LỜI MỞ ĐẦU
Bộ luật dân sự Việt Nam lần đầu tiên ra đời đã bao quát được một số lĩnh vực
rộng lớn trong đời sống xã hội, đó là giao lưu dân sự của các chủ thể. Bên cạnh
việc xây dựng chuẩn mực chủ thể pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ dân
sự, góp phần giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển, bộ luật
dân sự còn hạn chế những tranh chấp, tiêu cực trong quan hệ dân sự làm lành
mạnh các quan hệ xã hội bằng những quy định về trách nhiệm bồi thường dân sự.
Những quy định này nhằm mục đích tạo ra cơ chế hữu hiệu nhất giúp cho những
chủ thể có đủ cơ sở để tự bảo vệ các quyền dân sự của mình, cũng như có quyền
yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền dân sự bị
xâm phạm.
Luật dân sự điều chỉnh những mối quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản luôn
luôn tồn tại trong xã hội chúng ta. Để đảm bảo cho mọi người dân đều được
hưởng các quyền và lợi ích chính đáng. Quyền nhân thân điều 24 bộ luật dân sự
sửa đổi bổ sung như sau: "Là quyền dân sự gắn kết với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao cho người khác''. Và điều 37 bô luật dân sự 2005 đã ghi nhận: "Danh
dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ". Như
vậy khi quyền nhân thân của cá nhân nói chung hay quyền được bảo vệ danh dự,
nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm hại nói riêng sẽ được pháp luật bảo vệ và
nếu ai đó xâm phạm một cách trái pháp luật đối với cá nhân về danh dự, nhân
phẩm, uy tín thì người đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại (TNBTTH)
cho cá nhân bị xâm phạm theo quy định của pháp luật.
Vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ các quy định của bộ luật dân sự và xác
định trong khoa học pháp lý những quan niệm, nhận thức, cơ sở pháp lý một cách
thống nhất về TNBTTH trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm là một việc làm hết sức cần thiết. Tất cả những lý do trên nói lên tính cấp
thiết của đề tài "trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm danh dự,
1
nhân phẩm, uy tín của người khác" mà em đã chọn và trình bày trong bài tập
học kì này.
MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Theo quy định chung của BLDS Việt Nam thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác là loại trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn gọi là TNBTTH do có hành vi trái
pháp luật. Đây là một chế định rất đa dạng và khá phức tạp trong luật dân sự. Tuy
nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài em chỉ nghiên cứu những vấn đề lý
luận cơ bản nhất về TNBTTH do có hành vi trái pháp luật trong luật dân sự và chỉ
đi sâu làm rõ về TNBTTH do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của các cá
nhân trong xã hội. Đồng thời đánh giá thực tiễn việc xét xử của ngành Tòa án
nhân dân trong lĩnh vực này, để đề ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng
mắc trong quá trình áp dụng các quy định của BLDS.
Để đạt được mục đích trong phạm vi nghiên cứu đó, đề tài tập chung giải
quyết các nhiệm vụ:
Thứ nhất, nghiên cứu làm sang tỏ khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý và
những căn cứ làm phát sinh TNBTTH do xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín.
Thứ hai, tìm hiểu những điều kiện cơ bản để xác định TNBTTH được quy
định trong BLDS.
Thứ ba, phân tích thực trạng công tác xét xử của ngành tòa án nhân dân trong
việc áp dụng các quy định của BLDS để giải quyết các tranh chấp về BTTH do có
hành vi trái pháp luật, tìm ra những vướng mắc, tồn tại và đề xuất giải pháp khắc
phục.
NỘI DUNG
Quyền và nghĩa vụ của mọi công dân Việt Nam đều được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 1992 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Quyền và
2
nghĩa vụ cơ bản của công dân, nó có ý nghĩa quyết định trong việc xác định địa vị
pháp lý của công dân. Song song với việc ghi nhận các quyền đó nhà nước đã
hoàn thiện một cơ chế quan trọng là đảm bảo bằng những biện pháp, pháp lý
thông qua việc cụ thể hóa ở các văn bản pháp luật khác.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa với những đặc điểm của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước là sự đa dạng, phức tạp của các quan hệ xã hội đó. Do đó
nhà nước phải đảm bảo cho đời sống xã hội co tính tổ chức cao và ổn định. Để
đáp ứng yêu cầu đó, hàng loạt những văn bản pháp lật được ban hành như bộ luật
lao động, luật hình sự, đặc biệt BLDS được Quốc Hội khóa 9 kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 28-10-1995 và có hiệu lực từ ngày 1-7-1996, với sự kế thừa truyền
thống pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kì. BLDS quy định: "quyền nhân
thân trong quan hệ dân sự do pháp luật quy định được tôn trọng và bảo vệ". Điều
25 BLDS cũng khẳng định: Khi quyền nhân thân của người đó bị xâm phạm thì
người đó có quyền :
1. Tự mình cải chính
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai.
3.Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của tập thể, lợi ích của cá nhân, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân khi có hành vi xâm phạm về danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác, pháp luật dân sự nói chung và BLDS nói riêng quy
định trách nhiệm về bồi thường thiệt hại xảy ra do hành vi vi phạm pháp luật gây
ra, việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại như là một phương tiện pháp lý
được nhà nước sử dụng để bảo vệ các quyền và lợi ích của các chủ thể và nhằm
3
giáo dục người gây thiệt hại nói riêng và mọi công dân trong xã hội nói chung về
ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng lợi ích, quyền nhân thân của người khác. Nó
xuất phát từ yêu cầu thiết thực và cấp bách nhất của xã hội. Đòi hỏi ấy phải đảm
bảo sự bình đẳng, công bằng, chính xác, hợp lý và hiệu quả.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiêt
hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một trong những chế định ra đời từ rất
sớm trong pháp luật dân sự. Qua những thời kì lịch sử khác nhau và ở những
nước khác nhau, chế định này đều được quy định một cách tương đối cụ thể về
cách thức bồi thường, thiệt hại phải bồi thường cũng như mức độ bồi thường. Tuy
nhiên pháp luật và tập quán các nước đều ghi nhận một nguyên tắc chung nhất đó
là: "người gây ra thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại".
Bồi thường thiệt hại (BTTH) là một chế định quan trọng của BLDS là cơ sở để
bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho các chủ thể. BTTH là một trong những quan
hệ dân sự, bao giờ nó cũng gắn liền với quyền, lợi ích chính đáng của những chủ
thể nhất định, nhằm bảo vệ họ trong quan hệ xã hội, nó là một hình thức trách
nhiệm dân sự để buộc bên có hành vi gây thiệt hại phải bù đắp những tổn thất về
vật chất cũng như tinh thần cho bên bị vi phạm.
Nhà nước ta luôn bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân về
danh dự, tính mạng, sức khỏe, uy tín cho mọi công dân: "Mọi hành động xâm
phạm lợi ích, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể của công dân đều bị xử lý theo
pháp luật". Hoặc tại chương 1 Phần thứ nhất về những quy định chung của BLDS
trong các nguyên tắc của luật dân sự. Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của nhà nước,
lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 2). Nguyên
4
tắc tôn trọng bảo vệ quyền nhân thân...
Trong thực tế hoạt động xã hội, ngày càng nhiều các hiện tượng xâm phạm đến
danh dự, nhân phẩm của người khác. Nếu thiếu đi nghĩa vụ BTTH thì nhà nước
không thể bảo vệ một cách chính đáng độ an toàn pháp lý để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân và các chủ thể khác khi tham gia vào các quan hệ dân
sự.
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng và cơ bản của luật dân sự.
Do vậy không chỉ ngày nay mà từ thời xa xưa ông cha ta đã chú ý đến và có nhiều
quy định về BTTH khi gây ra thiệt hại như Bộ Hoàng Việt Luật Lệ của triều
Nguyễn, Bộ Quốc Triều Hình Luật của nhà Lê... Khi nghiên cứu pháp luật cổ Việt
Nam, chúng ta thấy các chế định về trách nhiệm dân sự được quy định rất sơ sài,
tản mạn và gần như không có sự phân biệt giữa trách nhiệm dân sự (TNDS) và
trách nhiệm hình sự (TNHS). Pháp luật không chú trọng vào việc quy định nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Tuy nhiên cùng với TNHS, một số
bộ luật cũng đã quy định về khoản tiền bồi thường cho người bị hại. Ví dụ trong
cổ luật cũng đặt ra sự BTTH về phương diện tinh thần như trong bộ luật Hồng
Đức vấn đề này đã được quy định trong một số trường hợp đặc biệt, mặc dù danh
từ BTTH về tinh thần chưa được biết tới - tại Điều 472 quy định đối với các vụ
đánh quan chức bị thương thì ngoài tiền đền thương tổn còn phải đến tiền tạ.
Nhưng còn đối với dân thường thì không có quy định nào nói về việc BTTH do
xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự...về tinh thần. Đây cũng chính là sự bất bình
đẳng trong chế độ cũ. Như vậy, mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng trong
cổ luật đã chấp nhận sự BTTH, có thể thiệt hại là vật chất nhưng cũng có thể
thiệt hại là tinh thần hoặc cũng có thể do sự vi phạm pháp luật...
Dưới thời pháp thuộc, do tiếp thu được phần nào sự tiến bộ của nền khoa học
pháp lý phương Tây nên trách nhiệm dân sự TNDS đã được tách khỏi trách nhiệm
hình sự TNHS. Được thể hiện rõ trong Điều 761 Hoàng Việt Trung Kỳ hộ Luật,
5
đó là: người nào làm bất cứ việc gì gây thiệt hại cho người khác do lỗi của mình
đều phải bồi thường thiệt hại.
Qua một số quy định trong luật cổ của Việt Nam, thấy rằng TNBTTH về dân
sự tuy chưa được tồn tại một cách độc lập, song những quy định cụ thể này đã
khẳng định TNBTTH về dân sự nay gọi là TNDS đã được hình thành từ lâu đời.
Những quy định này được pháp luật hiện đại Việt Nam kế thừa và phát triển thành
chế định trách nhiệm bồi thường dân sự độc lập như hiện nay. Theo pháp luật
hiện đại thì TNDS nói chung được hiểu: "Việc bắt buộc phải sửa chữa một thiệt
hại do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vu dân sự". Ngoài ra,
TNDS còn được hiểu theo nghĩa rộng đó là: việc phải gánh chịu hậu quả bất lợi
về những việc đã làm hoặc làm không đúng. Sự gánh chịu hậu quả bất lợi này
chính là sự phản ứng của nhà nước đối với hành vi trái pháp luật gây hậu quả xấu.
Như vậy, TNDS nói chung cũng như TNBTTH theo pháp luật dân sự hiện đại
ngoài những nét chung của trách nhiệm pháp lý, còn có những điểm riêng đó là
luôn được phân biệt thành hai loại cơ bản đó là trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ
và trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Thực tiễn đời thường cho thấy, hầu
hết các hành vi trái pháp luật của cá nhân dưới nhiều hình thức khác nhau có thể
đem lại những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc về tài sản cho người
khác. Đây chính là những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự do sự kiện "gây
thiệt hại do hành vi trái pháp luật". Điều 71 Hiến pháp năm 1992 quy định rõ:
"Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm... Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức,
nhục hình xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân".
Cùng với việc ghi nhận của Hiến pháp, nhà nước ta còn quy định những quy
phạm pháp luật cụ thể khác trong nhiều lĩnh vực như hình sự, dân sự, hành
chính... giúp cho các cá nhân bảo vệ các quyền này một cách hữu hiệu, để ngăn
chặn và khắc phục hậu quả của những hành vi xâm phạm này gây ra.
6
Từ đó chúng ta có thể hiểu khái niệm TNBTTH do xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín của người khác là một quan hệ dân sự mà trong đó người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác gây ra
thiệt hại thì phải có nghĩa vụ bồi thường những thiệt hại do chính mình gây ra.
1.2. Các quy định của BLDS trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm
danh dư, nhân phẩm, uy tín
Một trong những quyền nhân thân quan trọng gắn lền với mỗi cá nhân đó là
quyền được đảm bảo về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Điều 71 Hiến pháp năm
1992 quy định: "Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình xúc phạm danh
dự, nhân phẩm của công dân".
Về mặt hình sự, Bộ luật hình sự (BLHS) nước ta đã quy định rất nhiều điều luật
về các tội như: vu khống, làm nhục, hiếp dâm... để trừng trị các hành vi xâm
phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của mỗi cá nhân. Khoản 1 Điều 121
BLHS được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định: "người nào xúc phạm nghiêm
trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
Khái niệm danh dự, nhân phẩm và uy tín lần đầu tiên được đề cập đến trong
BLDS với ý nghĩa là các quyền nhân thân, mỗi cá nhân đều có nghĩa vụ phải tôn
trọng "danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác được tôn trọng và được pháp
luật bảo vệ".
Vậy danh dự, nhân phẩm, uy tín của mỗi cá nhân được hiểu như thế nào?
Theo từ điển Tiếng Việt định nghĩa thì danh dự, nhân phẩm, uy tín là một phạm
trù mang tính xã hội. Trong đó danh dự là sự coi trọng của dư luận xã hội dựa
trên gía trị tinh thần và đạo đức tốt đẹp. Như vậy danh dự của cá nhân chính là sự
tôn trọng của xã hội đối với các tiêu chuẩn về đạo đức. Vì vậy danh dự là một
trong những yếu tố để khẳng định vị trí, vai trò và uy tín của cá nhân đó trong xã
hội. Nhân phẩm và uy tín được hiểu là sự coi trọng, thừa nhận của những người
7
xung quanh, của xã hội về những phẩm chất mang tính đặc trưng tạo nên giá trị
con người của mỗi cá nhân. Theo định nghĩa trên thì danh dự, nhân phẩm, uy tín
của mỗi người có mối quan hệ qua lại gắn bó với nhau, nó gắn liền với mỗi cá
nhân và không thể chuyển giao cho người khác. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của
mỗi người được hình thành trong cuộc sống, trong hoạt động nghề nghiệp và các
quan hệ xã hội. Tùy theo nhân cách, lối sông và cách ứng xử của mỗi người... mà
ảnh hưởng của họ đối với xã hội cũng khác nhau vì thế cũng có cách nhìn nhận và
phân biệt theo cấp độ khác nhau. Nhưng đó lại là vấn đề thiêng liêng cần phải
được bảo vệ như nhau. Khi những giá tri tinh thần này bị xâm phạm bởi các hành
vi trái pháp luật thì người có hành vi vi phạm gây thiệt hại về vật chất hoặc tinh
thần thì phải có trách nhiệm bồi thường theo quy định tài Điều 611 BLDS thì cơ
sở để xác định thiệt hại bao gồm:
1. Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục những thiệt hại;
2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
…. ...
Theo quy đinh tại Điều 611 BLDS thì những thiệt hại phải bồi thường do xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bao gồm cả thiệt hại về vật chất
và cả thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất gồm có: các chi phí hợp lý để
hạn chế, khắc phục thiệt hại và thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người
bị thiệt hại. Thực tế cho thấy các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín
được thể hiện bằng việc dùng lời lẽ có tính chất miệt thị, thiếu văn hóa hay có
những hành động có tính chất thóa mạ để lăng nhục, hạ thấp nhân cách làm giảm
sự tôn trọng, tín nhiệm của những người xung quanh... Do ây, pháp luật quy định
cho các cá nhân và các chủ thể khác có quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc Tòa
án buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm bằng việc xin lỗi, cải chính
công khai.
Đối với thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút do xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm,
8