Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HEGHEN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.63 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Tiểu luận môn Triết học:
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM HEGHEN
VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
GV phụ trách: TS. BÙI VĂN MƯA
Học viên thực hiện: Nguyễn Thanh Tùng
Số thứ tự: 117
MSHV: 7701221321
Nhóm: 01
Lớp: Đêm 1
Khóa: Cao học - K22
Tp. HCM, tháng 12 năm 2012
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Nền triết học cổ điển Đức là nền triết học được tạo nên từ cuối thế kỷ
XVIII - đầu thế kỷ XIX là thành tựu rực rỡ của nền văn minh Tây Âu và thế
giới. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học Tây Âu. Tuy đứng trên lập trường
duy tâm nhưng các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ thống
triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, logic biện chứng, học thuyết
về các quá trình phát triển mà tìm tòi lớn nhất trong tất cả các tìm tòi của họ đó
là phép biện chứng Trong số các nhà triết học vĩ đại nhất của nền triết học cổ
điển Đức không thể không kể tới Friedrich Hegel. Ông là người đầu tiên trình
bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là
trong sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ
thống triết học duy tâm của mình, Heghen không chỉ trình bày các phạm trù
như chất, lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy luật “lượng
đổi dẫn đến chất đổỉ và ngược lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy luật mâu
thuẫn”. Nhưng tất cả cái đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của bản thân
tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Từ sự mâu thuẫn này, Mác – Ăngghen đã cứu lấy
phép biện chứng, tách ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí để trở thành một trong ba


tiền đề chính yếu xây dựng nên nền triết học Mácxit sau này.
Thực hiện đề tài này nhằm mục đích hiểu và nắm rõ phép biện chứng
duy tâm của Heghen được thể hiện như thế nào và vì sao nó lại nhốt trong lớp
vỏ duy tâm thần bí. Nêu được những nội dung chính trong hệ thống triết học
duy tâm của Heghen. Tìm hiểu về những mâu thuẫn trong triết học Heghen,
mâu thuẫn giữa hạt nhân hợp lý là phép biện chứng và hệ thống duy tâm. Từ
đó hiểu rõ hơn về tiền đề ra đời củ Triết học Mác.
Tài liệu được tham khảo và tổng hợp từ sách giáo khoa Triết học, đề tai
nghiên cứu, bài báo từ internet (có ghi cụ thể ở phần cuối).
Trang 2/14
1. HEGHEN VÀ HỆ THỐNG TRIẾT HỌC HEGHEN:
1.1. Giới thiệu về Heghen:
Friedrich Hegel (1970 – 1831) sinh ra trong một gia đình cao cấp ở
Stuttgart. Do chịu ảnh hưởng của Senlinh mà Heghen say sưa nghiên cứu triết
học và ông đã trở thành một nhà triết học duy tâm khách quan – nhà bác học vĩ
đại nhất, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức, người xây dựng nên phép
biện chứng duy tâm.
1.2. Bối cảnh ra đời của Triết Học Heghen:
a) Xã hội Đức:
Đến cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 ,chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập ở
một số nước Tây Âu như Italia, Anh, Pháp,… đem lại một nền sản xuất chưa
từng có trong lịch sử, tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ trước đó.
Trong khi ở nhiều nước Tây Âu đang có những thay đổi nhảy vọt như
vậy ,thì nước Đức cho đến đầu thế kỷ 19 vẫn là một quốc gia phong kiến lạc
hậu. Liên bang Đức chỉ tồn tại về hình thức, thực chất đất nước còn phân chia
thành nhiều tiểu vương quốc nhỏ tách biệt nhau. Tình trạng đó gây nhiều trở
ngại đối với sự phát triển của đất nước. Triều đình vua Phổ Phiđrích Vinhem
(1770-1840) vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực và duy trì chế độ phong kiến
thối nát,cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Cả đất
nước bao chùm bầu không khí bất bình của đông đảo quần chúng. Từ khi còn

học tại chủng viện Tubengen, Heghen đã rất mong chờ luồng sóng cách mạng
tư sản như ở Pháp sẽ tràn sang Tây Nam nước Đức.
b) Hệ tư tưởng:
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị, nước Đức thời kỳ này đạt được sự
phát triển chưa từng có về triết học,văn hoá nghệ thuật. Các nhà triết học Đức
đã hệ thống hóa toàn bộ tri những tri thức và thành tựu mà nhân loại đạt được.
Giờ đây cần có cách nhìn mới về hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân
Trang 3/14
loại, cần có quan niệm mới về khả năng và hoạt động của con người. Heghen
đã ấp ử từ lâu sẽ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng để làm nền tảng cho
toàn thế giới quan con người, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học
của mọi khoa học.
1.3. Hệ thống triết học của Heghen và thành tựu nổi bật:
Hệ thống triết học của Heghen gồm 3 phần chính:
a) Hiện tượng luận tinh thần:
- Thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối.
- Thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.
- Triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối.
b) Khoa học Logich:
Nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai nhưng lại là xuất phát
điểm của hệ thống. Khoa học logich giúp vạch ra bản chất đích thực của tư du
và đóng vai trò như một phương pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa
học.
c) Triết học tự nhiên:
Học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại khác của ý
niệm tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất.
d) Triết học tinh thần:
Xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn cuối cùng trên con đường diễu
hành nơi trần gian, rời bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự tha hóa, quay về chính
mình như thế nào.

e) Thành tựu nổi bật của Triết học Heghen:
Trang 4/14
Phép biện chứng tư duy mà Heghen để lại là một cống hiến vĩ đại cho
kho tàng tư tưởng của nhân loại. Heghen đã xây dựng những tư tưởng cơ bản
của phép biện chứng bao gồm tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, tư tưởng về sự
phát triển. Ông còn xây dựng các nguyên tắc của logich biện chứng, các quan
điểm biện chứng về nhận thức, đặt nền móng cho sự thống nhất giữa phép biện
chứng, logich học và nhận thức luận.
2. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY TÂM CỦA HEGHEN
• Thế giới quan duy tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung
triết học Heghen, ông đã xác định điểm xuất phát triết học của ông là sự
đồng nhất duy tâm giữa tư duy và tồn tại hay là ý niệm tuyệt đối. Heghen cho
rằng tinh thần là cái có trước và vật chất là cái có sau, là sự thể hiện cụ thể của
tinh thần thế giới.
- Ý niệm tuyệt đối – tinh thần thế giới là nền tảng của hiện thực; là sự đồng nhất
giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và vật chất; là Đấng tối cao sáng tạo ra
giới tự nhiên, con người và lịch sử nhân loại. Ý niệm tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn
và chứa đựng dưới dạng tiềm năng tất cả mọi hiện tượng của tự nhiên và xã
hội. Nó là nguồn gốc và động lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội. Ý
niệm tuyệt đối trong quá trình tự phát triển của nó diễn ra qua các giai đoạn
khác nhau, ngày càng thể hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó. Đầu tiên nó
phát triển trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dưới hình thức tự nhiên – thế
giới vô cơ, hữu cơ và con người, tiếp nữa là thể hiện dưới hình thức nhà nước,
nghệ thuật, tôn giáo và triết học.
- Vật chất, giới tự nhiên là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên của ý niệm tuyệt
đối. Ý niệm tuyệt đối là bản chất của tự nhiên cũng như của tinh thần. Tất cả
mọi sự vật chỉ là chân lý chừng nào trong chúng đều thể hiện ý niệm này. Toàn
bộ thế giới muôn màu muôn vẻ chỉ là sự tự tha hóa, một sự tồn tại khác, một
sản phẩm sơ cứng bất động của Ý niệm tuyệt đối. Ông đã khẳng định tính
quyết định của nó trong việc đưa ra các phương thức giải quyết cho các vấn đề

thuộc về lý luận cũng như thực tiễn.
Trang 5/14
- Theo Heghen, tư duy hoàn toàn không được xem xét như là sản phẩm đặc biệt
của bộ óc con người, như là nét đặc thù của con người. Heghen đồng nhất tư
duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với tư cách là cơ sở của mọi sự vật,
hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là khách thể, vừa là chủ
thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư duy.
- Ý niệm tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận thức,
là sự mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó. Những phạm trù là
những xác định logic này, hơn nữa chúng còn thể hiện sự phát triển của ý niệm
tuyệt đố. Những phạm trù trong triết học Heghen không phải là sự phản ánh
thế giới khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng hoàn toàn không
chứa đựng một nội dung gì cả. Trái lại, những phạm trù của Heghen còn có ý
nghĩa bản thể luận. Những phạm trù logic không phải là cái gì khác hơn là
những trừu tượng được tách ra từ bản thân hiện thực, cho nên chúng có nội
dung sinh động, phong phú, từ đó tạo nên nội dung sâu sắc của Khoa học logic.
Tuy nhiên dưới góc độ duy tâm Heghen đã đánh giá những phạm trù cao hơn
thế giới khách quan, khi ông coi chúng là những tấm vải mộc, còn mọi hiện
tượng, quá trình của thế giới chỉ là những hoa văn được trang trí trên những
tấm vải này.
• Phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học
Heghen. Có thể nói, trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, Heghen
chỉ lặp lại những điều mà các nhà duy tâm trước đó đã nói. Song, cái mới trong
học thuyết của ông, chính là chỗ ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm tuyệt
đối là một quá trình tự phát triển không ngừng và ông là một nhà triết học hoàn
chỉnh phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng của ý niệm tuyệt đối, tinh
thần thế giới với tính cách là cơ sở đầu tiên và nguồn gốc của mọi tồn tại.
Heghen đã phê phán phép siêu hình thống trị lúc đó và ông đã lấy phép biện
chứng đem đối lập với nó, ông đã nâng phép biện chứng từ trình độ tự phát lên
trình độ lý luận.

- Phát triển là một quá trình thay đổi từ thấy lên cao, bằng cách chuyển hóa qua
lại giữa lượng và chất, do sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong các hình
Trang 6/14
thức cụ thể của ý niệm tuyệt đối tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận
động của ý niệm tuyệt đối, Heghen đã phát hiện ra các quy luật cơ bản của
phép biện chứng và các quy luật không cơ bản – các cặp phạm trù. Theo phép
biện chứng của Heghen, các sự vật, hiện tượng trên thế giới không cô lập, tách
rời nhau mà liên hệ tác động qua lại với nhau và không ngừng chuyển hóa cho
nhau, nghĩa là vạn vật liên hệ với nhau một cách phổ biến. Điều này hiện nay
đã được khoa học chứng minh. Theo Heghen, vạn vật không những liên hệ, tác
động qua lại với nhau mà còn không ngừng vận động và phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện cho đến hoàn thiện hơn.
Nguồn gốc của động lực và phát triển là sự đấu tranh của những mặt đối lập.
Đây là tư tưởng hoàn hoàn bình đẳng, hợp lý. Công lao của Hêghen so với
những người tiền bối của ông là ở chỗ đã phân tích một cách tổng hợp và biện
chứng tất cả các phạm trù quan trọng nhất của triết học và hình thành trên cơ
sở duy tâm ba quy luật cơ bản của tư duy: quy luật chuyển hoá từ lượng thành
chất, quy luật thâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập và quy luật phủ định của
phủ định.
- Theo Heghen, logic học trước ông là khoa học về những hình thức tư duy chủ
quan, vì vậy nó chưa đầy đủ, chưa đáp ứng được với sự phát triển của triết học
và khoa học. Trên cơ sở đó Heghen đã sáng tạo ra một hệ thống logic học mới
- logic biện chứng nhằm đem lại cho triết học một phương pháp luận mới đó là
phép biện chứng. Heghen đã đồng nhất khoa học logic với logic học duy tâm,
logic học này sử dụng những kết quả phát triển của những khoa học tự nhiên
hay những khoa học này có nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu cho logic học nhằm phát
hiện những quy luật, những khái niệm chung. Logic học duy tâm của Heghen
đã coi những khoa học này dưới những hình thức khác nhau và đặt dấu ấn vào
chúng. Nó chỉ ra rằng những quy luật và những khái niệm của các khoa học tự
nhiên là sự thể hiện không đầy đủ của những phạm trù lý tính thuần tuý. Tác

phẩm chủ yếu của Heghen là “Khoa học logic” được gọi là Đại logic và logic
học phần đầu trong “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” được gọi là
Tiểu logic đều nghiên cứu những phạm trù logic như là hệ thống phát triển,
Trang 7/14
gắn liền và thống nhất với nhau. Chính trong Khoa học logic cũng như logic
học Heghen đã trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ
sở duy tâm.
- Phép biện chứng của Heghen (hay như chính Heghen gọi là phương pháp tuyệt
đối) là sự trừu tượng của vận động, trừu tượng của phát triển của thế giới hiện
thực khách quan. Phép biện chứng này được Heghen hình dung như là sự vận
động dưới hình thức cực kỳ trừu tượng, sự vận động của lý tính thuần tuý.
Heghen đã trình bày qui luật phủ định của phủ định như là một trong những
quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng. Heghen đã đồng nhất quy luật
này với tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp đề. Từ đó ông đã xây dựng
nên hệ thống triết học cũng như từng phần trong hệ thống đó. Mỗi một phạm
trù của phép biện chứng được Heghen sắp xếp được hình thức chính đề. Chính
đề này trong quá trình vận động, phát triển trở thành phản đề và sau đó chúng
hoà nhập vào khái niệm cao nhất là hợp đề. Hợp đề không phải là quay trở lại
một cách đơn giản về chính đề, mà là giai đoạn phát triển cao hơn bởi yếu tố
phủ định. Quy luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát
triển từ thấp cho đến cao. Theo Heghen mặt phủ định thể hiện trong mỗi một
phạm trù, khái niệm là cơ sở, điều kiện của quá trình phát triền. Ở đây Heghen
đã vạch ra mâu thuẫn là nguyên nhân làm cho phạm trù, khái niệm chuyển từ
giai đoạn này đến giai đoạn khác. Trong khoa học logic Heghen đã nhấn mạnh
mâu thuẫn là nguồn gốc của mọi vận động và sức sống. Chỉ vì một cái gì đó có
mâu thuẫn ở trong bản thân mình mà nó được vận động, có mạch đập và hoạt
động.
- Phép biện chứng của Heghen không chỉ là lý luận biện chứng về sự phát triển
của thế giới ý niệm, mà còn là phương pháp biện chứng nghiên cứu thế giới ý
niệm. Thông qua phép biện chứng của ý niệm, Heghen đã đoán được phép biện

chứng của sự vật, vì vậy, nó là phép biện chứng duy tâm.
• Những cơ sở của phép biện chứng duy tâm xuất phát từ sự vận động
và phát triển của những mâu thuẫn được diễn ra trong những khái
Trang 8/14
niệm. Sự vận động của mặt khẳng định đến mặt phủ định và việc xem xét sự
thống nhất của chúng là bản chất của nhận thức trừu tượng, nhận thức biện
chứng. Nhận thức này được Heghen đối lập lại với nhận thức lý trí, logic hình
thức. Như vậy cấu trúc logic của Heghen mang tính chất trừu tượng thuần tuý.
Heghen đã xem xét hệ thống những phạm trù logic phát triển như là sơ đồ tiên
nghiệm của sự phát triển thế giới. Mặc dù với lối tư duy có tính chất tư biện,
trừu tượng của Hêghen, nhưng những phạm trù logic học của ông suy cho cùng
cũng được rút ra từ thế giới hiện thực khách quan. Cho nên trong Bút ký triết
học Lênin đã chỉ ra rằng, Heghen đã phỏng đoán một cách thiên tài về phép
biện chứng của những sự vật, hiện tượng, thế giới tự nhiên trong phép biện
chứng của những khái niệm. Sự khẳng định này đã được thể hiện trong sự phát
triển của những khái niệm trong logic học Heghen. Chính Mác cũng cho rằng,
Heghen trong sự trình bày một cách tư biện, trừu tượng thường lại đưa ra được
một sự trình bày hiện thực bao gồm chính các sự vật. Chính những quan điểm
này tạo nên giá trị to lớn của phép biện chứng của Heghen, mà về sau chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa và phát triển. Heghen tuyên bố: “Bộ óc
của Heghen là vĩ đại nhất trong lịch sử và nhân loại không thể nào tìm bộ óc
nào vĩ đại hơn Heghen được, đồng thời triết học của ông là cuối cùng trong
lịch sử”. Nhưng Heghen đâu biết rằng sau đó chính triết học của Marx và
Engels đã phủ định triết học của Heghen. Đó cũng là lẽ đương nhiên vì theo
tinh thần biện chứng mà Heghen đã chỉ ra.
3. VAI TRÒ CỦA PBC DUY TÂM ĐỐI VỚI SỰ RA ĐỜI CỦA
TRIẾT HỌC MAC-LENIN:
Tuy là một trong ba nhà Triết học tiêu biểu nhất của Triết học cổ điển
Đức nhưng trong Triết học của Heghen vẫn còn tồn tại những mâu thuẫn và
chính vì sự mâu thuẫn đó đã là tiền đề cho cuộc cách mạng Triết học thực sự -

Triết học Marxit.
3.1. Mâu thuẫn trong hệ thống Triết học của Heghen:
Trang 9/14
Mâu thuẫn trong triết học Hêghen chính là mâu thuẫn giữa một bên là
phương pháp biện chứng khoa học và một bên là hệ thống triết học duy tâm
thần bí.
Tất cả các phạm trù của phương pháp biện chứng mà Heghen đã tìm ra
đều phản ánh sự vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt
đối chứ không phải của thế giới tự nhiên. Ông xem xét ý niệm tuyệt đối là một
quá trình phát triển không ngừng, phương pháp biện chứng về ý niệm tuyệt đối
là cơ sở đầu tiên và là nguồn gốc của mọi tồn tại. Tuy nhiên, nếu phương pháp
biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát
triển thì hệ thống triết học duy tâm của ông lại phủ nhận tính chất khách quan
của những nguyên nhân nội tại, vốn có của sự phát triển tự nhiên xã hội. Như
vậy, biện chứng ở đây chỉ dừng lại ở hình thức biện chứng duy tâm, biện
chứng ở tinh thần và kết thúc ở tinh thần, giới tự nhiên chỉ là sự sao chép của ý
niệm tuyệt đối.
Biện chứng pháp duy tâm của Heghen, phần nào mà nó đã nắm được
thực sự những hình thái mâu thuẫn và biến chuyển, dù chỉ có trong phạm vi
tinh thần, thì cũng không thể nào xuất phát từ lập trường duy tâm. Vì nguồn
gốc mâu thuẫn, lý do biến chuyển trong tinh thần căn bản vẫn là ở thực tế
khách quan, không phải là ở tinh thần thuần túy. Thực chất tinh thần là phản
ánh thực tế khách quan, vậy nếu không có mâu thuẫn và biến chuyển trong
thực tế khách quan, thì cũng không thể nào có mâu thuẫn và biến chuyển trong
tinh thần. Trên cơ sở tinh thần thuần túy chỉ có thể có hiện tượng tĩnh và bảo
thủ, không thể nào có động và tiến. Nghĩa là tuy biện chứng pháp của Heghen
xuất hiện với một hình thức triệt để duy tâm, nhưng cái mặt chân chính của nó
- nêu mâu thuẫn trong nội bộ sự việc và tính chất tất nhiên của sự biến chuyển
- lại là đối lập với chủ nghĩa duy tâm, và chỉ có thể bắt nguồn từ một cơ sở duy
vật nào đấy. Thực ra thì ngược hẳn với lập trường duy tâm, nhờ ảnh hưởng của

phong trào cách mạng đương thời ở Âu châu, Heghen đã tiếp thu trong tư
tưởng một nội dung duy vật phong phú, tuy nội dung ấy cũng như phương
pháp đã bị hoàn toàn đảo lộn, do tình trạng lạc hậu của giai cấp tư sản Đức mà
Heghen đại diện.
Trang 10/14
Một số mâu thuẫn khác trong nhận định của Heghen:
- Khẳng định một cách biện chứng về sự phát triển không ngừng của ý niệm
tuyệt đối nhưng chính ông đã mâu thuẫn lại với khẳng định khi cho rằng triết
học của mình là điểm tận cùng trong sự phát triển của ý niệm tuyệt đối, sau
ông sẽ không còn ai là nhà triết học nữa.
- Khẳng định nhận thức là một quá trình phát triển chứa đầy mâu thuẫn nhưng
lại coi triết học của mình là như là chân lý tuyệt đối không thể phát triển được
nữa.
- Thừa nhận tính phổ biến và khách quan của mâu thuẫn nhưng lại coi triết học
của mình như là một hệ thống hoàn toàn hài hoà, không còn mâu thuẫn. Khi có
mâu thuẫn thì chủ trương điều hoà hay dung hoà mâu thuẫn.
3.2. Cuộc cách mạng trong Triết học do Marx – Engels thực hiện:
Vì nội dung tư tưởng Heghen căn bản xuất phát từ thực tế khách quan,
xét tới cùng thì cũng có tính chất duy vật, mà nội dung ấy lại bao quát hầu như
toàn bộ lịch sử thế giới, Heghen đã xây dựng được quan điểm tiến hóa và
phương pháp luận lý biện chứng, quan điểm và phương pháp ấy tuy có bị lập
trường duy tâm đảo lộn, nhưng cũng đã làm tiền đề cho chủ nghĩa Marx.
Marx đã lộn lại biện chứng pháp Heghen, gạt bỏ cái màn duy tâm để
nêu lên cái hạt nhân duy lý, thiết lập phương pháp biện chứng duy vật. Cần
phải nhận rõ tính chất sáng tạo trong công trình ấy. Marx không phải chỉ có cải
tạo một cách đơn thuần biện chứng pháp Heghen, nhưng thực ra thì đã sáng tạo
lại hoàn toàn phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật, theo một nội
dung mới. Vì tuy nội dung hệ thống triết học của Heghen có bao gồm lịch sử
thực tại, nhưng Heghen lại thu hẹp nó vào phần tinh thần, biến nó thành hiện
tượng duy tâm thuần túy, do đấy phương pháp biện chứng cũng phải xuất hiện

dưới một hình thức thần bí. Chỉ có trên lập trường duy vật mới có thể phát triển
nội dung chân chính phản ánh đúng đắn thực tế khách quan, và nhờ đấy xây
dựng phương pháp tư tưởng ăn khớp với quy luật mâu thuẫn và biến chuyển
của thực tại. Chính như thế là “lộn lại” biện chứng pháp Heghen, thiết lập
Trang 11/14
biện chứng pháp duy vật. Marx nói: “Tuy biện chứng pháp trong tay Heghen
đã bị thần bí hóa, nhưng chính Heghen là người đầu tiên đã trình bày một
cách tổng quát và có ý thức những hình thái biện chứng phổ cập của sự biến
chuyển. Với Heghen biện chứng pháp đi đường đầu. Chúng ta phải lộn nó lại,
để bóc trần cái hạt nhân duy lý ẩn trong cái vỏ thần bí”.
Để thấy rõ sự khác nhau sâu sắc giữa biện chứng pháp duy vật và biện
chứng pháp duy tâm và tính chất ưu việt tuyệt đối của biện chứng pháp duy
vật, đồng thời nội dung phong phú và tác dụng xây dựng của biện chứng pháp
Heghen, chúng ta có thể đi vào từng vấn đề đặc biệt của triết học Heghen và
phân tích cụ thể cái căn bản khoa học chân chính cùng với cái tình trạng lộn
ngược của nó. Chúng ta sẽ thấy rằng chính cái phần chân lý trong ấy cũng phải
có vận dụng phương pháp biện chứng duy vật mới có thể nêu rõ, nhưng mặt
khác thì biện chứng pháp Heghen, một khi đã được lộn lại, lại cung cấp những
tài liệu tốt để học tập chủ nghĩa Marx. Nơi trình bày hệ thống phạm trù biện
chứng của Heghen là cuốn Luận Lý Học (1812), cuốn này đã trực tiếp ảnh
hưởng đến cuốn Tư Bản Luận của Karl Marx.
Vào giữa thế kỷ XIX, con người đã đạt được những thành tựu nổi bật về
khoa học tự nhiên: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; Học thuyết
tế bào; Học thuyết tiến hóa. Các thành tựu này đã làm lung lay tận gốc các
quan niệm duy tâm, siêu hình về nhận thức thế giới tự nhiên, đồng thời khẳng
định các tư tưởng nền tảng (nguyên lý) của phép biện chứng duy vật (hay chuy
nghĩa duy vật biện chứng) về mọi sự tồn tại (thống nhất vật chất; liên hệ phổ
biến; vân động, phát triển) trong thế giới.
Trong triết học của Marx phép biện chứng duy vật, nội dung gồm hai
nguyên lý, ba quy luật và sáu phạm trù. Người đầu tiên khái quát nên những

nguyên lý, quy luật và phạm trù đó không phải là Mác mà là Heghen. Sự ra đời
triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển
triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê
phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết
học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây
Trang 12/14
triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả
phép biện chứng duy tâm của Heghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong
học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách
mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
KẾT LUẬN
Triết học Heghen đã khép lại một thời kỳ huy hoàng của nền triết học cổ
điển Đức, với phát mình vĩ đại là phép biện chứng – trình bày cụ thể quy luật
vận động và phát triển, lượng đổi chất… Tuy nhiên đó lại là sự phản ánh quá
trình vận động phát triển của tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Triết học của
Trang 13/14
Heghen đã miêu tả một cách lộn ngược những quy luật phát triển của giới tự
nhiên, bị bao xung quanh bởi vỏ bọc duy tâm thần bí. Nhận biết được những
mâu thuẫn này cùng với những tiền đề khác, Mác và Ăngghen đã thực hiện
một cuộc cách mạng triệt để trong triết học, đưa phép biện chứng ra khỏi lớp
vỏ duy tâm, phát triển nó cùng với chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-Bách để xây
dựng nên nền triết học duy vật biện chứng ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học P1, ĐH Kinh Tế Tp.HCM
2. Đề tài tiểu luận Triết Học Heghen, K21.
Trang 14/14
3. Lút-vích Phoi-ơ-bách và sự cáo chung của Triết học cổ điển Đức,
Ăngghen
4. Những tư tưởng cơ bản của Heghen về logic học với tính cách là logic
biện chứng, TS. Nguyễn Đình Tường, tạp chí Khoa học Xã hội.

5. Hạt nhân duy lý trong Triết học Heghen, Trần Đức Thảo.
MỤC LỤC
Trang 15/14

×