
Kg/ha
Đất
Bảo vệ chất lượng
đất
Diện tích đất bị sa mạc hóa, laterit hóa,
mặn hóa, phèn hóa hoặc bị ô nhiễm do
chất thải công nghiệp
Ha
Bảo vệ và sử dụng
hợp lý nguồn
nước
Tỷ lệ lưu lượng nước sông, suối, hồ, nước
ngầm được khai thác so với tổng trữ lượng
nguồn nước tương ứng
%
Số dòng sông lớn không đạt TCVN với
nguồn loại A theo thông số BOD và tổng
Coliform
Số
dòng

sông
Tỷ lệ số hồ lớn có chỉ số chất lượng nước
đạt loại tốt so với tổng số hồ lớn
%
Nước
Đảm bảo chất
lượng nước phù
hợp cho cuộc
sống con người và
sinh vật
Số bãi biển du lịch đạt TCVN về nước ven
bờ
Số bãi
Tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom xử
lý trên tổng số lượng chất thải nguy hại
%
Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom, xử
lý so với tổng khối lượng chất thải rắn đô
thị
%
Chất
thải
Ngăn ngừa ô
nhiễm nguồn
nước
Tải lượng ô nhiễm hữu cơ đưa vào nguồn
nước trong các lưu vực chính
Kg
BOD


Phát triển bền vững


223
Tỷ lệ lưu lượng nước thải đô thị và công
nghiệp từng ngành được xử lý đạt tiêu
chuẩn
%
Chỉ thị Vấn đề Mục tiêu
Tên chỉ thị Đơn vị

Đảm bảo chất
lượng không khí
phù hợp cho cuộc
sống con người
Số ngày có chỉ số chất lượng không khí ở
các khu dân cư thuộc loại “kém”
Số
ngày
Không
khí
Ngăn ngừa thay
đổi khí hậu
Tải lượng phát thải các khí nhà kính Tấn
Tỉ lệ diện tích vùng bảo tồn thiên nhiên so
với diện tích đất tự nhiên

%
Độ phong phú về số loài động vật hoang
dã trên cạn

Số loài
Đa
dạng
sinh
học
Bảo tồn đa dạng
sinh học
Độ phong phú về số loài và mật độ của
động vật thủy sinh
Số loài
Số vụ tràn dầu lớn được ghi nhận Số vụ
Số vụ ô nhiễm do chất thải gây tác hại đến
con người hoặc sinh vật
Số vụ
Phòng tránh sự cố
môi trường
Số vụ cháy rừng có diện tích bị cháy trên
10 ha
Số vụ
Sự cố
và tai
biến
môi
trường
Đáp ứng với thảm
họa thiên nhiên
Số vụ tai biến thiên nhiên (động đất, sạt
lở, lũ quét, bão) gây tác hại đến con người
(tính theo từng loại thiên tai)
Số vụ

Số cán bộ chuyên trách quản lý Nhà nước
về bảo vệ tài nguyên môi trường/100.000
dân
Số cán
bộ
Tỷ lệ số quận, huyện có đơn vị chuyên
trách quản lý môi trường trên tổng số
quận, huyện
%
Tỷ lệ số vụ khiếu kiện về môi trường được
xử lý trên tổng số vụ khiếu kiện
%
Năng
lực
quản lý
môi
trường
Nâng cao năng
lực quản lý môi
trường
Tỷ lệ cơ sở sản xuất kinh doanh đạt Tiêu
chuẩn môi trường trên tổng số cơ sở sản
xuất kinh doanh
%

3. HÀNH ĐỘNG Ở CẤP ĐỊA PHƯƠNG VÌ SỰ BỀN VỮNG TOÀN CẦU
3.1. Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
224



Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về môi trường và phát triển đã
được tổ chức tại Rio de Janeiro (Braxin) với 170 nước tham gia. Hội nghị đã thông
qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển gồm 27 nguyên tắc cơ bản
và Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21). Chương trình Nghị sự 21 vạch ra các
hành động cho sự phát triển bền vững của toàn thế giới. Hội nghị khuyến nghị các
quốc gia và địa phuơng từng bước căn cứ vào điều kiện và đặc điểm cụ thể của
mình mà xây dựng Chương trình Nghị sự 21 cho phù hợp.
Nhằm hướng tới sự phát triển bền vững Việt Nam đã xây dựng Chương trình
nghị sự 21 của Việt Nam. Đây là định hướng hoạt động để đưa đất nước chuyển
sang con đường phát triển bền vững. Nhận thức được phát triển là một quá trình
tổng thể của tăng trưởng kinh tế, nâng cao công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam nêu lên những thách thức mà quốc gia đang
phải đối mặt, đề ra những chủ trương, chính sách và những lĩnh vực hoạt động cần
được ưu tiên để có thể phát triển bền vững trong thế kỷ 21. Bản dự thảo lần cuối
Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam đã được trình lên Thủ tướng phê duyệt vào
tháng 8 năm 2002. Tài liệu chính thức của Việt Nam có nhan đề “Định hướng chiến
lược để tiến tới phát triển bền vững” đã được sử dụng tại Hội nghị thượng đỉnh về
phát triển bền vững tại Nam Phi (Johanesburg 26/8-4/9/2002) như một văn kiện nêu
rõ nhận thức, quan điểm chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam.
Những hoạt động cần ưu tiên được đề cập trong Chương trình Nghị sự 21
của Việt Nam là: (1) Tạo những điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế nhanh và
bền vững, bao gồm: tăng trưởng kinh tế nhanh, thay đổi mô hình tiêu dùng, công
nghiệp hóa sạch, phát triển bền vững nông-lâm-ngư nghiệp và phát triển bền vững
kinh tế vùng; (2) Tạo điều kiện phát triển bền vững về mặt xã hội: xóa đói giảm
nghèo, tiếp tục hạ thấp mức tăng dân số, định hướng quá trình đô thị hóa và di dân,
nâng cao chất lượng giáo dục và cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe và vệ sinh môi
trường sống; (3) Sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, gồm
các hoạt động sau: chống suy thoái và sử dụng bền vững tài nguyên đất, sử dụng và
quản lý tài nguyên nước, bảo vệ và phát triển rừng, giảm ô nhiễm không khí ở các

khu công nghiệp và đô thị, quản lý chất thải rắn, bảo tồn đa dạng sinh học; và (4)
Tổ chức quá trình chuyển sang con đường phát triển bền vững, gồm các hoạt động
như: huy động toàn dân tham gia thực hiện phát triển bền vững, tăng cường vai trò
lãnh đạo của Nhà nước trong việc tổ chức thực hiện phát triển bền vững và hợp tác
vì sự phát triển bền vững.

3.2. Chiến lược môi trường cho phát triển bền vững cấp quốc gia và địa
phương
Ở Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành quan điểm của Đảng và được
khẳng định trong nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX, trong
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 và trong Chiến lược môi
trường quốc gia. Chiến lược môi trường quốc gia đã được soạn thảo với sự tham gia
rộng rãi của các tổ chức chính phủ, các đoàn thể xã hội và đại biểu các tầng lớp

Phát triển bền vững


225
nhân dân. Kế hoạch này bao gồm 3 yếu tố: xác định các vấn đề ưu tiên, xác định
các hành động ưu tiên và đảm bảo cho sự thực thi thành công. Để chiến lược môi
trường có thể thực thi, các phân tích kinh tế và kỹ thuật cần phải được tổ chức một
cách sắc sảo với sự tham gia tích cực và uỷ thác của các đối tác. Việc quản lý môi
trường hữu hiệu đòi hỏi các đối tượng chiến lược phải thực hiện và gắn kết với các
yêu cầu xã hội, kinh tế và chính trị rộng rãi hơn.
Việc xây dựng khung chiến lược môi trường không nhất thiết phải xuất phát
từ con số không, mà có thể được xây dựng trên cơ sở các chính sách và kế hoạch có
sẵn của nhà nước hoặc các ban ngành địa phương. Chiến lược môi trường không
phải là một kế hoạch cứng nhắc, mà cần được liên tục bổ sung, nắn chỉnh khi có
những vấn đề mới nảy sinh. Tư vấn cho việc xây dựng chiến lược môi trường phải
bao gồm những người có chức trách về môi trường, những người bị ảnh hưởng bởi

các vấn đề môi trường, những người kiểm soát các công cụ giải quyết vấn đề,
những người nắm được thông tin và có trình độ chuyên môn cao.
Các vấn đề ưu tiên được lựa chọn trên cơ sở cân nhắc giữa tính cấp bách của
vấn đề, tính minh bạch về chính trị, khả năng tài chính, sự cân bằng các quyền lợi
chuyên ngành và địa phương, năng lực của các cơ quan sử dụng đầu tư. Sự thiếu
thông tin, thiếu minh bạch chính trị, nguy cơ phức tạp hóa vấn đề khi có sự tham gia
của cộng đồng, sức ép của các nhóm quyền lợi hùng mạnh ở địa phương hoặc khu
vực, thiếu tôn trọng các ưu tiên môi trường của các cơ quan địa phương là những
trở ngại đáng kể trong sắp xếp các vấn đề ưu tiên.
Để đảm bảo triển khai thành công chiến lược môi trường cần thiết phải lồng
ghép các mục tiêu môi trường vào các mục đích phát triển rộng hơn, như các dự án
và chính sách phát triển ngành, các chính sách kinh tế mở. Các mục tiêu môi trường
trong chiến lược cần mang tính hiện thực, cố gắng gắn kết với việc giảm chi phí
hoặc tăng cường sản xuất.
Nguồn tài chính cho thực thi chương trình có thể được huy động từ ngân
sách, đóng góp của người gây ô nhiễm, phí môi trường do người hưởng dịch vụ môi
trường đóng góp, tài trợ của các tổ chức cá nhân; có thể thành lập quỹ môi trường
quốc gia và địa phương.

3.3. Chính sách môi trường
Chính sách môi trường là các quy định của cơ quan hành chính quốc gia
hoặc cộng đồng nhằm sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Chính sách
có thể có dạng văn bản pháp quy (dưới luật) hoặc ở dạng bất thành văn. Chính sách
môi trường phải được ban hành và thực hiện hợp hiến, hợp pháp và thống nhất, đảm
bảo các nguyên tắc: 1- Người gây ô nhiễm và hệ quả xấu phải chịu trách nhiệm chi
phí xử lý ô nhiễm, khắc phục hậu quả và đền bù thiệt hại; 2- Hợp tác giữa các đối
tác và có sự tham gia của cộng đồng; 3- Nguyên tắc phòng ngừa.
Thông thường có một chính sách môi trường tốt quan trọng hơn là có nhiều
chính sách môi trường. Do đó cần chọn ưu tiên các vấn đề bức xúc để ra quyết định.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II

226


Đối với các nước đang phát triển, các vấn đề cần được ưu tiên là: khắc phục những
ảnh hưởng của môi trường đến sức khoẻ và năng suất lao động như ô nhiễm nước,
không khí ở đô thị, quản lý đất đai, rừng, tài nguyên nước; xây dựng kế hoạch hành
động quốc gia về bảo vệ môi trường theo các vấn đề ưu tiên, ví dụ như kế hoạch
hành động bảo vệ đa dạng sinh học của Việt Nam (Quyết định 845/TTg ngày
22/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ).
Theo Ngân hàng Thế giới, kế hoạch hành động toàn diện về môi trường cho
các nước có 5 yêu cầu chính: cơ cấu luật pháp rõ ràng; cơ cấu hành chính thích hợp;
có các kỹ năng về chuyên môn; ngân sách tương xứng; phân quyền trách nhiệm tốt
đi đôi với chuyển giao tài chính.

3.4. Quản lý môi trường
Quản lý môi trường là bộ môn khoa học có mục đích quản lý và điều chỉnh
hoạt động của con người; dựa trên sự tiếp cận có hệ thống, có tổ chức, có kế hoạch
đối với các vấn đề có liên quan với con người, được thực hiện bằng tập hợp các
công cụ kinh tế, xã hội, luật pháp, công nghệ kỹ thuật; hướng tới phát triển bền
vững và sử dụng hợp lý tài nguyên.
Quản lý môi trường sử dụng các kỹ thuật sau: 1- Giám sát môi trường và ra
quyết định; 2- Luật và chính sách môi trường; 3- Hoà giải xung đột môi trường; 4-
Báo cáo tổng quan môi trường; 5- Các kỹ thuật hỗ trợ như thông tin viễn thám, mô
hình toán lý, đánh giá nhanh ; 6- Các công cụ kinh tế; 7- Truyền thông môi trường.

4. CÔNG NGHỆ, KỸ THUẬT BỀN VỮNG
Công nghệ là kiến thức, kinh nghiệm, quy trình, thiết bị được sử dụng trong
hoạt động sản xuất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và cải thiện điều kiện
sống của con người. Kỹ thuật là tập hợp các công nghệ để sản xuất ra một loại sản
phẩm hàng hoá nhất định nào đó. Công nghệ, kỹ thuật bền vững bao gồm các loại

công nghệ và kỹ thuật cho phép khai thác bền vững các loại tài nguyên thiên nhiên
và xã hội, hướng tới việc xây dựng xã hội phát triển bền vững. Tuy chưa có các tiêu
chí để đánh giá tính bền vững của công nghệ và kỹ thuật bền vững nhưng một số
mục tiêu cơ bản của công nghệ và kỹ thuật bền vững có thể liệt kê bao gồm:
• Duy trì lâu dài các dạng tài nguyên không tái tạo của trái đất (năng lượng, tài
nguyên khoáng sản, gen di truyền, v.v.).
• Bảo tồn và duy trì vĩnh hằng các dạng tài nguyên tái tạo của trái đất (nước ngọt,
đất, sinh học, rừng, biển, v.v.).
• Nâng cao chất lượng cuộc sống về vật chất của con người (quốc gia và vùng
lãnh thổ) theo 4 độ đo: độ đo kinh tế, độ đo môi trường, độ đo xã hội và độ đo văn
hoá.

Phát triển bền vững


227
Một số hướng áp dụng cụ thể của công nghệ và kỹ thuật bền vững có thể bao gồm:
• Công nghệ và kỹ thuật tạo ra các nguồn tài nguyên và năng lượng mới cho loài
người (ví dụ như các loại công nghệ khai thác an toàn năng lượng phản ứng phân
rã và tổng hợp hạt nhân, công nghệ vật liệu mới: gốm, chất dẻo, sợi tổng hợp từ
sợi xenlulô, sợi từ đất đá, sợi thuỷ tinh)
• Công nghệ khai thác các nguồn tài nguyên không truyền thống và khó tiếp cận
(như công nghệ khai thác năng lượng mặt trời, năng lượng thủy triều, năng lượng
lòng đất, công nghệ khí hóa than )
• Công nghệ khai thác bền vững các nguồn tài nguyên năng lượng sạch (như
công nghệ và kỹ thuật khai thác năng lượng gió dùng trong giao thông, sản xuất
điện dân dụng, chế biến nguyên vật liệu, công nghệ và kỹ thuật sản xuất thuỷ điện
v.v.)
• Công nghệ giảm tiêu dùng nguyên liệu và năng lượng (ví dụ công nghệ và kỹ
thuật tăng cường hiệu quả đốt củi, than, dầu, giảm tiêu thụ nguyên liệu trong

ngành luyện kim, hoá chất, sản xuất vật liệu xây dựng v.v.)
• Công nghệ và kỹ thuật xanh (ví dụ như kỹ thuật xử lý cuối đường ống nhằm
phân tán phế thải, xử lý và tiêu huỷ chất thải, kỹ thuật giảm thiểu chất thải ô
nhiễm., công nghệ sạch và sản phẩm sạch
• Công nghệ sinh học trong nông nghiệp (như công nghệ và kỹ thuật lai tạo giống
cây trồng và vật nuôi, canh tác hoặc nuôi trồng cây và con, chế biến và bảo quản
sản phẩm nông nghiệp)
• Công nghệ và kỹ thuật gen, là một dạng đặc biệt của công nghệ sinh học, dựa
trên việc nghiên cứu khả năng thay đổi đặc điểm của gen gốc bằng các tác động
ngoại lai hoặc cấy ghép gen từ loài sinh vật này sang loài sinh vật khác.
• Công nghệ và kỹ thuật xử lý chất thải, tái quay vòng và tái chế chất thải (ví dụ
như công nghệ xử lý nước thải và sử dụng nước thải sinh hoạt để nuôi trồng thuỷ
hải sản, công nghệ đốt rác tận dụng năng lượng ở các nước phương Tây, công
nghệ chế biến rác thải sinh hoạt nguồn gốc hữu cơ thành phân Compost, công
nghệ sản xuất khí Biogas)
• Công nghệ và kỹ thuật xử lý, phục hồi môi trường như công nghệ và kỹ thuật
thay thế vật liệu xây dựng gây ô nhiễm môi trường, sản xuất hoá chất bảo vệ thực
vật ít gây ô nhiễm môi trường, thay thế các thiết bị gây ô nhiễm môi trường, công
nghệ và kỹ thuật xử lý ô nhiễm dầu, ô nhiễm phóng xạ trong đất và nước, xử lý
các hồ bị phú dưỡng, bị axít hoá và công nghệ điều chỉnh cân bằng sinh thái của
các vùng đất nước và hệ sinh thái.

5. QUẢN LÝ BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN TÁI TẠO VÀ KHÔNG TÁI TẠO
5.1. Cơ sở khoa học của việc quản lý khai thác tài nguyên thiên nhiên
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
228


Tài nguyên thiên nhiên bao gồm các dạng năng lượng, vật chất, thông tin tự
nhiên, tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người, có giá trị tự thân mà con

người đã biết hoặc chưa biết và con người có thể sử dụng được trong hiện tại và
tương lai để phục vụ cho sự phát triển của xã hội loài người. Hiện trạng sử dụng tài
nguyên của con người phụ thuộc vào tri thức, trình độ khoa học, công nghệ, khả
năng tài chính, văn hoá truyền thống, thói quen, tôn giáo tín ngưỡng
Tính thống nhất và có quy luật của tự nhiên đòi hỏi các hoạt động khai thác
tài nguyên môi trường phải dựa trên cơ sở: 1- Hiểu biết và có thể vận dụng các
nguyên lý sinh thái, quy luật tự nhiên để khai thác tối ưu tài nguyên, phòng tránh,
hạn chế rủi ro và tai biến thiên nhiên; 2- Hiểu biết đầy đủ nguyên nhân gây nên các
vấn đề môi trường để phòng tránh và ứng xử hợp lý, hạn chế và xử lý ô nhiễm môi
trường.
Cơ sở triết học của mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên khẳng định
sự phụ thuộc của con người và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội; Nó cũng
chứng tỏ vai trò điều khiển có ý thức của con người trong mối quan hệ giữa hệ xã
hội và hệ tự nhiên, vai trò và giá trị của đa dạng văn hoá trong phát triển. Các giá trị
văn hoá truyền thống, hình thành một cách có chọn lọc trong quá trình hệ xã hội
không ngừng tương tác với hệ tự nhiên, tỏ ra có tính thích nghi phù hợp nhất định
với điều kiện địa phương, cho phép hệ xã hội khai thác bền vững hệ tự nhiên của
mình trong những điều kiện nhất định, đặc biệt là khi dân số hạn chế. Do đó, chúng
ta cần bảo vệ và phát huy vai trò của đa dạng văn hoá, phát huy bài học truyền
thống về chung sống hoà bình, cùng tồn tại với thiên nhiên và nâng cao hiệu quả
của tổ chức xã hội các cấp trong điều chỉnh hành vi để sử dụng bền vững tài nguyên
và bảo vệ môi trường.
Tài nguyên thiên nhiên được phân thành 3 loại:
• Tài nguyên vô tận, bao gồm năng lượng bức xạ mặt trời, thuỷ triều, địa nhiệt,
sóng, gió Đây là dạng tài nguyên có khả năng cung cấp rất lâu dài, đa phần thuộc
loại không chứa đựng nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, nên cần được khai thác tối
đa. Tuy nhiên, do cường độ cấp của các loại năng lượng này thường nhỏ, biến
trình cấp biến động phức tạp và không trùng pha với nhu cầu, công nghệ khai thác
hiện nay chưa hoàn thiện, tiêu tốn nhiều đất đai, nên chưa được các đối tượng sử
dụng lựa chọn.

• Tài nguyên có khả năng tự tái tạo, như đất thổ nhưỡng, sinh vật, nước Khả
năng tự tái tạo của các loại tài nguyên này là có giới hạn và có điều kiện, nghĩa là
nếu sử dụng quá giới hạn khả năng tái tạo, hay làm tổn thương các điều kiện cần
cho khả năng tái tạo thì tài nguyên sẽ bị cạn kiệt; Nguyên tắc sử dụng bền vững tài
nguyên này là: Sử dụng trong phạm vi khả năng tái tạo và không làm tổn thương
các điều kiện cần cho khả năng tái tạo.
• Tài nguyên không có khả năng tự tái tạo, bao gồm các loại tài nguyên khoáng
sản có khả năng tái chế (như kim loại) và các khoáng sản không có khả năng tái
chế (phi kim, nhiên liệu hoá thạch), là tài nguyên bị giảm dần trong quá trình sử

Phát triển bền vững


229
dụng và có nguy cơ bị cạn kiệt; Nguyên tắc tiếp cận sử dụng bền vững tài nguyên
này là: Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tận dụng khả năng tái chế và tìm kiếm công
nghệ thay thế hợp lí.
5.2. Quy luật tự nhiên định hướng nguyên tắc quản lý tài nguyên nước
Tài nguyên nước hình thành theo lưu vực, do vậy quản lý tài nguyên nước
không đơn thuần là quản lý lượng nước có trong sông, mà phải bảo vệ toàn bộ các
điều kiện hình thành dòng chảy trên lưu vực, nghĩa là quản lý phát triển, sử dụng tài
nguyên và bảo vệ môi trường theo lưu vực.
Tài nguyên nước của một địa phương bao gồm hai loại chính: nguồn nội địa,
do mưa rơi trên vùng đó sinh ra và nguồn ngoại lai, theo các sông chảy vào. Chất và
lượng nước ngoại lai không chịu sự kiểm soát trực tiếp của địa phương, nên những
chính sách dùng nước dựa vào nguồn cấp này không đảm bảo độ an toàn và thành
công cao.
Tài nguyên nước có khả năng tái tạo về lượng. Chu kỳ tái tạo (đổi mới) càng
ngắn giá trị sử dụng của tài nguyên càng cao. Nước trong khí quyển và sông ngòi có
tốc độ đổi mới nhanh nhất, nước ngầm nằm sâu và nước trong băng tuyết vĩnh cửu

có tốc độ đổi mới chậm nhất. Mức sử dụng một lần lượng nước, về mặt nguyên tắc,
không được vượt quá khả năng tự tái tạo về lượng, tính bằng tổng lượng dòng chảy
của khu vực trong thời gian đó. Tài nguyên nước biến động mang tính chu kỳ mùa
và nhiều năm rõ nét, do vậy mức trần lượng khai thác theo thời gian biến động theo
quy luật tự nhiên; Khả năng điều tiết của kho nước giúp điều chỉnh trần mức khai
thác ổn định về bằng trung bình (theo chu kỳ trọn vẹn) trần mức khai thác tự nhiên
của tài nguyên. Trần mức khai thác nước trong thuỷ vực phải đảm bảo không làm
cho mực nước sông xuống dưới mức thấp nhất mà hệ sinh thái nước nói riêng và hệ
sinh thái tự nhiên lưu vực nói chung tồn tại được, có thể lấy bằng mực nước trung
bình tháng thấp nhất ứng với những tần suất nhất định.
Khả năng tái tạo về chất của tài nguyên nước được thực hiện thông qua các
quá trình pha loãng, lắng đọng, phát tán vật chất theo dòng trong chu trình tuần
hoàn, phản ứng hoá học tạo chất mới ít độc hơn, biến đổi sinh học và tích luỹ sinh
học theo dây chuyền thức ăn. Khả năng tự tái tạo về chất phụ thuộc vào đặc điểm
nguồn cấp, tốc độ đổi mới nước, đặc điểm hoá lý, sinh khối nước và các quá trình
động lực trong nó. Khai thác tối ưu khả năng tự làm sạch về chất chỉ thực hiện được
khi các điều kiện tự nhiên ổn định và cần thoả mãn các điều kiện: Lượng thải,
cường độ thải vào thuỷ vực không vượt quá khả năng tự làm sạch của nó, thành
phần chất thải chỉ bao gồm những chất không độc hại cho môi trường, hoặc những
chất mà thuỷ vực có thể làm sạch được.

5.3. Công cụ quản lý tài nguyên
5.4.1. Các nguyên tắc đạo đức mới
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
230


Phát triển bền vững là sự phát triển mang tính đạo đức, nó đòi hỏi có những
thay đổi quan trọng mang tính định hướng trong quan niệm cũng như hành vi liên
quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên môi trường, do vậy cần thiết phải có những

nguyên tắc đạo đức mới dựa trên nền tảng khoa học của phát triển bền vững. Như
Mục 1.1. đã trình bày, Hội nghị Rio 1992 đã đưa ra 9 nguyên tắc đạo đức mới cơ
bản cho phát triển bền vững, còn năm 1995 Luc Hens đưa ra 7 nguyên tắc đạo đức
với cho phát triển bền vững.
5.3.2. Công cụ luật pháp
Luật pháp quốc tế là các văn kiện quốc tế được ký kết giữa các quốc gia một
cách tự nguyện, nhằm ấn định, sửa đổi, hoặc huỷ bỏ những quyền và nghĩa vụ đối
với nhau, có nội dung phù hợp với những nguyên tắc cơ bản được thừa nhận rộng
rãi của luật quốc tế hiện đại. Các văn bản luật pháp quốc tế liên quan đến quản lý tài
nguyên môi trường hiện nay gồm: Hiến chương, là một loại điều ước quốc tế nhiều
bên, ấn định những nguyên tắc lớn trong quan hệ giữa các nước với nhau; Công ước
là những điều ước quốc tế có tính chuyên môn; Nghị định thư là văn kiện dùng để
giải thích bổ sung, sửa đổi một điều ước quốc tế đã được ký kết, hoặc để ấn định
những biện pháp cụ thể thực hiện các hiệp ước, hiệp định nào đó; Tuyên bố chung
là văn kiện ghi nhận những thoả thuận hai hay nhiều nước về những nguyên tắc
hoặc phương hướng hành động chung đối với một vấn đề quốc tế nào đó; Thoả ước
là điều ước quốc tế có tính chuyên môn trong một khu vực. Hiệp định là loại điều
ước quốc tế ấn định những nguyên tắc và những biện pháp hành chính nhằm giải
quyết một quan hệ cụ thể nào đó giữa hai hay nhiều nước. Tính đến cuối 1992 đã có
840 văn bản pháp lý quốc tế về môi trường hoặc liên quan đến môi trường được ký
kết.
Luật và chính sách quản lý tài nguyên, môi trường quốc gia là các qui tắc
ứng xử môi trường do các cơ quan Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan
hệ xã hội, tạo ra khuôn mẫu ứng xử thống nhất trong lĩnh vực sử dụng, khai thác tài
nguyên và bảo vệ môi trường. Nguyên tắc chủ đạo của việc ban hành và thực thi
luật và chính sách là: 1- Hợp hiến, hợp pháp và thống nhất; 2- Người gây ô nhiễm
phải trả tiền; 3- Phòng bệnh hơn chữa bệnh; 4- Hợp tác giữa các đối tác; 5- Sự tham
gia của cộng đồng.
Việt Nam có các văn bản luật pháp về tài nguyên và môi trường sau: Luật
Bảo vệ Môi trường (1994), Luật Bảo vệ và Phát triển Rừng (1991), Luật Đất đai

(1993), Luật Dầu khí (1993), Luật Khoáng sản (1996), Luật Tài nguyên Nước
(1998), Pháp lệnh về Thu thuế Tài nguyên (1989), Pháp lệnh Nuôi trồng Thuỷ sản.
5.3.3. Công cụ kinh tế quản lý tài nguyên
Quyền sở hữu tài nguyên: Quyền sở hữu là cơ sở quan trọng cho việc sử
dụng có hiệu quả tài nguyên. Khi quyền sở hữu được xác định rõ ràng, mang tính
độc chiếm, được đảm bảo, dài hạn, có thể chuyển nhượng và có tính cưỡng chế, thì
chỉ có chủ sở hữu mới có quyền khai thác tài nguyên.

Phát triển bền vững


231
Khi tài nguyên không thuộc sở hữu riêng, ví dụ như các ngư trường trên
biển, sẽ xảy ra những khả năng sau: Nếu lợi nhuận khai thác tài nguyên lớn, chi phí
khai thác thấp trong khi giá bán cao, những người mới sẽ bị cuốn hút vào khai thác,
gây khó khăn cho việc kiểm soát khai thác theo quy luật sinh thái và bảo vệ môi
trường, dễ gây cạn kiệt tài nguyên (ví dụ như việc bắt voi); Khi lợi ích khai thác tài
nguyên không lớn hơn lợi ích trung bình từ các hoạt động kinh tế khác trong khu
vực, việc khai thác tài nguyên không những không hấp dẫn thêm được người mới,
mà còn khiến một số người từ bỏ khai thác. Rõ ràng, nghèo khó, mặt bằng kinh tế
thấp là những nguy cơ lớn gây cạn kiệt tài nguyên địa phương trong điều kiện mở
cửa, tài nguyên không có chủ sở hữu riêng và để bảo vệ, khai thác hợp lý tài
nguyên, một trong những giải pháp cần là xoá đói giảm nghèo.
Thuế tài nguyên: trước đây là loại thuế điều tiết thu nhập trong hoạt động
khai thác tài nguyên. Để bảo vệ tài nguyên, có thể sử dụng thuế tài nguyên như một
công cụ giúp điều chỉnh mức độ khai thác không vượt quá ngưỡng mong muốn.
Một số công cụ kinh tế có vai trò giúp bảo vệ môi trường, nên cũng có ý
nghĩa tích cực đối với bảo vệ tài nguyên, đó là:
Thuế môi trường: là khoản thu vào ngân sách nhà nước nhằm điều tiết các
hoạt động bảo vệ môi trường quốc gia, gây quỹ để tài trợ cho hoạt động (thuế ô

nhiễm để xử lý hoặc đền bù ô nhiễm), bù đắp các chi phí xã hội phải bỏ ra để giải
quyết các vấn đề môi trường như: chi phí y tế, nghỉ chữa bệnh, phục hồi môi
trường, phục hồi tài nguyên, xử lý và ngăn ngừa ô nhiễm và cũng là hình thức hạn
chế một sản phẩm hay hoạt động không có lợi, thúc đẩy thay đổi mặt hàng, cách sản
xuất (đánh thuế cao vào các hàng hoá gây ô nhiễm trong sản xuất hoặc tiêu dùng),
khuyến khích các hoạt động tích cực (giảm thuế cho các sản phẩm tái chế, tăng thuế
các hàng hoá tiêu thụ tài nguyên gốc, tài nguyên không tái tạo ).
Phí môi trường: là khoản thu của nhà nước nhằm bù đắp một phần chi phí
thường xuyên và không thường xuyên về xây dựng, bảo dưỡng, tổ chức quản lý
hành chính của nhà nước đối với hoạt động của người nộp thuế, ví dụ như phí xử lý
nước thải, khí thải, chôn lấp và phục hồi môi trường trên bãi rác Phí môi trường
có vai trò quan trọng nhất trong kiểm soát ô nhiễm công nghiệp. Phí môi trường có
thể được thu dựa vào: lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường, mức tiêu thụ nguyên
nhiên liệu gây ô nhiễm, tổng doanh thu hoặc tổng sản lượng hàng hoá, lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Lệ phí môi trường: là khoản thu có tổ chức, bắt buộc đối với các cá nhân,
pháp nhân được hưởng một lợi ích hoặc sử dụng một dịch vụ nào đó do nhà nước
cung cấp, ví dụ lệ phí vệ sinh môi trường, thu gom rác, giám sát thanh tra môi
trường, cấp giấy phép môi trường
Phạt ô nhiễm: mức phạt hành chính đánh vào các vi phạm môi trường, được
quy định cao hơn chi phí ngăn ngừa phát sinh ô nhiễm, nhằm mục tiêu vừa răn đe
đối tượng vi phạm, vừa có kinh phí cho khắc phục ô nhiễm.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
232


Côta thải (định mức thải cho phép): Mức thải cho phép được xác định trên
cơ sở khả năng tiếp nhận chất thải của môi trường, được chia thành các định mức
(côta) và phân phối cho các cơ sở được quyền phát thải trong khu vực. Các cơ sở
này chỉ được quyền phát xả theo hạn ngạch, nếu vượt quá sẽ bị xử phạt. Trong thực

tế, nhu cầu xả thải của các cơ sở là khác nhau và thay đổi theo nhịp độ sản xuất;
Một số cơ sở có công nghệ xử lý chất thải sẽ không có nhu cầu xả thải tự do. Từ đó
xuất hiện các khả năng thừa hoặc thiếu quyền phát xả theo định mức, dẫn tới hình
thành thị trường mua bán quyền được xả thải, tạo ra hiệu quả kinh tế tối ưu cho khu
vực.
Ký quỹ và hoàn trả: áp dụng cho các ngành kinh tế dễ gây ô nhiễm môi
trường trầm trọng như khai thác tài nguyên khoáng sản. Khoản ký quỹ phải lớn hơn
hoặc xấp xỉ kinh phí cần thiết để xử lý, khắc phục ô nhiễm môi trường trong trường
hợp rủi ro. Nó sẽ được trả lại khi nguy cơ ô nhiễm không còn.
Nhãn sinh thái: Danh hiệu của các tổ chức môi trường dành cho các sản
phẩm có sử dụng những công nghệ hoặc giải pháp thân môi trường, nhằm cung cấp
thông tin và khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hoá vì mục tiêu bảo vệ môi
trường.
Trợ cấp môi trường: Cấp phát ngân sách cho nghiên cứu khoa học, triển
khai công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới, khuyến khích về thuế và lãi suất vay vồn,
quản lý môi trường, kiểm soát môi trường, giáo dục môi trường Trợ cấp tài chính
có thể tạo ra các khả năng giảm thiểu ô nhiễm, nhưng không khuyến khích doanh
nghiệp đầu tư cho môi trường, không tạo ra cạnh tranh bình đẳng và tiêu tốn ngân
sách.
Quỹ môi trường: được thành lập từ các nguồn kinh phí khác nhau, như ngân
sách nhà nước, đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, đóng góp tự nguyện,
đóng góp từ các công cụ kinh tế môi trường khác, hỗ trợ phát triển từ nước ngoài ;
Dùng chi khuyến khích các hoạt động bảo vệ môi trường. Hiện có quỹ môi trường
toàn cầu GEF với kinh phí hoạt động hàng năm khoảng 2-3 tỷ USD.
Công cụ kỹ thuật quản lý môi trường bao gồm: thiết bị đo đạc kiểm soát môi
trường, xử lý chất thải, công nghệ, kỹ thuật bền vững
Quản lý hành chính về môi trường: xây dựng các chính sách môi trường, quy
hoạch môi trường, chương trình hành động vì môi trường, đánh giá tác động môi
trường, xây dựng bộ tiêu chuẩn môi trường.
Tiêu chuẩn ISO 14001, do Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) ban hành, là

bộ tiêu chuẩn về thực hiện quản lý môi trường trong hoạt động kinh doanh của ISO,
đã có những tác động tích cực tới kiểm soát ô nhiễm môi trường.

Phát triển bền vững


233
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cục Môi trường, Bộ Môi trường và Tài nguyên (2000), Chương trình nghị sự 21
của Việt Nam: Định hướng hoạt động để đưa Việt Nam chuyển sang con đường
phát triển bền vững.
2. Lê Thạc Cán (2002), Kiến nghị về phương pháp xây dựng hệ thống các chỉ thị
PTBV, chuyên đề của đề tài: “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững
của Việt Nam”, Viện Môi trường và Phát triển Bền Vững, Hà Nội.
3. Lê Trình, Trần Thị Tuyết Hạnh, Ngô Thanh Tâm, Hà Cẩm Vân (2002), Đề xuất
định nghĩa, lý do lựa chọn và phương pháp xác định các tiêu chí (chỉ thị) phát
triển bền vững, chuyên đề của đề tài: “Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển
bền vững của Việt Nam”, Hà Nội.
4. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh (2000), Quản lý môi trường cho sự phát triển
bền vững. Nxb. ĐHQGHN.
5. Nguyễn Đình Hoè (2002), Tập bài giảng về Môi trường và phát triển. Khoa Môi
trường, ĐHKHTN.
6. Nguyễn Đắc Hy (2003), Phát triển bền vững trong tầm nhìn của thời đại, Viện
Sinh thái và Môi trường, Hà Nội
7. United Nations, Department of Economic and Social Affairs, Devision for
Sustainable Development (2002), The World Summit on Sustainable
Development. Johannesburg 26 August to 4 September 2002.
8. Viện nghiên cứu chiến lược khoa học và chính sách khoa học & công nghệ
(2001), Thế giới bền vững - Định nghĩa và trắc lượng phát triển bền vững. Sách

dịch, lưu hành nội bộ, Hà Nội.
9. Vụ Khoa học Giáo dục Môi trường (2002), Tổng quan về nghiên cứu chỉ thị, chỉ
số, tiêu chí phát triển bền vững ở Việt Nam. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
234


Bài tập tình huống 1

MỤC TIÊU
Sau khi làm xong bài tập tình huống này, sinh viên có khả năng:
1. Áp dụng được những khái niệm về phát triển bền vững trong tình huống thực
tế
2. Phân tích được mối quan hệ giữa việc sử dụng không bền vững các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và suy thoái môi trường
3. Đề xuất được những chiến lược khả thi để giảm thiểu những tác động tiêu
cực của con người lên môi trường và sức khoẻ cộng đồng

Tình huống

Tháng 3 và tháng 5 năm 2002, hai vụ cháy rừng lớn đã xẩy ra làm huỷ hoại
khoảng 5000 hecta rừng tràm ở miền Nam, Việt Nam. Một công ty lớn của Mỹ
đang đề xuất một kế hoạch cho dự án phát triển tại khu rừng đước này. Kế hoạch đề
xuất xây dựng trên khu vực rừng vừa bị cháy 2 làng với dân số khoàng 10.000 dân,
một diện tích khoàng 1000 héc ta dành cho trồng cây keo lai và 1000 héc ta nuôi
tôm xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông. Chính phủ Việt Nam rất quan tâm tới đề
cương của dự án này nhưng cũng đang cân nhắc về những tác động tiềm tàng của
dự án lên sự phát triển bền vững của khu rừng. Chính vì vậy, chính phủ yêu cầu các
chuyên gia về lĩnh vực phát triển bền vững đến từ trường Đại học Y tế công cộng
xem xét đề cương và báo cáo lại với chính phủ về những tác động của dự án lên môi

trường, con người và sự phát triển bền vững.

Anh/chị là những chuyên gia đến từ trường Đại học Y tế công cộng và nhận
nhiệm vụ báo cáo với chính phủ về những vấn đề này. Trong báo cáo của
anh/chị, hãy xem xét những câu hỏi sau đây:
1. Rừng tràm có những vai trò gì?
2. Hai vụ cháy trên đã gây ra những tác động gì?
3. Rừng tràm này có thể tái sinh được không?
4. Việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản sẽ có những tác động gì tới môi trường
địa phương?
5. Theo anh/chị, dự án trồng cây keo lai có đảm bảo phát triển bền vững?


Phát triển bền vững


235
Bài tập tình huống 2
Thủy điện Sơn La - Công trình thế kỷ
11h ngày 2 tháng 12 năm 2005, lần thứ hai dòng sông Đà bị
con người chặn lại để xây dựng thêm một “công trình thế kỷ”
– Nhà máy Thủy điện Sơn La. Công trình Thủy điện Sơn La
nằm trên sông Đà, tại xã Ít Ong, huyện Mường La, tỉnh Sơn
La, cách Thủy điện Hòa Bình khoảng 250 km về phía thượng
lưu, hồ chứa nằm trên địa bàn của 3 tỉnh Sơn La, Điện Biên
và Lai Châu. Tổng dung tích hồ chứa là 9.260 triệu m
3
, dung
tích hữu ích là 6.504 triệu m
3

. Dung tích phòng lũ cùng với
hồ Hòa Bình là 7 tỷ m
3
.
Dự án Thủy điện Sơn La được Quốc hội quyết định thông qua chủ trương đầu tư tại
Nghị quyết số 44/2001/QH10 ngày 29/6/2001, trong đó đã đề ra 3 nhiệm vụ và 5
yêu cầu. 3 nhiệm vụ là:
- Cung cấp nguồn điện năng để phát triển kinh tế – xã hội phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
- Góp phần chống lũ về mùa mưa và cung cấp nước về mùa kiệt cho đồng
bằng Bắc Bộ.
- Góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Bắc.
Dự án Xây dựng công trình thủy điện Sơn La bao gồm các hạng mục chính: đập
chính, đập tràn, cửa lấy nước, đường dẫn nước áp lực, nhà máy thủy điện sau đập
với 6-8 tổ máy, trạm biến áp, trạm phân phối điện ngoài trời, hệ thống điều khiển,
bảo vệ, thông tin liên lạc; hệ thống đường dây tải điện 220-500 kV đấu nối với hệ
thống điện quốc gia.
Để thực hiện công trình này, từ 3 năm nay, 18.500 hộ dân của 3 tỉnh Sơn La, Lai
Châu, Điện Biên đã dời khỏi nơi chôn rau cắt rốn, bỏ nơi canh tác của mình để dành
đất cho thuỷ điện. Trong khi đó lại là những nghèo nhất cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo
trên 60%.
Dưới góc độ sinh học, sinh thái học, vùng Tây Bắc với các hệ sinh thái đặc trưng
chứa đựng một nguồn tài nguyên sinh vật với mức đa dạng sinh học cao, có nhiều
loài động vật, thực vật có giá trị kinh tế. Đây là nguồn tài nguyên đang được con
người khai thác sử dụng. Mặt khác, thảm rừng bên cạnh là hệ sinh thái quan trọng,
là nơi cư trú cho hầu hết các nhóm động vật hoang dại. Chúng còn có vai trò chống
xói mòn đất vùng lưu vực sông Đà.
Nguồn: Tạp chí Công nghiệp, vnexpress, Báo ảnh Việt Nam

Câu hỏi:

1. Anh/chị hãy trình bày những lợi ích Thủy điện Sơn La đem lại.
Mô hình Thuỷ điện
Sơn La
- Giáo trình Sức khoẻ môi trường II
236


2. Anh/chị hãy nêu những ảnh hưởng đối với hệ sinh thái (hệ sinh thái trên
cạn, dưới nước), kinh tế-xã hội (những biến động về dân cư, văn hóa, xã
hội ), sức khỏe cộng đồng địa phương (cả trong quá trình di chuyển và ổn
định cuộc sống mới).
3. Dựa vào các nguyên tắc công bằng giữa các thế hệ, công bằng trong
cùng một thê hệ và phân quyền và ủy quyền, anh/chị hãy đề xuất
những biện pháp khả thi nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của địa
phương (những biện pháp liên quan tới thủy điện Sơn La).

Phát triển bền vững


237
CÂU HỎI TỰ LƯỢNG GIÁ

1. Điền từ thích hợp vào câu sau:
Phát triển bền vững là sự phát triển nằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của
con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của

2. Hãy nêu tên những nguyên tắc phát triển bền vững của Luc Hens (1995)
3. Nêu nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền, người sử dụng môi trường
phải trả tiền. Nêu tác dụng cụ thể của nguyên tắc này.
4. Hãy nêu tác hại của việc khai thác rừng mưa Brazin.

5. Nêu khái niệm về phát triển bền vững của Uỷ ban quốc tế về Môi trường và
Phát triển.
6. Hãy nêu 5 đặc điểm của phát triển bền vững.
7. Phát triển bền vững có thể được đánh giá dựa vào những tiêu chí và chỉ thị
nào?
8. Hãy nêu một số hướng áp dụng cụ thể của công nghệ và kỹ thuật bền vững.
9. Nêu một số công ước quốc tế về bảo vệ môi trường và tài nguyên mà Việt
Nam tham gia.
10. Thuế và phí môi trường là gì?
11. Nêu khái niệm về Cota thải.
12. Nêu tên công cụ kinh tế quản lý tài nguyên.






×