Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

thực thi nhiệm vụ thu hồi đất trái pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.34 KB, 8 trang )

Bài làm
I. Mở bài.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, là nền
tảng để xây dựng các ngành kinh tế quốc dân, khu dân cư đô thị và nông thôn.Để đẩy
mạnh phát triển kinh tế xã hội,Nhà nước có quyền thu hồi đất nhằm sử dụng đất vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh
tế ;... Tuy nhiên trong thực tế, việc thu hồi đất còn nhiều vướng mắc. Sau đây là tình
huống liên quan đến việc bồi thường khi thu hồi đất: “Hộ gia đình ông A năm 1989
được UBND huyện cấp đất ở ,diện tích là 200m2 sát đường quốc lộ. Việc giao đất tại
thực địa do UBND xã thực hiện nhưng không có giấy tờ thể hiện mốc giới cách mép
đường là bao nhiêu. Hiện nay đo tới sát mép đường vẫn là 200m2 .Năm 2008 UNND
huyện thu hồi 30m2 để mở rộng đường nhưng không bồi thường, không có quyết định
thu hồi đất vì cho rằng phần đất bị thu hồi nằm trong hành lang an toàn giao
thông .Hộ ông A không đồng ý và không thực hiện yêu cầu trả đất cho hội đồng
GPMB. UBND huyện đã tổ chức cường chế( không có quyết định cưỡng chế).”
II. Tìm hiểu tình huống
1. UBND huyện có các hành vi hành chính nào khi thực thi nhiệm vụ thu hồi
đất trái pháp luật
UBND huyện đã có các hành vi hành chính để thực thi nhiệm vụ thu hồi đất trái pháp
luật là:
Thứ nhất, căn cứ vào Luật đất đai 2003, tại khoản 2 Điều 39 có quy định:
"2. Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là chín mươi ngày đối với đất nông nghiệp và
một trăm tám mươi ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải thông báo cho người bị thu hồi đất biết lý do thu hồi, thời gian và kế
hoạch di chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư.
3. Sau khi có quyết định thu hồi đất và phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng,
tái định cư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, được công bố công
khai, có hiệu lực thi hành, người bị thu hồi đất phải chấp hành quyết định thu hồi
đất....”
1
Theo quy định trên, sau khi có quyết định thu hồi đất ,phương án bồi thường, giải


phóng mặt bằng, tái định cư thì người bị thu hồi đất mới phải chấp hành quyết định
thu hồi đất. Tuy nhiên ,năm 2008 UBND huyện đã thu hồi 30m2 để mở rộng đường
mà không có quy đinh thu hồi đất .Như vậy, việc thu hồi 30m2 của UBND huyện trên
là trái pháp luật.
Thứ hai, Căn cứ vào điều 42, điều 43 của Luật đất đai 2003, căn cứ vào nghị định
197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 thì ông A có điều kiện để được bồi thường. Khoản
1 Điều 42 Luật đất đai 2003 có quy định:
“1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi
thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12
Điều 38 và các điểm b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của Luật này.”
Trong trường hợp này, hộ gia đình ông A đã được UBND huyện giao 200m2 đất ở sát
đường quốc lộ, nên đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(theo điều 50 Luật đất đai 2003) ,khi bị thu hồi đất thì được bồi thường. Như vậy,rõ
ràng việc không bồi thường cho ông A của UBND huyện cũng là không đúng.
Thứ ba, Căn cứ vào khoản 3 Điều 39 Luật đất đai 2003 cũng có quy định:
“Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế. Người
bị cưỡng chế thu hồi đất phải chấp hành quyết định cưỡng chế và có quyền khiếu
nại.”
Như vậy, khi tiến hành cưỡng chế, UBND huyện đã không có quyết định cưỡng chế
mà lại tổ chức cưỡng chế, điều đó có nghĩa là UBND huyện đã làm sai.
2. Hộ ông A không được bồi trường đúng hay sai ? Vì sao ?
Trong trường hợp này, hộ ông A không được bồi thường là sai. Việc đất bị thu hồi có
được bồi thường hay không phụ thuộc vào hồ sơ đất, nguồn gốc đất để xác định đất có
được cấp, sử dụng hợp pháp hay không. Và quan trọng nhất là có đủ tài liệu chứng
minh sự hợp pháp này.
2
Thứ nhất, căn cứ vào điều 8 nghị định của Chính phủ số 197/2004/NĐ-CP ngày

3/12/2004 về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất:
“Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi
thường:
1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật về đất đai.
3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường thị trấn
xác nhận không có tranh chấp mà có trong các loại giấy tờ sau đây:
a. Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có
thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt nam
dân chủ cộng hoà…”
Căn cứ vào Điều 42: Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi Luật đất đai
năm 2003:
“1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của điều 50 của luật này thì người bị thu hồi đất được bồi
thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7,8 ,9, 10, 11, và 12
điều 38 và các điểm b, c, d,đ, g khoản 1 điều 43 của luật này”.
Như vậy, đất của hộ ông A được UBND huyện cấp cho từ năm 1989, đất ở có diện
tích là 200m2 sát đường quốc lộ nên ông A có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, đồng thời cũng không thuộc các trường hợp được quy định
tại khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7,8 ,9, 10, 11, và 12 điều 38 và các điểm b, c, d,đ, g khoản 1
điều 43 Luật đất đai 2003. Hộ ông A có đủ điều kiện để được bồi thường. Việc đến
năm 2008 UBND huyện thu hồi đất của ông A mà không bồi thường là không đúng.
Thứ hai, khi UBND thu hồi 30m2 để mở rộng đường mà không bồi thường vì cho
rằng phần đất bị thu hồi nằm trong hành lang an toàn giao thông.
Nghị định số 02/1982 ngày 21/02/1982 của Hội đồng bộ trưởng qui định về hành lang
an toàn giao thông đường quốc lộ là 15m tính từ mép đường hoặc chân mái đường.
3
Gia đình ông A được UBND huyện cấp cho 200m2 năm 1989, nằm tiếp giáp với mép

đường quốc lộ ,thì có thể thấy ngay rằng có một phần đất của gia đình ông A đã nằm
trên phần đất hành lang an toàn giao thông quốc lộ.
Tuy nhiên việc sử dụng đất này là do năm 1989 hộ ông A được UBND huyện cấp cho
200m2 sát đường quốc lộ, đến nay đo tới sát mép đường vẫn là 200m2. Như vậy, có
thể kết luận trường hợp sử dụng đất trên hành lang an toàn giao thông quốc lộ của hộ
ông A không phải do hộ ông A lấn chiếm hay do lỗi vi phạm của ông A mà là do
UBND xã đã thực hiện giao đất hành lang cho hộ ông A. Chính vì thế, trong trường
hợp này, hộ ông A không có lỗi, và hoàn toàn có đủ điều kiện để được bồi thường.
Từ những căn cứ trên, ta có thể thấy rõ việc hộ ông A không được bồi thường là sai.
3. Việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện đúng hay sai? Vì sao? Qui định
tại văn bản nào ?
Việc cưỡng chế thu hồi đất của UBND huyện trong trường hợp trên là sai.
Thứ nhất, vào năm 1989 khi hộ gia đình ông A được UBND huyện cấp đất ở, diện
tích 200m2, có nghĩa là hộ gia đình ông A đã có quyết định giao đất của UBND
huyện, theo điều 50 của luật đất đai 2003 thì hộ gia đình ông A được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, điều đó chứng tỏ rằng UBND huyện công nhận quyền sử
dụng hợp pháp diện tích là 200m2 đó.
Thứ hai, vào năm 2008 khi UBND huyện thu hồi 30m2 để mở rộng đường nhưng
không bồi thường, không có quyết định thu hồi đất , khi tiến hành cưỡng chế thu hồi
đất, không có quyết định cưỡng chế là sai.
Căn cứ vào khoảng 3 Điều 39 Luật đất đai 2003 có quy định:
“Trường hợp người bị thu hồi đất không chấp hành quyết định thu hồi đất thì Uỷ ban
nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế. Người
bị cưỡng chế thu hồi đất phải chấp hành quyết định cưỡng chế và có quyền khiếu
nại.”
Căn cứ vào khoản 1 Điều 32 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định :
“1. Việc cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 39 của Luật Đất đai
chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
4
a) Thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy

định tại các Điều 27, 28, 29 và 38 Nghị định này;
b) Quá ba mươi (30) ngày, kể từ thời điểm phải bàn giao đất quy định tại khoản 6
Điều 29 Nghị định này mà người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho Tổ chức
làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;
c) Sau khi đại diện của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, Ủy
ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã nơi có đất thu hồi đã vận động
thuyết phục nhưng người có đất bị thu hồi không chấp hành việc bàn giao đất đã bị
thu hồi cho Nhà nước;
d) Có quyết định cưỡng chế của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật đã có hiệu lực thi hành;
đ) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế. Trường hợp người bị
cưỡng chế từ chối nhận quyết định cưỡng chế thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết công khai quyết
định cưỡng chế tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi.”
Chỉ được phép ban hành quyết định cưỡng chế nếu đã tuân thủ đầy đủ các trình tự thủ
tục thu hồi đất, ta chỉ cần chứng minh UBND có thẩm quyền không tuân thủ một trình
tự thì đã có thể xác định cưỡng chế sai. UBND huyện đã không làm theo đúng thủ
tục,chưa có quyết định phê duyệt phương án bồi thường, chưa tổ chức giao nhận các
quyết định, văn bản về việc thu hồi đất cho người có đất bị thu hồi , đặc biệt là không
có quyết định thu hồi đất nên cũng không có căn cứ để ban hành quyết định cưỡng
chế, mà UBND huyện đã thực hiện cưỡng chế thu hồi đất là sai, vi phạm.
4. Ông A có quyền khiếu nại, khởi kiện theo quy định tại các văn bản pháp luật
nào ?
Ông A có quyền khiếu nại, tố cáo khởi kiện theo quy định tại các văn bản pháp luật
như :Điều 39, Điều 138 của Luật Đất đai, Điều 63 Nghị định số 84/2007/ NĐ-CP và
quy định giải quyết khiếu nại tại Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11
năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố
cáo.
5

×