Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.06 KB, 90 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐÀO THẢO LY








Tr¸ch nhiÖm båi thêng thiÖt h¹i
do hµnh vi cña ngêi kh¸c g©y ra
theo ph¸p luËt ViÖt nam








LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
















HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





ĐÀO THẢO LY








Tr¸ch nhiÖm båi thêng thiÖt h¹i
do hµnh vi cña ngêi kh¸c g©y ra
theo ph¸p luËt ViÖt nam


Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MINH TUẤN









HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn


Đào Thảo Ly

MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
HÀNH VI CỦA NGƯỜI KHÁC GÂY RA THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM 6
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO HÀNH VI CON NGƯỜI GÂY RA 6
1.1.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cá nhân gây ra 6
1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người khác gây thiệt hại 7
1.2. CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG

THIỆT HẠI DO HÀNH VI CON NGƯỜI GÂY RA 8
1.2.1. Khái niệm về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng 8
1.2.2. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại 9
1.3. NGƯỜI PHẢI BỒI THƯỜNG VÀ NGƯỜI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG 14
1.3.1. Pháp nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại 14
1.3.2. Cá nhân 15
1.4. NHỮNG TRƯỜNG HỢP MIỄN TOÀN BỘ HOẶC MỘT
PHẦN TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI 18
1.4.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp giới hạn phòng vệ chính đáng 18
1.4.2. Bồi thường thiệt hại trong yêu cầu của tình thế cấp thiết 19

1.4.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi 21
1.4.4. Người phải bồi thường có thể được giảm mức bồi thường, nếu
do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của mình 22
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 24
Chương 2: THỰC TRẠNG QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH
VI CỦA NGƯỜI KHÁC GÂY RA 25
2.1. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN
PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG 25
2.1.1. Thực trạng quy định của pháp luật về điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải có thiệt hại xảy ra 26
2.1.2. Thực trạng quy định của pháp luật về điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải có hành vi gây
thiệt hại là hành vi trái pháp luật 29
2.1.3. Thực trạng quy định của pháp luật về điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phải có mối quan hệ

nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại thực tế xảy ra 31
2.1.4. Người gây thiệt hại phải có lỗi 33
2.2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ
XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI
CỦA NGƯỜI KHÁC GÂY RA 38
2.2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về xác định thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm 39
2.2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về xác định thiệt hại do tính
mạng bị xâm phạm 49

2.2.3. Xác định thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại 53
2.2.4. Xác định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 57
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CON NGƯỜI
GÂY RA ĐỂ GIẢI QUYẾT VIỆC BỒI THƯỜNG 59
3.1. MỘT SỐ VỤ ÁN CỤ THỂ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO HÀNH VI CỦA NGƯỜI
KHÁC GÂY RA 59
3.1.1. Vụ án liên quan đến xác định thiệt hại về tinh thần đối với sức
khỏe, tính mạng 59
3.1.2. Vụ án liên quan đến xác định trách nhiệm bồi thường, xác định
thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra và nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra 67
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ 71
3.2.1. Kiến nghị thay đổi mức bồi thường tổn thất về tinh thần trong
phần xác định thiệt hại về sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (Điều
609, 610 Bộ luật Dân sự) 73
3.2.2. Kiến nghị bỏ yếu tố lỗi trong điều kiện phát sinh trách nhiệm

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng 76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 79
KẾT LUẬN 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 82



1

MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định được quy định tại
Chương XXI Bộ luật Dân sự năm 2005 với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị xâm hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một
loại trách nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do
pháp luật quy định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Hiện nay, pháp
luật Việt Nam quy định chủ yếu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức cụ
thể của trách nhiệm dân sự. Nếu trách nhiệm dân sự nói chung được phát sinh
ngay sau khi có hành vi vi phạm pháp luật thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
chỉ phát sinh chừng nào hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra trong thực tế một
thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại rất đa dạng với nhiều hình thức, tính chất, nội
dung khác nhau.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm

bồi thường thiệt hại được hình thành giữa các chủ thể, trong đó người có hành
vi trái với quy định của pháp luật nói chung mà gây thiệt hại phải bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại. Ở các quốc gia khác nhau, qua các thời kỳ lịch
sử, quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng có sự khác nhau về
cách thức bồi thường, mức độ bồi thường, cách xác định thiệt hại cũng như
việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khác nhau. Tuy nhiên trên
thực tế để xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có hành

2

vi gây thiệt hại là rất khó khăn, nó liên quan nhiều đến các căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xác định thiệt hại, đặc biệt
việc xác định thiệt hại về tinh thần, xác định lỗi của người gây thiệt hại. Bộ
luật Dân sự còn có nhiều cách hiểu khác nhau về lỗi, có quan điểm cho rằng
cần giữ nguyên yếu tố lỗi như hiện nay, nhưng cũng có quan điểm cho rằng
không cần đưa yếu tố lỗi khi xem xét bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.Trên cơ sở đó học viên chọn đề tài: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi của người khác gây ra theo pháp luật Việt Nam". Làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình với mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
cũng như thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người
khác gây ra theo pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó góp phần thể chế hóa quy
định trong hiến pháp năm 2013 và sửa đổi quy định trong Bộ luật Dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua khảo sát, tác giả nhận thấy liên quan đến đề tài của mình đã có
một số những công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố và thể hiện ở
những hình thức khác nhau:
Dưới hình thức luận văn thạc sĩ, có những công trình nghiên cứu sau:
Luận văn thạc sĩ Luật học Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn đề về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và uy tín".

Luận văn thạc sĩ Luật học Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự".
Về giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, bình luận khoa học, có
thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: TS. Đỗ Văn Đại: Bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng: Trách nhiệm hạn chế thiệt hại (Bản án và bình luận án),
TS. Đỗ Văn Đại: Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam bản án
và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010; TS. Phùng Trung

3

Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng,
Nxb Hà Nội, Hà Nội, 2009
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí như: Phạm
Kim Anh: "Trách nhiệm dân sự và chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 thực trạng và giải pháp hoàn thiện", Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 6/2009, Phạm Văn bằng: "Chế định bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng những vấn đề đặt ra khi sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005",
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2013, TS Phùng Trung Tập: "Cần hoàn
thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật
Dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2005.
Mỗi tác giả đều có một cách khám phá, tiếp cận và khai thác đề tài ở
một góc độ khác nhau. Những vấn đề mà các công trình nghiên cứu, các bài
viết đã kể trên tuy có đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do hành vi của con người gây ra, nhưng chỉ giới hạn ở một số vấn đề cụ
thể hoặc dưới góc độ nguyên tắc. Vì vậy, công trình nghiên cứu này không bị
trùng lắp với công trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi của người
khác gây ra đã được quy định trong pháp luật dân sự Việt Nam năm 2005 và
thực hiện trong thực tiễn tại Tòa án nhân dân trong nhiều năm qua. Tuy nhiên,

tình hình thực tế cho thấy những quy định của pháp luật dân sự trong việc xác
định thiệt hại đặc biệt là xác định thiệt hại về tinh thần, xác định thiệt hại do
hành vi trái pháp luật gây ra và nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, có cần đưa yếu
tố lỗi vào khi xem xét bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay không vẫn tồn tại
những bất cập, hạn chế. Việc các bản án, quyết định của Tòa án chưa bảo vệ
được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn xảy ra. Từ đó, mục đích
nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi của người khác gây ra trong pháp luật dân sự Việt Nam,

4

thực trạng quy định của pháp luật dân sự cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng
những quy định đó là cơ sở để đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
của người khác gây ra trong pháp luật dân sự Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những
quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn liên quan
đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do hành vi của con
người gây ra trong pháp luật dân sự cụ thể như sau: cơ sở lý luận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra, thực trạng quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và thực tiễn áp dụng
các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác
gây ra để giải quyết việc bồi thường.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam. Bên
cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành cũng được sử
dụng một cách phù hợp với nội dung của từng vấn đề trong luận văn như:

- Phương pháp so sánh được sử dụng ở Chương 1 để so sánh sự khác
nhau giữa bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra và con người gây ra.
- Phương pháp phân tích chứng minh, phương pháp diễn giải và
phương pháp tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong luận văn, cụ thể: Ở
Chương 1, các phương pháp này được sử dụng để thể hiện khái niệm, đặc
điểm, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tiếp theo, ở
Chương 2, các phương pháp này được sử dụng để thể hiện nội dung thực
trạng quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
của người khác gây ra trong pháp luật dân sự. Cuối cùng là Chương 3 thì

5

các phương pháp này đã phát huy hiệu quả trong việc trình bày những
vướng mắc, bất cập của pháp luật dân sự liên quan trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi của con người gây ra nhằm đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp thống kê được sử dụng ở Chương 3 để thống kê một số
vụ án của Tòa án và đánh giá một số bản án, quyết định của Tòa án trong xét
xử liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người
gây ra từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi bổ sung.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật dân
sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra cũng
như thực tiễn thực hiện các quy định này, luận văn đã tìm ra những vướng mắc,
bất cập trong quy định của pháp luật và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật, góp phần thể chế hóa các quy định của hiến pháp và Bộ luật Dân sự.
Giá trị ứng dụng: Luận văn sẽ là công trình nghiên cứu có giá trị tham
khảo cho những người làm công tác pháp luật, sinh viên các trường luật và
cho những người có mối quan tâm đến việc tìm hiểu những quy định của pháp
luật tố tụng dân sự Việt Nam trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của

người khác gây ra trong pháp luật Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bồi thường thiệt hại do hành vi của người
khác gây ra theo pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại do con người gây ra để giải quyết việc bồi thường.


6

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI
CỦA NGƯỜI KHÁC GÂY RA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO HÀNH VI CON NGƯỜI GÂY RA
1.1.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cá nhân gây ra
Trong khoa học pháp lý dân sự có rất nhiều thuật ngữ khác nhau mô tả
về: nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ dân sự, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Quan hệ pháp luật dân sự có nội dung là một bên phải thực hiện hay
không thực hiện một công việc hoặc một số công việc nhất định để bên kia
hưởng lợi ích từ công việc đã được thực hiện hoặc không được thực hiện đó
được gọi là quan hệ nghĩa vụ dân sự.
Khi một bên vi phạm nghĩa vụ (hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà không

thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ) thì kể từ thời điểm nghĩa vụ bị vi
phạm bên vi phạm có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đó đối với bên bị vi phạm.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ dân sự đã phát sinh.
Quan hệ pháp luật được hình thành giữa người gây thiệt hại và người bị
thiệt hại được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trong đó, nếu hành vi
gây thiệt hại là hành vi khôn thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa
vụ đang tồn tại giữa họ với nhau thì quan hệ giữa họ được gọi là trách nhiệm
do vi phạm nghĩa vụ.
Nếu hành vi gây thiệt hại là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật
nói chung của một người bất kỳ gây ra thiệt hại cho một người bất kỳ khác
(giữa họ chưa tồn tại một quan hệ nghĩa vụ nào) thì quan hệ giữa họ được gọi
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

7

Như vậy, trách nhiệm dân sự nói chung là sự quy định của luật dân sự
về hậu quả pháp lý mà người có hành vi vi phạm quy tắc xử sự phải gánh chịu
hậu quả pháp lý nhất định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên có
quyền dân sự bị xâm phạm.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một hình thức cụ
thể của trách nhiệm dân sự. Nếu trách nhiệm dân sự nói chung được phát sinh
ngay sau khi có hành vi vi phạm pháp luật thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
chỉ phát sinh chừng nào hành vi vi phạm pháp luật đã gây ra một thiệt hại
trong thực tế. Hành vi gây thiệt hại rất đa dạng với nhiều hình thức, tính chất,
nội dung khác nhau.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm
bồi thường thiệt hại được hình thành giữa các chủ thể, trong đó người có hành
vi trái với quy định của pháp luật nói chung mà gây thiệt hại phải bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại. Điều 604 Bộ luật Dân sự quy định: "Người
nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy

tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xâm phạm đến uy tín tài sản
của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường" [25].
Như vậy, có thể nói rằng: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng là quy định của luật dân sự nhằm buộc người có hành vi xâm phạm đến
tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thế khác mà gây ra thiệt hại phải bồi thường những thiệt
hại do mình gây ra.
1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người khác gây thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của người khác gây ra là
một trách nhiệm gián tiếp. Người phải bồi thường không phải đồng thời là
người gây thiệt hại, là người phải bồi thường thay cho người gây thiệt hại
trong các trường hợp do pháp luật qui định như cha mẹ phải bồi thường thiệt

8

hại thay cho con chưa niên dưới 15 tuổi. Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại
do người của pháp nhân gây ra, người quản lý người làm công họ nghề phải
bồi thường thiệt hại do người làm công, học nghề gây ra, nhà trường cho học
sinh gây ra nếu nhà trường có lỗi, bệnh viện phải bồi thường cho khi bệnh
nhân gây thiệt hại khi bệnh nhân thuộc sự quản lý của bệnh viện. Thậm chí
theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước, thì nhà nước phải bồi thường
trong một số trường hợp công chức gây thiệt.
Đặc điểm của loại trách nhiệm này là tăng cường trách nhiệm quản lý
giao dục của người có trách nhiệm theo qui định của pháp luật đối với người
thuộc quyền quản lý của mình hoặc người đại diện cho pháp nhân trong các
quan hệ với người thứ ba.
Xét về bản chất của loại trách nhiệm này là trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi của con người gây ra, cho nên khi xảy ra thiệt hại thì việc
xác định trách nhiệm bồi thường dựa trên các căn cứ chung là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại hợp đồng

1.2. CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO HÀNH VI CON NGƯỜI GÂY RA
1.2.1. Khái niệm về điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
những yếu tố, những cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường, người phải
bồi thường, người được bồi thường và mức độ bồi thường. Các điều kiện phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xem xét trong mối quan hệ biện
chứng, thống nhất và đầy đủ. Bộ luật Dân sự không quy định cụ thể các điều
kiện làm phát sinh trách nhiệm. Xuất phát từ những quy định, những nguyên
tắc của pháp luật nói chung và luật dân sự nói riêng, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại phát sinh khi có bốn điều kiện được quy định tại Nghị quyết số

9

03/2006/NQ-HĐTPTANDTC ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại (sau đây gọi tắt là Nghị quyết
số 03/2006/NQ).
1.2.2. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1.2.2.1. Có hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định (yêu cầu)
của pháp luật. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi
trái pháp luật là những hành vi xâm hại tới tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác và đa phần được
thể hiện dưới dạng hành động. Tuy nhiên, những hành vi gây thiệt hại do xâm
phạm các yếu tố trên nhưng được thực hiện phù hợp với quy định của pháp
luật sẽ không bị coi là hành vi trái pháp luật và vì vậy, người thực hiện hành
vi đó không phải bồi thường thiệt hại. Chẳng hạn: hành vi gây thiệt hại trong
giới hạn của phòng vệ chính đáng hoặc gây thiệt hại đúng với yêu cầu của

tình thế cấp thiết.
1.2.2.2. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng phải có thiệt hại xảy ra
Như tên gọi của nó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi được áp dụng
là nhằm khôi phục tình trạng ban đầu cho người bị thiệt hại nên thiệt hại là
yếu tố không thể thiếu được trong việc áp dụng trách nhiệm này. Chỉ có thiệt
hại mới phải bồi thường, chỉ khi nào biết được thiệt hại là bao nhiêu mới có
thể ấn định người gây thiệt hại phải bồi thường bao nhiêu. Vì vậy, muốn áp
dụng trách nhiệm này thì việc đầu tiên phải xem xét có thiệt hại xảy ra hay
không và phải xác định được thiệt hại là bao nhiêu.
Theo cơ bản thiệt hại được hiểu là sự mất mát hoặc giảm sút thực tế về
tài sản, thể chất hoặc tinh thần. Trong đó, thiệt hại về tài sản là những tổn thất

10

vật chất thực tế được tính thành tiền mà người có hành vi trái pháp luật đã gây
cho người khác, thiệt hại về thể chất là sự giảm sút về sức khỏe, mất mát về
tính mạng, hình thể của người bị thiệt hại, thiệt hại về tinh thần là sự ảnh
hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc sự suy sụp về tâm lý, tình
cảm của người bị thiệt hại. Để có cơ sở cho việc áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, các thiệt hại do xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh
dự, uy tín nhân phẩm cũng phải được xác định thành một khoản tiền cụ thể.
Vì vậy, thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành tiền bao gồm những
mất mát, hư hỏng, hủy hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất, chi phí nhằm
ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khỏe, tính mạng,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
Về mặt lý luận, có thể chia thành hai loại thiệt hại sau đây:
- Thiệt hại trực tiếp: Là những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan,
thực tế và có cơ sở chắc chắn để xác định. Bao gồm mất mát, hư hỏng về tài
sản, các chi phí cho việc ngăn chặn, khắc phục các thiệt hại.

- Thiệt hại gián tiếp: Là những thiệt hại mà dựa trên suy đoán khoa học
mới có thể xác định được thiệt hại. Thiệt hại này được coi là thu nhập thực tế
bị mất, bị giảm sút, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất.
Đối với loại thiệt hại này nếu chỉ mang tính giả định, không có cơ sở khoa
học chắc chắn để xác định thì không được đưa vào khoản thiệt hại để áp dụng
trách nhiệm bồi thường.
1.2.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của
con người và thiệt hại xảy ra
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả, là mối liên hệ phổ biến giữa
các sự vật hiện tượng. Bằng cặp phạm trù này, triết học duy vật biện chứng đã
chỉ ra rằng trong quá trình phát sinh và phát triển của các cự vật, hiện tượng
trong tự nhiên cũng như trong xã hội thì giữa chúng luôn có mối quan hệ nội

11

tại, tất yếu. Sự vật, hiện tượng này ra đời từ một hoặc nhiều sự vật, hiện tượng
khác và ngược lại. Tuy nhiên, xác định mối tương quan nhân quả trong quá
trình phát sinh, phát triển của các sự vật, hiện tượng là một vấn đề hết sức
phức tạp bởi một sự vật, hiện tượng xuất hiện có thể là kết quả của một sự vật
hiện tượng khác nhưng có thể là kết quả của sự vật hiện tượng trong đó, vai
trò, ý nghĩa của mỗi sự vật, hiện tượng đối với sự xuất hiện của sự vật, hiện
tượng mới là hoàn toàn khác nhau. Trong hàng loạt các sự vật, hiện tượng
được coi là nguyên nhân làm xuất hiện sự vật hiện tượng mới thì có những sự
vật hiện tượng là nguyên nhân trực tiếp, nhưng sự vật hiện tượng khác lại là
nguyên nhân gián tiếp. Dựa vào mối liên hệ này, khoa học pháp lý nói chung
và khoa học pháp luật dân sự nói riêng xác định rằng: Chỉ những thiệt hại nào
được coi là hậu quả (kết quả) tất yếu, không thể tránh khỏi của hành vi trái
pháp luật thì người gây thiệt hại đó mới phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ có thể được áp dụng khi
xác định chính xác hành vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại. Hay

nói ngược lại, thiệt hại là hậu quả của hành vi trái pháp luật. Trong đó, hành
vi trái pháp luật của con người phải là nguyên nhân chính, nguyên nhân trực
tiếp của sự thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường do vi phạm nghĩa vụ là trách
nhiệm được xác định giữa hai bên chủ thể trong một quan hệ nghĩa vụ đang
tồn tại và chỉ khi nào hành vi vi phạm nghĩa vụ của một bên là nguyên nhân
trực tiếp làm cho bên kia bị thiệt hại thì họ mới phải bồi thường. Trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì về nguyên tắc chung, hành vi
trái pháp luật cũng phải là nguyên nhân trực tiếp của sự thiệt hại thì người có
hành vi trái pháp luật mới phải bồi thường thiệt hại. Nhưng ngoài ra còn có
những trường hợp mà theo quy định của pháp luật, con người có hành vi trái
pháp luật vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường dù hành vi của họ chỉ là
nguyên nhân gián tiếp đối với sự thiệt hại. Ví dụ: Người có lỗi gây ra tình thế

12

cấp thiết phải bồi thường thiệt hại nếu thiệt hại là do người khác gây ra đúng
với yêu cầu của tình thế cấp thiết.
1.2.2.4. Người gây thiệt hại có lỗi
Về bản chất, lỗi được các ngành luật xác định giống nhau đó là quan
hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội màn nội dung
của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua
các quy định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để
lựa chọn cách xử sự sao cho cách xử sự đó phù hợp với pháp luật, tránh
thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì
người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành
vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu
quả của hành vi mà họ đã thực hiện.
Căn cứ vào nhận thức của người gây thiệt hại đối với hành vi và hậu
quả của hành vi mà họ thực hiện, lỗi được chia thành các hình thức và trạng
thái khác nhau như sau:

- Lỗi cố ý: Một người bị coi là có lỗi cố ý nếu họ đã nhận thức rõ hành
vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện hành vi đó. Nếu
người này mong muốn thiệt hại xảy ra từ việc thực hiện hành vi thì lỗi của họ
là lỗi cố ý trực tiếp. Nếu họ không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng để mặc
cho thiệt hại xảy ra thì lỗi của họ là lõi cố ý gián tiếp.
- Lỗi vô ý: người có hành vi gây thiệt hại được xác định là có lỗi vô ý
nếu họ không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại
mặc dù họ phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra khi họ thực hiện
hành vi đó. Nếu người này cho rằng thiệt hại không xảy ra thì lỗi của họ được
xác định là lỗi vô ý cẩu thả. Nếu họ cho rằng có thể ngăn chặn được thiệt hại
thì lỗi của họ là lỗi vô ý vì quá tự tin.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại
Điều 604 Bộ luật Dân sự, cụ thể:

13

1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp
nhân hoặc của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại
phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy
định đó [25].
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được
xây dựng trên nguyên tắc người gây ra thiệt hại phải có trách nhiệm bồi
thường. Khi một người không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
dân sự gây thiệt hại tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản… của cá nhân hoặc pháp nhân thì phải có trách nhiệm bồi thường. Có hai
trường hợp là cố ý gây thiệt hại và vô ý gây thiệt hại:
- Cố ý gây thiệt hại là một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây

thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không
mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra. Ví dụ: Một người thực hiện
hành vi giết người với lỗi cố ý. Trong trường hợp này, người thực hiện hành
vi giết người đã nhận thức được hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho tính
mạng của người khác nhưng vẫn thực hiện.
- Còn vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành
vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước
hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không
xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Ví dụ: Một người uống rượu khi tham gia
giao thông (lái xe ôtô) gây tai nạn để lại thương tích cho người khác. Trong
trường hợp này, người tham gia giao thông có thể biết trước hành vi uống
rượu có khả năng gây ta tai nạn nhưng tự tin sẽ không gây ra tai nạn làm thiệt
hại lợi ích của người khác. Như vậy, lỗi là điều kiện đầu tiên phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

14

1.3. NGƯỜI PHẢI BỒI THƯỜNG VÀ NGƯỜI ĐƯỢC BỒI THƯỜNG
1.3.1. Pháp nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại
Khi chưa có Bộ luật Dân sự 1995, trách nhiệm của pháp nhân và cá nhân
được quy định tại Thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao
ngày 23/3/1972. Theo tinh thần của Thông tư này thì công nhân viên chức hay
một người đại diện hợp pháp của xí nghiệp, cơ quan trong khi thi hành nhiệm
vụ, do hành vi liên quan chặt chẽ đến công tác, được xí nghiệp, cơ quan phân
công mà gây thiệt hại theo chế độ trách nhiệm dân sự, rồi sau đó có quyền đòi
hỏi họ hoàn trả việc bồi thường đó theo quan hệ lao động. Trong trường hợp
công nhân viên chức hoặc đại diện của xí nghiệp, cơ quan lợi dụng nhiệm vụ
do hành vi không liên quan đến công việc được phân công, để mưu lợi riêng
mà gây thiệt hại cho người khác thì cá nhân họ phải bồi thường.
Điều 618 Bộ luật Dân sự quy định: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại

do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. Nếu
pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc
gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật" [25].
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân
trong giao dịch dân sự. Trong quan hệ dân sự pháp nhân có thể đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định hoặc
được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện.
Pháp nhân chỉ bồi thường thiệt hại trong trường hợp người của pháp nhân
quản lý gây thiệt hại.
Ví dụ: A là lái xe của công ty B, trên đường đi công tác gây tai nạn.
Trong trường hợp này thì công ty B phải bồi thường toàn bộ thiệt hại. Sau khi
pháp nhân đã bồi thường có quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải hoàn trả
tiền bồi thường đó.

15

Pháp nhân phải bồi thường khi người của pháp nhân thực hiện nhiệm
vụ của pháp nhân giao. Nếu người của pháp nhân thực hiện nhiệm vụ được
giao nhưng việc gây thiệt hại vượt quá phạm vi pháp nhân giao cho hoặc lợi
dụng quyền hạn pháp nhân giao thực hiện hành vi gây thiệt hại với mục địch
cá nhân… thì pháp nhân không phải bồi thường mà người của pháp nhân phải
tự mình bồi thường thiệt hại.
Pháp nhân hiểu theo nghĩa rộng là cơ quan nhà nước là các tổ chức
chính trị - XH, XH phải bồi thường theo Điều 618, 619, 620 và các loại
hình doanh nghiệp phải bồi thường khi người của PN gây thiệt hại khi thực
hiện nhiệm vụ của PN mà gây thiệt hại cho người khác
1.3.2. Cá nhân
Cá nhân là những người có trách nhiệm bồi thường thay cho người gây
thiệt hại như cha mẹ bồi thường thay cho con chưa thành niên, người quản lý

người công, học nghề
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự,
Bộ luật Dân sự quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân phụ thuộc vào các mức độ năng lực hành vi dân sự, khả năng bồi thường
và tình trạng tài sản của cá nhân.
Khoản 1 Điều 606 Bộ luật Dân sự quy định: "Người từ đủ 18 tuổi trở
lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường" [25].
Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có khả
năng bằng chính hành vi của mình xác lập thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
(Điều 17 Bộ luật Dân sự).
Trên thực tế, khi xét xử đối với người gây thiệt hại từ đủ 18 tuổi trở lên,
chưa có việc làm, không có thu nhập, không có tài sản đáng kể và đang sống
chung với cha mẹ, thì Tòa án vẫn xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
đối với họ và trong quá trình giải quyết vẫn thừa nhận sự tự nguyện của cha

16

mẹ người gây thiệt hại bồi thường thay cho con, nhưng về mặt luật pháp thì
không thể buộc họ bồi thường. Thực tế xảy ra cho thấy có người đủ 18 tuổi
gây thiệt hại nhưng đang học ở một trường nào đó, chưa có tài sản, không có
thu nhập đang phải sống nhờ vào cha, mẹ chu cấp tiền ăn học thì khi thụ lý cơ
quan Tòa án nên hòa giải, động viên cha mẹ người gây thiệt hại bồi thường.
Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà
còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài
sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên
gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần
còn thiếu [25].
Trong cuộc sống phần lớn người dưới mười lăm tuổi không có tài sản
và sự tự lập về kinh tế. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người này đều
không có tài sản riêng mà thực tế có nhiều trường hợp những người này đã có

tài sản riêng do được hưởng thừa kế, được tặng cho tài sản. Nhưng về mặt
pháp lý thì khi những người này gây thiệt hại thì cha, mẹ vẫn là những người
phải bồi thường thay, chỉ trừ khi việc bồi thường còn thiếu thì mới lấy tài sản
riêng của con bồi thường cho đủ.
"Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì
phải bồi thường bằng tài sản của mình. Nếu không đủ tài sản để bồi thường
thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình" [25].
Theo luật Bộ luật lao động thì: Người từ đủ mười lăm tuổi trở lên có
thể được tham gia vào quan hệ lao động để có thu nhập và có tài sản riêng có
thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha, mẹ quản lý và cha, mẹ hoàn
toàn có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con. Tuy nhiên, những người
ở độ tuổi này chưa đầy đủ về năng lực hành vi dân sự nên phải có người đại
diện cho mình trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự; vì vậy,
cha, mẹ của người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi vẫn phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại do con mình gây ra.

17

Xem xét hai trường hợp người dưới mười lăm tuổi và người từ đủ mười
lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại với trường hợp người gây
thiệt hại là người mất năng lực hành vi dân sự thì nếu những người này có cá
nhân, tổ chức giám hộ thì cá nhân tổ chức đó được dùng tài sản của người
được giám hộ để bồi thường. Khoản 3 Điều 606 Bộ luật Dân sự quy định:
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng
tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được
giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì
người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người
giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì
không phải lấy tài sản của mình để bồi thường [25].

Xuất phát từ qui định trên đây của Bộ luật Dân sự, một vấn đề nảy sinh
là: Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám
hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Vậy trong trường hợp
này sẽ lấy tài sản ở đâu để bồi thường, ai là người phải bồi thường cho người
bị thiệt hại. Theo chúng tôi cần có qui định cụ thể trong trường hợp này,
chẳng hạn coi đó là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu thiệt hại.
Trong trường hợp cá nhân là người làm công, trong khi thực hiện công
việc mà gây thiệt hại cho người thứ ba thì người thuê phải bồi thường. Tuy
từng trường hợp mà người làm công phải hoàn trả cho người thuê khoản tiền
mà người thuê đã bồi thường.
Đối với những trường hợp dạy nghề theo phương thức truyền nghề
(cầm tay chỉ việc mà người học nghề thực hiện công việc của người dạy nghề
giao cho mà gây thiệt hại cho người khác thì người dạy nghề phải bồi thường.
VD. A là thợ sửa xe máy, B là người học nghề. Khi sửa xe cho khách hàng B
thủ chạy xe gây thiệt cho C thì A phải bồi thường cho C và B hoàn trả cho A.

18

1.4. NHỮNG TRƯỜNG HỢP MIỄN TOÀN BỘ HOẶC MỘT PHẦN
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
1.4.1. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp giới hạn phòng vệ
chính đáng
Để ngăn chặn kịp thời các hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, của các tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình
hoặc của người khác, pháp luật cho phép một người được thực hiện hành vi
chống trả lại người đang có hành vi xâm hại những lợi ích nói trên. Nếu việc
chống trả đó được coi là phòng vệ chính đáng thì người gây thiệt hại không
phải bồi thường. Phòng vệ chính đáng trong pháp luật dân sự được tiếp thu
trên cơ sở lý luận và thực tiễn trong pháp luật hình sự, theo quy định tại Điều
15 Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì:

Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích
chính đáng của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần
thiết người đang có hành vi xâm các phạm lợi ích nói trên. Phòng
vệ chính đáng không phải là tội phạm [26].
Nếu một người có hành vi chống trả lại hành vi gây thiệt hại của người
khác và hành vi chống trả lại này được coi là phòng vệ chính đáng thì hành vi
chống trả đó không bị coi là hành vi trái pháp luật, do đó người thực hiện
hành vi chống trả không phải bồi thường thiệt hại là đương nhiên. Theo khoản
1 Điều 613 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "người gây thiệt hại trong trường
hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại" [25].
Rõ ràng, nếu người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng thì
không bị coi là có lỗi và không bị coi là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, để
xác định được một hành vi gây thiệt hại được coi là phòng vệ chính đáng cần
chú ý các điều kiện sau:

19

Thứ nhất: Có hành vi trái pháp luật xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước,
lợi ích công cộng, lợi ích của cá nhân
Thứ hai: Hành vi trái pháp luật của người khác đang gây thiệt hại hoặc
có nguy cơ gây thiệt hại cho đối tượng bị xâm hại. Nếu thiệt hại đã xảy ra mà
người bị thiệt hại mới có hành vi chống trả và gây thiệt hại ngược trở lại thì
không thể coi là phòng vệ chính đáng.
Thứ ba: Hành vi phòng vệ chính đáng phải gây thiệt hại cho chính người
có hành vi xâm hại (tính mạng, sức khỏe, …), nếu gây thiệt hại cho người không
có hành vi xâm hại thì không coi là phòng vệ chính đáng mà có thể coi là do yêu
cầu của tình thế cấp thiết nếu thỏa mãn đủ các điều kiện nhất định.
Thứ tư: Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng
phải cần thiết và tương xứng với hành vi xâm hại, nếu không cần thiết hoặc

không tương xứng thì người gây thiệt hại vẫn phải bồi thường thiệt hại.
1.4.2. Bồi thường thiệt hại trong yêu cầu của tình thế cấp thiết
Theo quy định tại khoản 1 của Điều 16, Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ
sung 2009 quy định:
1. Tình thế cấp thiết là tình thế của một người vì muốn tránh
nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức,
quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không
có cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần
ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải
là tội phạm [26].
Theo quy định trên thì hành vi gây thiệt hại được coi là không vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết khi đáp ứng ba yêu cầu sau:
- Hành vi đó được thực hiện trong khi đang có một nguy cơ thực tế đe
dọa tới quyền, lợi ích chính đáng của một chủ thể nhất định.
- Việc gây thiệt hại là biện pháp cuối cùng

×