Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Phép Biện Chứng Duy Tâm Heghen Và Vai Trò Của Nó Đối Với Sự Ra Đời Của Triết Học Mac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.04 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
 
TRIẾT HỌC
Đề bài:
Phép Biện Chứng Duy Tâm Heghen Và Vai Trò Của
Nó Đối Với Sự Ra Đời Của Triết Học Mac
GVPT: TS. Bùi Văn Mưa
HVTH: Nguyễn Thị Bích Chung
STT: 11
Nhóm: 1
Lớp: QTKD D1
Khóa: 22
TP. HCM, tháng 12 năm 2012
LỜI MỞ
ĐẦU
Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ XVIII - đầu
thế
kỷ
XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế giới. Đây là đỉnh cao
của thời
kỳ
triết học Tây Âu, đồng thời có ảnh hưởng to lớn đến triết học hiện đại
triết học cổ
điển
Đức. Vì vậy, nó trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ
nghĩa Marx - nguồn
gốc
triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã
hội không tưởng
Pháp).


Tuy đứng trên lập trường duy tâm nhưng Heghen

đã xây
dựng
nên
các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic
biện chứng,
học
thuyết về các quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các
tìm tòi của ông đó

phép biện chứng. Heghel là nhà biện chứng lỗi lạc, phép biện
chứng của ông là một tiền đề lý luận
quan
trọng của triết học Mácxit. Triết học của
Hegel có ảnh hưởng rất mạnh đến tư tưởng
của
nước Đức và cả Châu Âu đương
thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần Phổ".
Phép
biện chứng của Hegel là
phép biện chứng duy tâm, tức là phép biện chứng về sự vận
động
và phát triển của các
khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự
vật.
Không chỉ là đại biểu tiêu biểu của nền triết học cổ điển Đức mà Hegel đã đem lại cho
triết
học địa vị vốn có và sứ mệnh cao cả của nó trong đời sống tinh thần nhân loại nói
riêng và có vai trò to lớn đối sự ra đời của triết học Marx. Chính vì lẽ đó, phạm vi của

bài tiểu luận sẽ xoay quanh vấn đề “Phép biện chứng duy tâm Heghen và vai trò của nó
đối với sự ra đời của triết học Mac”.
Bài tiểu luận được chia làm 3 phần chính:
• Phần 1: Heghel và hệ thống triết học Heghel
• Phần 2: Phép biện chứng duy tâm của Heghel
• Phần 3: Vai trò PBC của Heghel đối với sự ra đời của triết học Mac.
Để phân tích được vai trò của triết học Heghe đối với sự ra đời của triết học Mac, tác
phẩm “Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức – Chủ nghĩa Mac” là một
trong những tài liệu tham khảo chính cho bài tiểu luận này. Thêm vào đó, các cuốn sách
“Giáo trình triết học Mac – Lenin – NXB Chính trị quốc gia”, “Triết học phần II các
chuyên đề về triết học Mac – Lenin, 2010” được viết bởi nhiều giảng viên tại trường Đại
học Kinh tế TP.HCM cũng đã được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho bài phân tích.
Ngoài ra, các bài viết của tác giả Trần Đức Thảo “Triết học cổ điển Đức – Heghel
1996”, “Hạt nhân duy lý trong triết học Heghel, 2009” và rất nhiều nguồn tài liệu mở
khác trên internet cũng đã được hữu dụng tham khảo để viết bài phân tích này.
Trong phạm vi trình độ kiến thức hạn hẹp, bài viết chưa thể đi sâu và chưa có cái nhìn
khái quát về vai trò to lớn của chủ nghĩa duy vật Heghel với sự ra đời của chủ nghĩa
Mac. Do đó, rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy để bài viết có thể hoàn thiện hơn và
có giá trị ngoại cao hơn cũng như có ứng dụng nhiều hơn cho các bài viết phân tích
khác. Em xin chân thành cảm ơn thầy!
2
1. Hegel và hệ thống triết học Hegel.
1.1 Giới thiệu về Hegel
Georg Wilhelm Friedrich Hegel, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1770, mất năm 1831. Ông
là nhà triết học duy tâm khách quan, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người
xây dựng nên phép biện chứng duy tâm. Hegel đã sớm thông thuộc các học giả kinh điển
Hy lạp và La Mã cổ đại khi đang còn học tại trường trung học Stuttgart và nắm rất rõ văn
học và khoa học Đức. Hegel hoàn thành tác phẩm vĩ đại đầu tiên của mình, Hiện tương
học tinh thần vào ngay trước ngày xảy ra cuộc chiến quyết định Jena.
Năm 1796, Hegel viết Cương lĩnh đầu tiên cho một hệ thống duy tâm chủ nghĩa Đức

cùng với Schelling. Trong tác phẩm này có đoạn: “… quốc gia là một cái gì đó hoàn toàn
máy móc – và không có ý niệm (phi vật chất) về một cái máy. Chỉ cái gì là khách thể của
tự do mới có thể gọi là “Ý niệm”. Do đó chúng ta cần phải vượt quá quốc gia! Mọi quốc
gia cần đối xử với những người tự do như những cái răng trong một cái máy. Và đây
chính là điều không nên xảy ra; do đó quốc gia phải bị lụi tàn”.
Hegel có quan điểm chính trị phản động, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của
ông, phản ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của
nó với các thế lực phong kiến. Hegel ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà
nước quân chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội.
1.2. Bối cảnh ra đời của Triết Học Hegel
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào
cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điểnhình với
360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này
vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ,
cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu
không khí bất bình của đông đảo quần chúng.
Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào
cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình
với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về
kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn. Lúc này
vương triều Phổ Phriđrich Vin Hem vẫn tăng cường quyền lực duy trì chế độ quân chủ,
cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất nước bao trùm bầu
không khí bất bình của đông đảo quần chúng.
Triết học cổ điển Đức đã xây dựng phép biện chứng như là học thuyết triết học về
mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trên thế giới.
Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của con người với tính cách là chủ thể
của mọi hoạt động cải tạo thế giới – khách thể và khảo sát khách thể gắn liền với hoạt
động thực tiển của chủ thể - con người. Tuy nhiên, họ đã gắn cho con người một vai trò
quá lớn ở chỗ họ thần thánh hóa trí tuệ của con người, coi con người có sức mạnh, là

chúa tể của giới tự nhiên.
3
1.3. Hệ thống triết học của Hegel và thành tựu nổi bật.
Hệ thống triết học của ông gồm ba phần:
- Lôgic học, đây là học thuyết về các quy luật phổ biến của vận động và phát triển, về các
nguyên tắc lý tính dùng làm cơ sở cho mọi dạng tồn tại. Lôgic học bao gồm ba bộ phận:
Tồn tại, bản chất, khái niệm.
- Triết học về tự nhiên, đây là học thuyết về sự phát triển của giới tự nhiên dưới hình thức
duy tâm. Triết học tự nhiên bao gồm cả ba bộ phận: Thuyết máy móc, thuyết hóa học,
thuyết hữu cơ.
- Triết học về tinh thần, đây là học thuyết về lịch sử của con người và sự nhận thức của
con người, nguồn gốc tạo thành mọi dạng tồn tại. Phần này được chia thành ba bộ phận:
Tinh thần chủ quan, tinh thần khách quan, tinh thần tuyệt đối.
Phép biện chứng duy tâm của Hegel được xem là một thành tựu vĩ đại của Triết học cổ
điển Đức, là một trong những cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học của
nhân loại. Ngoài ra ông còn có những tác phẩm
chủ yếu như: "Hiện tượng học tinh thần"
(1807), "Khoa học lôgic" (1812 - 16), "Bách khoa thư về khoa học triết học" (1817,
1830), "Những nguyên lí triết học của pháp luật" (1821), những bài giảng về triết học lịch
sử, về mĩ học, về triết học tôn giáo, về lịch sử triết học được xuất bản sau khi Hegel mất.
4
2. Phép biện chứng duy tâm của Hegel.
2.1. Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt
đối.
Đây là điểm khởi đầu và là nền tảng của triết học Hegel. Nó là thực thể tinh
thần
sáng tạo ra giới tự nhiên và toàn thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện
tượng
trong thế giới, kể cả những sản phẩm hoạt động của con người chỉ là hiện thân
của

ý
niệm tuyệt
đối.
Ý niệm tuyệt đối là thực thể tinh thần, giống thượng đế sáng tạo ra giới tự nhiên

toàn
thể nhân loại. Theo Hegel, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều được
sinh
ra bởi
một thực thể tinh thần, ý thức, tinh thần có trước vật chất nhưng đó
không
phải là ý
thức, tinh thần của từng cá nhân, con người cụ thể mà là một thực thể
tinh
thần bên
ngoài con người và ông đặt tên là ý niệm tuyệt đối. Điều đó chứng tỏ
triết
học của
Hegel là duy tâm khách quan. Ông coi ý niệm tuyệt đối là cái có
trước.
Trong quá
trình vận động, phát triển, ý niệm tuyệt đối tha hóa thành giới tự
nhiên
và xã hội, cuối
cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Sai lầm
của
phép biện chứng
duy tâm khách quan của Hegel là ở chỗ ông cho rằng biện
chứng
của ý niệm sản

sinh ra biện chứng của sự vật. Đó là phép biện chứng duy
tâm
khách quan, thiếu
triệt để, thiếu khoa
học.
Cho dù là nhà triết học duy tâm nhưng Hegel đặc biệt đề cao con người, không
hạ
thấp con người xuống, đó là điểm sáng của triết học Hegel. Hegel cho rằng: ý
niệm
tuyệt đối sinh ra vạn vật, con người là giai đoạn phát triển cao nhất của ý
niệm
tuyệt đối, giống như bảo rằng: “Thượng đế sinh ra vạn vật, con người là giai
đoạn
phát triển cao nhất của thượng đế”, vậy ông đề cao con người. Chính Hegel
khẳng
định hoạt động của con người và nhận thức của con người là chìa khóa để ý
niệm
tuyệt đối nhận thức bản thân mình trở về với chính bản thân mình. Điều này
cho
thấy rằng với những nhà triết học duy tâm trước đây thường hạ thấp con
người
xuống, đề cao thực thể tinh thần nhưng duy tâm Hegel đặc biệt đề cao con
người.
Đó
là điểm đặc sắc trong triết học của Hegel, từ đó đề cao trí tuệ con người.
Hegel
cho
rằng: ban đầu trong vũ trụ bao la không có cái gì cả, chỉ có một thực thể
duy
nhất,

ông gọi là ý niệm tuyệt đối, là một thực thể tinh thần với bản tính ham
hiểu
biết.
Muốn thỏa mãn bản tính ham hiểu biết này cần phải tha hóa thành khác
mình
nhưng
cũng chính là mình. Ví dụ: giả sử chỉ có một mình mình thôi mà mình
ham
hiểu biết
thì muốn thỏa mãn bản tính này tha hóa thành khác mình nhưng
cũng
chính là
mình. Vậy sự tồn tại của thế giới vật chất xung quanh ta là nhằm thỏa
mãn
bản tính
ham hiểu biết của con người mà thôi. Hegel đặc biệt đề cao trí tuệ
con
người. Ông
khẳng định: giới tự nhiên này nằm trong quá trình phát triển vô cơ,
hữu
cơ cho đến
con người, và khi con người phản ánh đầy đủ về giới tự nhiên, tức

con người
quay trở lại điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối. Vì vậy, trong triết
học
của Hegel,
điểm khởi đầu là ý niệm tuyệt đối, điểm kết thúc cũng là ý niệm
tuyệt
đối mà tồn tại

ý thức của mỗi cá nhân, con người chúng
ta.
Thông qua tư tưởng này, Hegel đặc biệt đề cao con người, trí tuệ con người,
chứng
tỏ
Hegel là nhà triết học duy tâm khách quan. Thật ra khái niệm tha hóa không
phải
lần
đầu tiên Marx đưa ra mà là Hegel. Tha hóa là mình trở thành khác mình, đối
lập
với
5
mình.
2.2. Phép biện chứng duy tâm về triết
học
- Theo Hegel, đối tượng nghiên cứu của triết học là ý niệm tuyệt đối, lịch sử
nhân
loại
là giai đoạn phát triển cao nhất. Đây là quan điểm duy tâm. Triết
học
nghiên cứu
lịch sử nhân loại, mà lịch sử nhân loại là giai đoạn cao nhất của
ý
niệm tuyệt đối.
Thật ra, triết học là ngành khoa học nghiên cứu ý niệm
tuyệt đối.
- Hegel muốn xây dựng triết học mang tính vạn năng, đóng vai trò
nền
tảng cho tất cả
các ngành khoa học, nghĩa là toàn bộ khoa học cụ thể phải

nằm
trong triết học. Quan
điểm này là quan điểm sai lầm và sau này đã gợi mởi
cho
Marx và Engels một cách
hiểu mới về vai trò của triết học với khoa học cụ
thể.
Trong tư tưởng của Hegel có một
điểm đáng lưu ý là triết học là khoa học
của
tất cả mọi khoa học. Quan niệm này ra
đời trong thời buổi trình độ nhận
thức
con người chưa cao nên triết học là một lý
luận mang tính phổ quát, bao
trùm
và thậm chí là duy nhất. Nó có tham vọng giải
thích tất cả lĩnh vực khoa học
cụ
thể mà trong thời kỳ đó còn mang tính chất tảng
mạn và sơ khai. Thời kỳ
đó,
khoa học chưa phân ngành, người ta không thể tìm thấy
tri thức về khoa học
tự
nhiên trong khoa học cụ thể như ngày hôm nay mà chỉ có thể tìm
thấy những

tưởng khoa học tự nhiên trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà
triết

học.
Từ đó nảy sinh quan điểm cho rằng triết học là khoa học của tất cả mọi
khoa
học, còn các nhà triết học là các nhà thông thái, không chỉ am hiểu một lĩnh
vực
mà am hiểu mọi lĩnh vực khác nhau của nhận
thức.
Hegel tuyên bố: “Bộ óc của Hegel là vĩ đại nhất trong lịch sử và nhân loại
không
thể
nào tìm bộ óc nào vĩ đại hơn Hegel được, đồng thời triết học của ông là
cuối
cùng
trong lịch sử”. Nhưng Hegel đâu biết rằng sau đó chính triết học của Marx

Engels đã
phủ định triết học của Hegel. Đó cũng là lẽ đương nhiên vì theo tinh
thần
biện chứng
mà Hegel đã chỉ
ra.
2.3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học
logic.
- Hegel phê phán logic cũ vì logic học nghiên cứu về

duy, còn logic trước đây là
logic học hình thức nghiên cứu về tư duy hình thức
chủ
quan, nghĩa là tư duy trong
trạng thái bất biến, cô lập, không sinh thành, không

biến
đổi và không phát triển. Vì
vậy logic học trước đây chưa đầy đủ, chưa đáp
ứng
được với sự phát triển của triết
học và khoa học. Trên cơ sở đó, Hegel đã sáng
tạo
ra một hệ thống logic học mới -
logic biện chứng nhằm đem lại cho con người
một
cách hiểu mới về bản chất của tư
duy và trang bị cho các ngành khoa học
một
phương pháp nhận thức mới, đó
chính là phương pháp biện chứng.
- Phương pháp tư duy là phương thức, cách thức nhìn nhận của đối tượng để
hình
thành nên hiểu biết về chúng trong đầu óc con người. Phương pháp tư duy
hình
thức là phương pháp tư duy nhận thức của sự vật trong trạng thái bất biến,
trạng
thái tĩnh và cô lập. Còn phương pháp tư duy biện chứng là phương pháp tư
duy
khảo sát đối tượng trong sinh thành, biến đổi và phát triển. Chính Hegel là người
đã
khai sinh ra phương pháp tư duy biện chứng này, trở thành phương pháp khoa
học,
làm
công cụ khoa học khám phá ra chân lý. Theo Hegel, tư duy ở đây hoàn
toàn

không
được xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người như là nét
đặc
thù của
6
con người. Hegel đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối
với
tư cách là
cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng
thời
vừa là khách
thể, vừa là chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những

được tư duy.
Tuy nhiên, Hegel cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu
tượng,
mong muốn là
những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất cả chúng đối
với
ông chỉ là những
thể hiện không đầy đủ, là những nét hoa văn bên ngoài của

duy, tư tưởng. Vì
vậy, vật chất theo ông cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà
thôi.
Hegel cho rằng, đối
tượng đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng vì

tưởng là chân lý của mọi
sự vật, cho nên sự phát triển cũng cần phải được tiến

hành
theo những quy luật của tư
tưởng, theo những quy luật của logic học. Chủ
nghĩa
duy tâm tuyệt đối của Hegel vì
vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy
tâm
logic. Ý niệm tuyệt đối là tư duy
về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự
nhận
thức, là sự mở rộng những xác định
logic vốn có đối với
nó.
- Hegel đồng nhất khoa học logic với logic học duy tâm. Logic học này sử
dụng
những kết quả phát triển của những khoa học tự nhiên. Theo Hegel, những
khoa
học này có nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu cho logic học nhằm phát hiện những quy
luật,
những khái niệm chung. Logic học duy tâm của Hegel đã coi những khoa học
này
dưới những hình thức khác nhau và đặt đấu ấn vào chúng. Nó chỉ ra rằng
những
quy luật và những khái niệm của các khoa học tự nhiên là sự thể hiện không đầy
đủ
của
những phạm trù lý tính thuần tuý. Chính trong khoa học logic cũng như
logic
học,
Hegel đã trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở

duy
tâm.
2.4. Phép biện chứng duy tâm của Hegel.
Đây là một trong những cống hiến vĩ đại của Hegel trong lịch sử khoa học của
nhân
loại. Phép biện chứng của Hegel bao gồm những nội
dung:
- Phép biện chứng của Hegel có hạt nhân là tư tưởng về sự phát triển là
điểm
sáng nhưng đó là phép biện chứng duy tâm. Phép biện chứng của Hegel là
phép
biện
chứng của những khái niệm mà Hegel đồng nhất với bản thân sự vật.
Đáng
lẽ khái
niệm phản ánh sự vật thì trong tư tưởng Hegel, ý niệm, khái niệm

trước sự vật.
Đáng lẽ phép biện chứng của sự vật sinh biện chứng của tư
tưởng
nhưng theo Hegel
biện chứng của tư tưởng lại sinh biện chứng của sự vật,
phép
biện chứng đó là duy
tâm. Ý thức của tư duy con người phản ánh sự vật
trong
thế giới, nhưng nếu bản
thân sự vật là liên hệ, biến đổi thì tư duy con
người
phản ánh nó cũng liên hệ, biến

đổi. Đó là tư tưởng biện chứng mang tính
duy
vật. Theo Hegel, ý niệm tuyệt đối có
trước tự nhiên và sinh ra giới tự
nhiên,
biện chứng của ý niệm tuyệt đối sinh ra biện
chứng của sự vật, do đó phép
biện
chứng của Hegel là duy
tâm.
- Luận điểm xuyên suốt toàn bộ phép biện chứng của Hegel là tất cả những

hiện
thực đều hợp lý, tất cả những gì hợp lý đều là hiện thực. Hiện thực là
sự
tồn tại
trong tính tất yếu. Đây là cách đánh giá của Marx: “Luận điểm
xuyên
suốt toàn bộ
phép biện chứng của Hegel: hiện thực không chỉ đơn giản là sự
tồn
tại mà là sự tồn tại
trong tính tất yếu, nghĩa là tất cả các sự vật, hiện tượng và
cả
vũ trụ này vận động và
phát triển theo các quy luật vốn có”. Đây là tư
tưởng
tuyệt vời của Hegel. Đằng sau
vỏ duy tâm hợp lý đó, ông cho rằng tất cả sự
vật

trên thế giới, kể cả tư duy của con
7
người đều vận động, phát triển theo các
quy
luật, chính Hegel là người đầu tiên khái
quát nên quy luật đó. Toàn bộ ba
quy
luật cơ bản, sáu quy luật không cơ bản, sáu
khoa học phạm trù được khái
quát
lên chính là Hegel.
- Hegel là người đầu tiên trình bày giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng
một
quá
trình, đồng thời hiểu phát triển là quá trình phủ định biện chứng, trong
đó
cái mới ra
đời thay thế cái cũ nhưng vẫn kế thừa của cái cũ những mặt tích
cực
có thể thúc đẩy
sự phát triển. Tự nhiên, lịch sử và tư duy theo Hegel trình bày

dạng quá trình, tức là
trong sự sinh thành, biến đổi và phát triển. Khác với
siêu
hình, siêu hình cho rằng phát
triển là sự tăng giảm đơn thuần về lượng,
còn
Hegel hiểu rằng phát triển là quá trình
phủ định từ thấp đến cao, đó là quá

trình
phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng có
hai đặc điểm: khách quan và
kế
thừa, kế thừa có sự chọn lọc, phê phán, người đầu tiên
khái quát lên tư tưởng
đó
là Hegel. Học thuyết của Hegel chứng minh: con cái ra đời từ
cha mẹ sẽ kế
thừa
những mặt tích cực của cha mẹ, loại bỏ những mặt tiêu cực.
- Theo Hegel, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả hoạt động của mình,
nhận
thức
và tư duy của con người được hình thành trong chừng mực con người
nhận
thức và cải
tạo thế giới. Ý thức của mỗi cá nhân là sự khái quát lại toàn bộ
ý
thức mà nhân loại
đã trải qua. Hegel đã thấy được
vai
trò của lao động đối với sự hình thành và phát
triển của ý thức. Lao động
đã
giải phóng hai tri thức của loài người, đưa con người
đi lên thẳng đứng,
tách
con người ra khỏi thế giới loài vật. Cũng chính lao động, con
người đã tạo

thức
ăn mới hoàn thiện não bộ. Trong lao động, con người tác động
vào thế
giới
xung quanh, bộc lộ những đặc điểm, tính chất để con người nhận thức.
Cũng
chính trong quá trình lao động, con người tự hoàn thiện chính bản thân
mình.
Vậy không có quá trình lao động, con người không tách khỏi loài vật, bộ óc
con
người
không hoàn thiện, không nảy sinh nhu cầu nhận thức về thế giới,
không
có ý thức của
con người. Hegel khẳng định ý thức và tư duy của con người
hình
thành trong chừng
mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, chứng tỏ
rằng
đã bắt đầu thấy vai trò
của lao động đối với sự hình thành và phát triển ý
thức
và tư duy. Từ đó Hegel cho
rằng: bằng cách đó, con người tác động vào giới
tự
nhiên, tạo ra giới tự nhiên thứ hai
cho mình và làm chủ giới tự nhiên.
Quan
điểm giới tự nhiên thứ hai người đầu tiên
đưa ra chính là Hegel. Chân lý là

sự
thống nhất của tinh thần và vật chất là cả một quá
trình. Chân lý là tri thức

nội dung phản ánh phù hợp với hiện thực khách quan.
- Theo Hegel, ý thức con người là sản phẩm của lịch sử, lịch sử lại mang tính kế
thừa.
Vì vậy, ý thức của mỗi cá nhân, của mỗi con người là khái quát lại toàn bộ
lịch
sử mà tư tưởng nhân loại đã trải qua. Như vậy, trong ý thức của ta có ý thức
của
nhân
loại trong quá khứ và trong hiện tại. Đây chính là quan điểm duy tâm
của
Hegel.
Những quan hệ xã hội hình thành nên bản chất của ta, không chỉ
trong
hiện tại mà
còn trong cả quá khứ. Nếu tách con người hiện tại ra khỏi liên
hệ
lịch sử thì con
người trong hiện tại phát triển phiến diện và bề ngoài. Người
đặt
nền móng tư tưởng
này chính là
Hegel.
- Theo phép biện chứng của Hegel, các sự vật, hiện tượng trên thế
giới
không cô
lập, tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và

không
ngừng chuyển
hóa cho nhau, nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau một cách
phổ
biến. Điều này hiện
8
nay đã được khoa học chứng minh. Theo Hegel, vạn
vật
không những liên hệ, tác
động qua lại với nhau mà còn không ngừng vận
động
và phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
cho
đến hoàn thiện hơn. Nguồn gốc của
động lực và phát triển là sự đấu tranh
của
những mặt đối lập. Đây là tư tưởng hoàn
toàn bình đẳng, hợp lý. Đây cũng

quan điểm của triết học Marx về sau
này.

dụ:
- Nguyên tử vận động vì nguyên tử là thể thống nhất của những mặt
đối

lập
trong lòng nó, hạt nhân mang điện tích âm
dương.

- Cơ thể sống vận động biến đổi vì cơ thể sống là thể thống nhất
những

mặt
đối
lập trong lòng nó, đó là đồng hóa, dị hóa, biến dị, di truyền, hấp
thụ,
bài
tiết.
- Nền kinh tế biến đổi, phát triển bởi sự đấu tranh của những mặt
đối

lập
trong lòng nó: cung và cầu, tích lũy và tiêu dùng, kế hoạch hóa và

chính
phủ…
Cách thức phát triển là chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những
thay
đổi về chất và ngược lại (quy luật vật
chất).
Nguyên nhân phát triển là theo con đường xoắn ốc mà mỗi vòng khâu của nó

một
mắc xích quá trình phủ định của phủ
định.
Phủ định biện chứng là một sợi dây chuyền diễn ra liên tục và vô tận trong
tất
cả lĩnh

vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Liên tục diễn ra cái mới hay cái cũ
nhưng
nó kế thừa cái
cũ những mặt tích cực, còn khả năng thúc đẩy sự phát triển.

cũng theo phép biện
chứng của Hegel, giữa cái chung và cái riêng, nguyên
nhân
và kết quả, tất nhiên và
ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất hiện
tượng,
khả năng và hiện thực nó
không cô lập nhau, cũng không tách rời nhau

chuyển hóa cho
nhau.
- Toàn bộ hai nguyên lý: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, nguyên lý sự
phát
triển; ba quy luật cơ bản: quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật
phủ
định
của phủ định và sáu quy luật phạm trù: cái chung cái riêng, nguyên
nhân
kết quả, tất
nhiên ngẫu nhiên, nội dung hình thức, bản chất hiện tượng,
khả
năng hiện thực đã
được Hegel khái quát. Nhưng vì phép biện chứng của
Hegel
mang tính duy tâm nên

toàn bộ những nguyên lý, quy luật phạm trù đó
được
Hegel trình bày trên lập trường
duy tâm, vì vậy, vai trò khám phá chân lý
của
nó bị giảm đi.
9
3.Vai trò của PBC duy tâm đối với sự ra đời của Triết học Mac-Lenin.
3.1. Sự mâu thuẫn trong Triết học Hegel
Trong hệ thống triết học của Hegel chứa đựng một mâu thuẫn bên trong không thể cứu
chữa
được: một mặt, tiền đề cơ bản của nó là một quan điểm lịch sử cho rằng lịch
sử
nhân loại là một quá trình phát triển mà xét về bản chất thì không thể tìm được
đỉnh
cao của nó về mặt trí tuệ trong việc phát hiện ra cái gọi là chân lý tuyệt đối.
Nhưng
mặt
khác, hệ thống Hegel lại khẳng định rằng nó là hiện thân của chính ngay
chân

tuyệt đối ấy. Một hệ thống nhận thức về tự nhiên và lịch sử bao quát tất cả

hoàn
tất một lần là xong vĩnh viễn, là mâu thuẫn với những quy luật cơ bản của
hệ
tư duy
biện chứng; nhưng điều đó hoàn toàn không loại trừ mà trái lại còn bao
hàm
việc cho

rằng sự hiểu biết có hệ thống về toàn bộ thế giới bên ngoài có thể đạt
được
những bước
tiến khổng lồ từ thế hệ này qua thế hệ
khác.
3.2. Cuộc cách mạng trong Triết học do Mac Enghen thực hiện.
Nói đến phép biện chứng của Marx và Engels không thể không nói đến phép
biện
chứng
của Hegel. Đánh giá của Marx đối với phép biện chứng của Hegel vì
chính
Marx không
những đã chỉ phê phán một cách sâu sắc phép biện chứng của
Hegel
mà còn cải tạo
phép biện chứng đó, xây dựng nên phép biện chứng duy vật
duy
nhất và thực sự
khoa học với mẫu mực tuyệt vời của nó là tác phẩm chủ yếu
của
ông - bộ "Tư bản".
Marx viết: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc
phải
ở trong tay Hegel
tuyệt nhiên không ngăn cản Hegel trở thành người đầu tiên
trình
bày một cách bao
quát và có ý thức những hình thái vận động chung. Phép
biện
chứng của Hegel bị

lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng ngược lại là tiền
nhân
nhân hợp lý của nó
đằng lớp vỏ thần đó. Phép biện chứng của Hegel nếu đặt
trên
nền tảng của chủ nghĩa
duy vật giống như con người đi bằng hai chân vậy,
nhưng
vì đặt trên nền tảng của chủ
nghĩa duy tâm, bao bọc bởi những lời thông thái
thông
thường giống một người lộn
ngược đầu xuống đất, chân trỏng lên trời”. Nhiệm
vụ
của Marx là dựng ngược lại,
tìm hạt nhân hợp lý. Chính Marx và Engels đã
làm
điều đó. Hai ông loại bỏ chủ
nghĩa duy tâm và kế thừa hạt nhân hợp lý, đó chính

phép biện chứng. Trong triết học
của Marx phép biện chứng duy vật, nội dung
gồm
hai nguyên lý, ba quy luật và sáu
phạm trù. Người đầu tiên khái quát nên
những
nguyên lý, quy luật và phạm trù đó
không phải là Marx mà là Hegel. Hegel là
nhà
bác học có tri thức bách khoa, là một

thiên tài sáng tạo, chỉ có điều phép
biện
chứng của Hegel bị ông đặt trên nền tảng
của chủ nghĩa duy tâm nên vai trò
khám
phá chân lý của nó bị giảm đi. Giữa thế kỷ
XIX, Marx và Engels đã cải tạo lại
phép
biện chứng của Hegel, đặt nó trên nền tảng của
chủ nghĩa duy vật và từ đó sáng
tạo
nên phép biện chứng duy vật. Nhà sáng lập chủ
nghĩa Marx không bao giờ coi
công
việc của mình nhằm chỉnh lý và cải tạo một cách
duy vật đối với phép biện
chứng
của Hegel đã hoàn tất. Trái lại, cho đến tận cuối
đời, các ông vẫn không
ngừng
nhắc nhở rằng cần phải có những nghiên cứu chuyên
sâu và những khái quát
mới
về phép biện chứng của
Hegel.
- Nơi trình bày hệ thống phạm trù biện chứng của Hegel là cuốn Luận Lý Học (1812).
Cuốn này đã trực tiếp ảnh hưởng đến cuốn Tư Bản Luận của Karl Marx. Trong tập Bút
Ký về Triết Học, Lênin viết: «Không thể nào hiểu thấu cuốn Tư Bản Luận của Marx,
10
đặc biệt là chương đầu, nếu không nghiên cứu triệt để và hiểu toàn bộ cuốn Luận Lý

Học của Hegel». Những khái niệm luận lý đây lại xuất hiện một cách hoàn toàn trừu
tượng, với tính chất là hình thái thuần túy của sự biến chuyển, tách rời nội dung biến
chuyển thực sự. Để tìm hiểu ý nghĩa thực tế của biện chứng pháp Hegel, bước đầu phải
trở lại cuốn Hiện Tượng Luận của Tinh Thần (1807), cuốn này trình bày lịch sử tiến hóa
của ý thức tư tưởng từ hình thái thấp nhất, tức là ý thức cảm giác, lên đến hình thái cao
nhất theo Hegel, «khoa học tuyệt đối», tức là hệ thống triết học của bản thân tiên sinh.
Đây có nội dung tương đối rõ ràng, và chính những hình thái biến chuyển thực sự trình
bày ở đây sẽ trở thành những phạm trù thuần túy trừu tượng trong cuốn Luận Lý Học.
Trong cuốn Kinh Tế Chính Trị Học và Triết Học viết năm 1844, lúc chuyển từ duy tâm
sang duy vật, Karl Marx đã nói: « Phải bắt đầu từ cuốn Hiện Tượng Luận của Hegel, vì
chính đây là nơi sinh nở của triết học Hegel, bí quyết của nó nằm ở đấy».
- Noi theo tấm gương của C. Mác và Ph. Ăngghen. V. I . Lênin cũng kiên trì nhấn mạnh
về sự cần thiết phải tiếp tục công việc chỉnh lý một, cách duy vật đối với phép biện chứng
Hêgen. Trong bài viết "Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu" - tác phẩm được coi
một cách xác đáng là di chúc triết học của Lênin - ông kêu gọi thành lập "Hội những
người bạn duy vật của phép biện chứng Hêgen" để tiến hành công tác nghiên cứu giải
thích và tuyên truyền phép biện chứng của Hêgen: "Dựa vào cách của Mác đã vận dụng
phép biện chứng của Hêgen hiểu theo quan điểm duy vật chúng ta có thể và cần phải
nghiên cứu phép biện chứng đó trên tát cả các mặt".
- Những chỉ dẫn rất: quan trọng và quý báu đó cũng đồng thời là những kết, luận được
chính Lênin rút ra từ các nghiên cứu riêng của ông về triết học Hêgen và trước hết là về
phép biện chứng Hêgen. Ngay từ giữa những năm 90 thế ký XIX Lênin đã vạch ra một
cách sâu sắc ý nghĩa xã hội của phép biện chứng Hêgen của mặt cách mạng của nó mà
thậm chí phái Hêgen mới đã bỏ qua trong bài viết nhan đề "Phriđrích Ăngghen" Lênin
viết: "Lòng tin của Hêgen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và
nguyên lý cơ bản của triết học Hêgen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình
liên tiếp biến hoá và phát triển đã dẫn những học trò của nhà triết học ở Béclanh không
muốn điều hoà với hiện trạng đến ý nghĩ cho rằng ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện
trạng cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác đang hoành hành cũng
bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng. Nếu mọi cái đều phát triển nếu

những thể chế này bị thể chế khác thay thế vậy thì tại sao chế độ chuyên chế của vua phổ
hay của Nga hoàng việc một thiểu số rất nhỏ làm giàu trên lưng tuyệt đại đa số sự thống
trị của giải cấp tư sản đối với nhân dân lại cứ tồn tại mãi?"Như vậy tiềm năng cách mạng
trong phép biện chứng của Hêgen đã được Lênin vạch ra; tiềm năng đó biểu hiện nội
dung cơ bản của nó: tính có quy luật nội tại của sự phát triển sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập sự phủ định biện chứng với tư cách một bậc thang tất yếu của sự phát triển.
11
KẾT
LUẬN
Phép biện chứng duy tâm của Hegel là một thành tựu vĩ đại của triết học cổ điển Đức.
Cho
dù có những ý kiến đánh giá khác nhau về triết học Hegel song không thể phủ
nhận
được
rằng cái có giá trị nhất và có sức sống mạnh mẽ nhất trong triết học của
ông chính là
phép
biện chứng duy tâm. Hegel là người có công phê phán tư duy
siêu hình và ông cũng

người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư
duy dưới dạng một quá
trình,
nghĩa là trong sự liên hệ, vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng. Trong khuôn
khổ
hệ thống triết học duy tâm của mình, Hegel
không chỉ trình bày các phạm trù như:
chất,
lượng, phủ định, mâu thuẫn mà ông còn

là người diễn đạt được các quy luật theo
khuôn
khổ của phép biện chứng, nghĩa là
ông coi sự liên hệ, vận động phát triển của thế giới
tuân
theo các quy luật như “Lượng
đổi dẫn đến chất đổi và ngược lại”, “Phủ định của phủ
định”
với tư cách là sự phát
triển diễn ra theo hình “Xoáy ốc” và quy luật mâu thuẫn với tư
cách
là nguồn gốc
động lực của sự phát
triển.
Tuy trong hệ thống triết học của Hegel còn có những mâu thuẫn hạn chế nhưng cũng đã
tạo ra nền tảng to lớn đối với sự ra đời và phát triển của triết học Mác. Mác đã kế thừa
những tư tưởng biện chứng và loại bỏ chủ nghĩa duy tâm bảo thủ từ đó tạo ra phép biện
chứng duy vật mà chúng ta còn sử dụng cho đến ngay nay trong rất nhiều lĩnh vực khoa
học khác nhau.
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình triết học Mác-Lenin – NXB Chính trị quốc gia
2- Phoiobac và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức – Chủ nghĩa Mac
3- Ts. Bùi Văn Mưa – PGS.TS. Lê Thanh Sinh – TS. Trần Nguyên Ký –
TS. Nguyễn Ngọc Thu – TS. Bùi Bá Linh – TS. Bùi Xuân Thanh, Triết
học phần II – các chuyên đề về triết học Marx – Lênin, 2010.
4- Trần Đức Thảo, Bài viết “Triết học cổ điển Đức: Hegel”, 1996
5- Trần Đức Thảo, Bài viết “Hạt nhân duy lý” trong triết học Hegel, 2009
6- www.vientriethoc.com.vn
7- www.vi.wikipedia.or

13
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 2
1. Hegel và hệ thống triết học Hegel 3
1.1 Giới thiệu về Hegel 3
1.2. Bối cảnh ra đời của Triết Học Hegel 3
1.3. Hệ thống triết học của Hegel và thành tựu nổi bật 4
2.1. Phép biện chứng duy tâm khách quan về ý niệm tuyệt đối 5
2.2. Phép biện chứng duy tâm về triết học 6
2.3. Phép biện chứng duy tâm trong khoa học logic 6
2.4. Phép biện chứng duy tâm của Hegel 7
3.1. Sự mâu thuẫn trong Triết học Hegel 10
3.2. Cuộc cách mạng trong Triết học do Mac Enghen thực hiện 10
KẾT LUẬN 12
TÀI LIỆU THAM KHẢO 13
Mục lục 14
14

×