Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
Viện Đào Tạo Sau Đại Học

TIỂU LUẬN MÔN TRIẾT HỌC
Đề tài:
SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC DUY
VẬT VÀ TRIẾT HỌC DUY TÂM Ở HY LẠP THỜI CỔ ĐẠI.
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Thị Thủy
STT: 102
Nhóm 5 – Lớp: Đêm 1 - Khóa 22
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH: TS. Bùi Văn Mưa
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
TP.HCM, tháng 12/2012
LỜI MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu đề tài:
Hy Lạp là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại thời cổ đại, là
thời kì phát triển rực rỡ của xã hội loài người. Hy lạp cổ đại không chỉ là một trung
tâm kinh tế - xã hội mà còn là một trung tâm văn hoá. Thời kì cổ đại ở đây đã tích
trữ được một khối lượng tri thức khổng lồ trên nhiều lĩnh vực: toán học, vật lý, thiên
văn học, thuỷ văn đặc biệt không thể không nhắc tới chính là triết học. Triết học
thời kì này được đánh giá là rất phát triển, với những cái tên hết sức nổi tiếng :
Acsimet, Talet, Hêraclit, Đêmocrit, Platôn, Arixtốt. Chính các đại biểu này đã tạo
lên một nền triết học phát triển rực rỡ mà ngày nay chúng ta đã được thừa hưởng.
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời
sống của con người nhưng những tư tưởng triết học từ thuở ban đầu ấy vẫn có tầm
ảnh hưởng rất lớn.
Thời kì của triết học Hi Lạp được xem như cuộc đấu tranh gay gắt của hai
trường phái tư tưởng Triết học Duy Vật và Triết học Duy Tâm. Lịch sử cho thấy,
mỗi tư tưởng của hai trường phái đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát
triển của triết học sau này. Do đó, đề tài “ Sự tương đồng và khác nhau của Chủ
nghĩa Duy Vật và Chủ nghĩa Duy tâm trong triết học Hi Lạp cổ đại” sẽ làm rõ


điều này.
2. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong giai đoạn triết học Hi lạp cổ đại.
Với phương pháp nghiên cứu là phương pháp lịch sử và đối chiếu. Bài nghiên cứu
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 2
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
sử dụng nguồn tham khảo từ giáo trình môn Triết học cũng như các nghiên cứu của
các tác giả khác.
I. KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC HI LẠP CỔ ĐẠI
1. Điều kiện ra đời của triết học Hi Lạp cổ đại:
1.1 Điều kiện tự nhiên
Lãnh thổ Hi Lạp bao gồm miền Nam bán đảo Ban Căng, miền ven biển phía
Tây và nhiều hòn đảo ở Biển Êgiê. Trong đó, miền Nam bán đảo Ban căng là vùng
lục địa, có vai trò quan trọng nhất.
Miền lục địa Hy Lạp chia làm ba khu vực: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Từ
Bắc Bộ xuống Trung Bộ phải qua đèo Técmôpin, Trung Bộ có nhiều dãy núi ngang
dọc và những đồng bằng trù phú với các thành phố quan trọng, trong đó có Aten.
Qua khỏi eo đất Coranh sẽ tới Nam Bộ, là bán đảo Pêlopôngnedơ với nhiều đồng
bằng rộng lớn, phì nhiêu, thuận lợi cho việc trồng trọt. Vùng bờ biển phía đông của
Bán đảo Ban căng khúc khuỷu tạo nên nhiều vịnh, hải cảng thuận lợi cho ngành
hàng hải phát triển. Các đảo trên biển Êgiê là nơi trung chuyển cho việc đi lại, buôn
bán giữa Hy Lạp với các nước ở Tiểu Á, Bắc Phi. Còn vùng biển Tiểu Á là đầu mối
thông thương giữa Hi Lạp và các nước Phương Đông.
1.2 Điều kiện kinh tế:
Với điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi như trên, Hi Lạp có cơ hội mở rộng
mối quan hệ bang giao và phát triển kinh tế. Thế kỷ VIII – VI trước công nguyên, đồ
sắt được dùng phổ biến, năng suất lao động tăng nhanh, sản phẩm dồi dào, chế độ sở
hữu tư nhân được củng cố. Sự phát triển này đã kéo theo phân công lao động trong
nông nghiệp, giữa ngành trồng trọt và ngành chăn nuôi. Xu hướng chuyển sang chế
độ chiếm hữu nô lệ đã thể hiện ngày càng rõ nét. Ăngghen đã nhận xét: “Phải có

những khả năng của chế độ nô lệ mới xây dựng được một quy mô phân công lao
động lớn lao hơn trong công nghiệp và nông nghiệp, mới xây dựng được đất nước
Hy Lạp giàu có. Nếu không có chế độ nô lệ thì cũng không có quốc gia Hy Lạp,
không có khoa học và công nghiệp Hy Lạp”.
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 3
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
1.3 Điều kiện chính trị xã hội:
Hy Lạp cổ đại sớm trở thành một quốc gia chiếm hữu nô lệ có công thương
nghiệp phát triển, nền văn hóa tinh thần phong phú đa dạng. Nơi có nhiều triết gia
mà triết lý của họ trở nên bất hủ.
Vào khoảng Thế kỷ XI – IX Trước Công Nguyên, Hy Lạp cổ đại bước vào xã
hội chiếm hữu nô lệ với sự xuất hiện và nhanh chóng khẳng định của chế độ sở hữu
tư nhân kéo theo sự phân hóa giàu nghèo, sự xung đột giai cấp diễn ra mạnh mẽ.
Đến thế kỷ thứ VIII – VI Trước Công nguyên, xã hội bị phân hóa thành hai giai cấp
xung đột nhau là chủ nô và nô lệ. Lao động bị phân hóa thành lao động chân tay và
lao động trí óc. Đất nước bị chia phân thành nhiều nước nhỏ. Mỗi nước lấy một
thành phố làm trung tâm. Trong đó, Sparte và Athen là hai thành phố cổ hùng mạnh
nhất, nòng cốt cho lịch sử Hy Lạp cổ đại.
Hai thành phố trên tiến hành cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài hàng chục
năm và cuối cùng dẫn đến sự thất bại của thành Athen. Sau đó, Hi Lạp bị rơi vào tay
của đế quốc La Mã. Tuy đế quốc La Mã chinh phục được Hi Lạp, nhưng lại bị Hi
Lạp chinh phục về văn hóa. Ăngghen đã nhận xét “Không có cơ sở văn minh Hi Lạp
và đế quốc La Mã thì không có Châu Âu hiện đại được”.
Vì điều kiện kinh tế, nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa mà các chuyến
vượt biển đến với các nước phương Đông trở nên thường xuyên. Chính vì thế tầm
nhìn của họ cũng được mở rộng, những thành tựu văn hóa của Ai Cập, Babilon đã
làm cho người Hy Lạp ngạc nhiên. Tất cả các lĩnh vực, những yếu tố của nước bạn
đều được người Hy Lạp đón nhận, như đã từng có nhận xét “Những người Hy Lạp
mãi mãi là đứa trẻ nếu không hiểu biết gì về Ai Cập”. Trong thời đại này, Hy Lạp đã
xây dựng được một nền văn minh vô cùng xán lạn với những thành tựu rực rỡ thuộc

HVTH: Nguyễn Thị Thủy 4
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
các lĩnh vực khác nhau. Chúng là cơ sở hình thành nên nền văn minh phương Tây
hiện đại.
2. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hi Lạp cổ đại
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động và đề cao lao
động trí óc, coi thường lao động chân tay. Điều này thúc đẩy sự hình thành tầng lớp
trí thức biết xây dựng và sử dụng hiệu quả tư duy lý luận để nghiên cứu triết học và
khoa học. Triết học và khoa học đã ra đời và phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn
này.
Triết học Hy Lạp cổ đại rất đa dạng, gắn liền với lịch sử ra đời của nền chính
trị Hy Lạp cổ đại và phản ánh lịch sử của đất nước này. Do vậy, nó trải qua ba giai
đoạn: hình thành, cực thịnh và suy tàn, mang những đặc điểm cơ bản sau:
Triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp
luận của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật
tự xã hội, củng cố vai trò, địa vị của mình.
Trong nền triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ rệt giữa các
trào lưu, trường phái duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần.
Trong đó:
•  là trào lưu tư tưởng Triết học cho rằng:
nguồn gốc, bản chất của vạn vật trong thế giới là vật chất. Trường phái này cho rằng
vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất sinh ra ý thức và quyết định ý
thức; do đó họ cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế giới.
•  là trào lưu tư tưởng triết học cho rằng:
nguồn gốc, bản chất của vạn vật trong thế giới là tinh thần. Trường phái này cho
rằng ý thức, tinh thần mới là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất.
Nền triết học Hy Lạp đã xuất hiện phép Biện chứng chất phác.
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 5
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên, để tổng hợp

mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như
một hình ảnh chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó.
Triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người.
3. Khái quát chung Triết học Duy vật và Triết học Duy tâm thời Hi Lạp cổ đại
3.1. Triết học duy vật thời Hy Lạp cổ đại
Chủ nghĩa duy vật được hình thành từ trường phái Milê, trường phái Hêraclít,
trường phái đa nguyên Empêđốc - Anaxago và đạt được đỉnh cao như trong trường
phái nguyên tử luận Lơxíp – Đêmôcrít.
3.1.1. Trường phái Milê:
Đây là trường phái duy vật và biện chứng chất phác đầu tiên trong triết học
Hy Lạp cổ đại. Trường phái duy vật đơn nguyên do ba nhà triết học duy vật là là
Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng, nhằm làm sáng rõ bản nguyên vật chất
của thế giới. Bản nguyên vật chất được Talet cho là nước, Anaximăngđơ cho là
apeiron, Anaximen cho là không khí. Các triết gia đã tìm cách giải thích thế giới một
cách hợp lý từ bản thân thế giới tự nhiên chứ không phải là từ bên ngoài nó.
3.1.2. Trường phái Hêraclít:
Hêraclít thể hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phác từ thời cổ Hy Lạp
thông qua các phỏng đoán về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Ông coi bản nguyên của thế giới là lửa. Mọi sự vật luôn ở trạng thái vận động, biến
đổi và phát triển không ngừng, vạn vật vừa tồn tại vừa không tồn tại, cái này chuyển
hóa thành cái kia và ngược lại. Từ đó ông đưa ra luận điểm nổi tiếng “ 
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 6
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
 !"#$%&'(”. Khi coi nhận thức thế giới là phát
hiện ra cái lôgốt ( tức quy luật trật tự của xã hội, tính hài hòa và xung đột của các
mặt trong tự nhiên…), ông cho rằng quá trình nhận thức phải bắt nguồn từ cảm tính,
nhưng muốn nhận thức thấu suốt tự nhiên phải sử dụng tư duy, lí tính. Dù vậy, theo
ông, chân lý mang tính tương đối, nó còn phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh.
3.1.3. Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago
Empêđốc – Anaxago xây dựng quan niệm đa nguyên về bản chất của thế giới

vật chất đa dạng. Empêđốc thừa nhận khởi nguyên của thế giới là bốn yếu tố: đất,
nước, không khí, lửa; chúng chịu sự tác động của 2 loại lực là tình yêu và hận thù.
Anagaxo cho rằng vạn vật sinh ra từ “các hạt giống”. Những hạt giống này cực nhỏ
và phân chia đến vô tận. Mỗi sự vật bị quy định bởi tính chất hạt giống của chính
nó. Tuy nhiên, để các hạt vận động, biến đổi, cần phải có động lực là Nus – trí tuệ
thuần túy hay linh hồn của thế giới. Theo Anaxagong, “mầm nào sẽ sinh ra giống
ấy”, nhưng do mỗi hạt giống có thể được phân chia đến vô cùng và bản thân nó
không đồng nhất, nên “ mỗi cái chứa mọi cái”.
3.1.4 Trường phái nguyên tử luận
Lơxíp là người sáng lập nên và Đêmôcrít là người kế thừa và phát triển, đưa
trường phái nguyên tử luận lên thành đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại
trong giai đoạn cực thịnh.
Lơxíp là người đầu tiên nêu lên các khái niệm về nguyên tử. Ông cho rằng “
cái tồn tại ( nguyên tử) tồn tại, cái không tồn tại ( chân không ) cũng tồn tại”,
nguyên tử và chân không cùng là khởi nguyên của thế giới. Đêmôcrít là nhà triết học
duy vật vĩ đại nhất của dòng triết học duy vật cổ đại Hy Lạp, đã kế thừa và phát triển
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 7
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
thuyết nguyên tử của Lơxip trên một phương diện mới. Ông đã xây dựng trường
phái nguyên tử luận, khẳng định bản chất thế giới là vật chất – nguyên tử luôn vận
động theo quy luật nhân quả, vũ trụ vật chất là vô hạn và đa dạng, không được sáng
tạo và không bị hủy diệt… Ngoài ra, Đêmôcrit có những quan niệm riêng về nhận
thức, đạo đức và chính trị xã hội, cho thấy ông là đại biểu xuất sắc của tầng lớp dân
chủ chủ nô.
3.2. Chủ nghĩa duy tâm thời Hy Lạp cổ đại
Chủ nghĩa duy tâm được hình thành trong trường phái Pytago, trải qua trường
phái Êlê và đạt được đỉnh cao trong trường phái duy tâm khách quan của Platon
3.2.1 Trường phái Pytago
Khác với quan niệm của nhiều trường phái triết học Hy Lạp cổ đại khác, coi
khởi nguyên của thế giới là một dạng vật chất cụ thể nào đó, Pytago coi con số là

khởi nguyên của thế giới, là bản chất của sự vật, là quy luật của vũ trụ. Nhưng do
quá đề cao vai trò của các con số, biến chúng thành những lực lượng siêu nhiên.
Pytago tin ở thuyết luân hồi.
3.2.2 Trường phái Êlê
Trường phái Êlê do Xênôphan thành lập theo tinh thần duy vật, được
Pácmêníc phát triển theo hướng duy tâm và Dênông bảo vệ và phát huy.
Xênôphan cho rằng mọi cái đều từ đất mà ra, và cuối cùng trở về với đất.
Cùng với nước, đất tạo nên sự sống của muôn loài. Ông cho rằng, không phải thần
thánh tạo ra con người mà con người tạo ra thần thánh theo trí tưởng tượng.
Pácmêníc lại cho rằng “tồn tại” là bản chất chung thể hiện tính thống nhất của vạn
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 8
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
vật trong thế giới. “Tồn tại” là một phạm trù triết học mang tính khái quát cao, và
được nhận thức bởi tư duy lý tính. Dênông là người bảo vệ nhiệt thành trường phái
Êlê. Ông đưa ra các apôri để chứng minh rằng không thể dùng trực quan cảm tính để
nhận thức sự vật mà phải dùng tư duy trừu tương. Tuy nhiên, sai lầm của ông là ở
chỗ tuyệt đối hóa và tách tính gián đoạn ra khỏi tính liên tục của vận động.
3.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát – Platôn
Trường phái này được xây dựng bởi Xôcrát và được hoàn thiện bởi Platôn.
Xôcrát dành phần lớn nghiên cứu về con người, đạo đức. Platôn xuất thân
trong một gia đình chủ nô quý tộc ở Athen. Ông đã xây dựng chủ nghĩa duy tâm
khách quan với nội dung chính là thuyết ý niệm, với giá trị bên trong là phép biện
chứng của khái niệm và nhiều tư tưởng sâu sắc về đạo đức, chính trị, xã hội,…
3.3. Chủ nghĩa nhị nguyên của Arixtốt
Arixtốt là học trò xuất sắc nhất của Platôn, nhưng ông phê phán thuyết ý
niệm của thầy vì theo ông ý niệm là cái tồn tại bên ngoài và độc lập với sự vật nên
nó không thể là bản chất của sự vật. Nhưng ông cũng không ủng hộ quan điểm của
các trường phái duy vật khi bàn về khởi nguyên vật chất của vũ trụ. Từ đó ông đưa
ra thuyết nguyên nhân – cơ sở của Siêu hình học và thuyết vận động – cơ sở của Vật
lý học. Tuy triết học của ông giao động giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm, nhưng

ông đã mở ra một chân trời mới cho sự phát triển của khoa học phương Tây.
II. SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA TRIẾT HỌC DUY VẬT VÀ
TRIẾT HỌC DUY TÂM TRONG THỜI HI LẠP CỔ ĐẠI
2.1 Sự tương đồng
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 9
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Triết học duy vật và Duy tâm của thời Hi Lạp cổ đại có quan điểm khác nhau
về nhiều khía cạnh, tuy nhiên, chúng cũng có những điểm tương đồng, như sau:
• Thứ nhất, CNDV và CNDT đều liên hệ mật thiết với khoa học tự nhiên, tổng
hợp mọi hiểu biết để xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh chỉnh thể
thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn
thấp nên khoa học tự nhiên chưa đạt đến trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu
vào bản chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức
tranh tổng quát về thế giới.
• Thứ hai, dù theo CNDV hay CNDT, các quan điểm triết học Hy Lạp cổ đại
đều mang phép biện chứng chất phác. Họ nghiên cứu và sử dụng phép biện chứng
để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ quan điểm triết học của mình, để tìm ra
chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng nhưng chưa trình bày
chúng thành một hệ thống lý luận chặt chẽ.
• Thứ ba, cả CNDV và CNDT đều thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương
pháp luận của giai cấp chủ nô thống trị, nhằm mục đích duy trì trật tự xã hội, củng
cố vai trò thống trị của họ. Điều này dễ dàng nhận ra được do các nhà triết học lúc
bấy giờ đều thuộc tầng lớp thống trị, họ được giải thoát khỏi lao động chân tay nên
tập trung vào tư duy, từ đó đưa ra những luận điểm nhằm bảo vệ cho quyền lợi của
họ. Họ thừa nhận sự quan trọng của nhà nước nhằm duy trì sự ổn định, sự phân công
xã hội, đảm bảo xã hội trật tự và vận hành theo đúng chức năng của từng tầng lớp,
giai cấp.
• Thứ tư, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy
Lạp cổ đại đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, về đạo đức và họ
đều cho rằng con người là tinh hoa cao quý nhất của tạo hóa. Họ cũng đưa ra quan

điểm về đạo đức, cho rằng sống đúng mực, ôn hòa, không gây tổn hại cho mình
cũng như người khác, làm điều thiện là sống có đạo đức.
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 10
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
2.2. Sự khác biệt:
Do có sự khác biệt về cách nhìn nhận sự vật, thế giới nên các quan điểm của
triết học Hy Lạp cổ đại có sự xung khắc giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa
Duy Tâm. Mỗi chủ nghĩa đều có những nhà triết học kiệt xuất, trong đó, Đêmocrit
( nhà triết học theo CNDV) và Platon( nhà triết học theo CNDT) là hai nhà triết học
có những tư tưởng tổng hợp mọi quan điểm, tinh túy của hai phái, có thể xem họ là
những điển hình tiêu biểu nhất. Do đó, để thấy được sự khác biệt giữa CNDV và
CNDT của triết học Hy Lạp cổ đại, ta tìm hiểu thông qua quan điểm của họ.
2.2.1 Quan điểm về bản chất thế giới:
+ )*+,
Theo Democrit, nguyên tử và chân không cấu thành nên vũ trụ. Nguyên tử là
dạng vật chất nhỏ bé không nhìn thấy, không phân chia được, không âm thanh,
không màu sắc, nguyên tử thì giống nhau về chất lượng nhưng lại khác nhau về hình
thức và trật tự tư thế. Do đó, nguyên tử tạo nên sự vật nhưng sự vật khác nhau do
nguyên tử được cấu tạo theo hình thức khác nhau, sắp xếp kế tiếp ở những trật tự
khác nhau và được xoay đặt ở những tư thế khác nhau.
Theo Platon: sự vật được xuất hiện từ ý niệm. Ý niệm là cái sản sinh, có
trước, là nguyên nhân, là bản chất, là khuôn mẫu của sự vật, coi sự vật là cái được
sản sinh có sau, là cái bóng được mô phỏng, sao chép từ ý niệm, bất cứ sự vật nào
cũng xuất hiện từ ý niệm và có quan hệ chặt chẽ với ý niệm.
-./01+,23451 )
Democrit: Lúc đầu, khi vũ trụ xuất hiện, chính sự va chạm vào nhau của các
nguyên tử đã tạo ra một cơn xoáy nguyên tử, đẩy các nguyên tử nhỏ nhẹ ra bên
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 11
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
ngoài, còn các nguyên tử to, nặng thì được quy tụ vào tâm. Nhờ đó, các tầng lớp

nguyên tử có cùng kiểu dáng, kích thước và trọng lượng như đất, nước, không khí,
lửa… được tạo thành. Từ đây, trái đất, sự sống, con người, cùng các thiên thể trên
bầu trời và trong vũ trụ xuất hiện. Vạn vật trong thế giới đều xuất hiện và mất đi
một cách tự nhiên, không do thần thánh hay ai đó sáng tạo ra.
Platon: Theo ông, vạn vật, con người sinh ra từ ý niệm. Sự sinh thành thế giới
xảy ra, gắn liền với 4 yếu tố: tồn tại ( ý niệm), không tồn tại ( vật chất ), con số
(quan hệ tỉ lệ), sự vật cảm tính. Chính sự tồn tại của ý niệm thông qua tỷ lệ của các
con số tác động vào sự không tồn tại của vật chất, sinh ra sự vật cảm tính. Theo ông,
thần Tạo hóa đã kiến tạo ra thế giới sự vật hữu hình cảm tính bằng cách mô phỏng
theo thế giới ý niệm. Thần linh mang lại sự sống cho tất cả chim, cá, thú, con người
và cả bản thân thần linh. Tuy nhiên, Platon chưa thể định nghĩa được con người ra
đời như thế nào, ông chỉ cho rằng thể xác con người là do bốn yếu tố: đất, nước, lửa,
không khí cấu tạo nên.
Trong khi Democrit đại diện cho CNDV cho rằng: Chỉ có sự vật mới có linh
hồn, linh hồn cũng được tạo thành từ các nguyên tử hình cầu, nhẹ, nóng và chuyển
động nhanh, nó có thể rời thể xác và tan rã ra thành các nguyên tử dạng lửa khi sinh
vật chết. Ngược lại, Platon – tiêu biểu cho CNDT lại khẳng định: Linh hồn của con
người là sản phẩm của vũ trụ, được Thượng đế tạo ra từ lâu, sống trong ý niệm.
Chúng ngự trị trên các vì sao trời, dùng cánh nhập vào thể xác của con người, khi
nhập thể xác, nó quên hết quá khứ; khi con người chết đi, linh hồn lại trở về với thế
giới ý niệm. Linh hồn gồm 3 bộ phận: cảm giác, ý chí và lý trí. Hoạt động cơ bản
của linh hồn là nhận thức. Linh hồn là bất tử.
2.2.2. Quan điểm về lý luận nhận thức:
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 12
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Democrit: chia nhận thức ra làm 2 dạng: nhận thức mờ tối (còn gọi là cảm
tính: do các giác quan đem lại, nó chỉ nhận biết phần bên ngoài của sự vật) và nhận
thức chân lý (còn gọi là lý tính: do các phán đoán logic, suy đoán đem lại, đó là
dạng nhận thức bản chất, quy luật của sự vật). Ông cho rằng 2 dạng nhận thức có
liên hệ chặt chẽ, đều có vai trò quan trọng, đều cần thiết cho quá trình nhận thức,

nhưng nhận thức lý tính đáng tin cậy hơn. Do đó con người phải từ cảm tính, thông
qua lý tính, nhận thức bản chất của sự vật.
Platon: Nhận thức con người không phải là phản ánh các sự vật hiện tượng
của thế giới khách quan mà chỉ là quá trình nhớ lại, hồi tưởng lại linh hồn, những cái
đã bị lãng quên trong quá khứ . Còn về nhận thức chân lý, ông quan niệm: là khám
phá ra ý niệm tồn tại sẵn trong linh hồn con người. Nhận thức chân lý bằng sự hồi
tưởng của linh hồn bất tử, ông chia làm 9 bậc: Linh hồn thường trú trong các nhà
triết học; vua chúa hay tướng lĩnh; các quan chức nhà nước; nhà thể thao, thầy
thuốc; nhà tiên tri, tín ngưỡng; nhà thơ, họa sĩ, người làm; thợ thủ công, nghề nông;
nhà hùng biện, giáo dục; các bạo chúa. Platon cho rằng công cụ để nhận thức chân
lý là phương pháp biện chứng: tranh luận, va chạm các ý kiến trái ngược nhau để
thừa nhận cái chung.
2.2.3. Quan điểm về chính trị, xã hội:
Democrit: Theo ông, xã hội được cai trị bởi nhà nước dân chủ chủ nô là chế
độ tốt nhất, ông bảo vệ tầng lớp chủ nô, chống lại chủ nô quý tộc. Ông ra sức ca
ngợi tình thân ái, tính ôn hòa, ca ngợi quyền lợi chung của công dân tự do. Nền tảng
của chế độ dân chủ chủ nô là hình thức dân chủ của nhà nước chủ nô, đó là nhà
nước công hòa dân chủ, nhà nước đóng vai trò duy trì trật tự xã hội và điều hành
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 13
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
hoạt động của xã hội, trừng phạt nghiêm khắc những kẻ nào vi phạm pháp luật hay
chuẩn mực đạo đức. Nô lệ phải tuân theo mệnh lệnh của ông chủ. Theo ông, quản lý
nhà nước là một nghệ thuật mang lại hạnh phúc, vinh quang, tự do và dân chủ cho
con người. Nhu cầu vật chất của con người là động lực của sự phát triển xã hội.
Trái ngược với Democrit, Platon coi chế độ cộng hòa quý tộc là một xã hội
tốt nhất. Xã hội gồm có ba loại người, do Thượng đế sinh ra và mỗi loại người đảm
nhận một vị trí khác nhau: Triết gia ( lý trí chiếm chủ đạo trong linh hồn, nhận thức
và đạo đức cao cả. Họ là tầng lớp lãnh đạo); chiến binh (ý chí trong linh hồn họ
đóng vai trò chủ đạo, gan dạ và dũng cảm. Họ là tầng lớp bảo vệ xã hội); nông dân,
thợ thủ công, thương gia (cảm xúc trong linh hồn chiếm phần lớn, thích nghi với lao

động chân tay và đam mê của cải vật chất. Họ đóng vai trò bảo đảm đời sống vật
chất cho xã hội.). Riêng nô lệ, Platon không coi là người, chỉ là động vật biết nói, họ
nằm ngoài vòng chính trị, không biết nhận thức, không có đạo đức….Theo ông, mỗi
loại người phải sống và hành xử theo đúng tầng lớp của mình, không có sự bình
đẳng hoàn toàn. Nhà nước sinh ra để duy trì trật tự này của xã hội. Platon lại phê
phán chế độ sở hữu tư nhân. Ông cho rằng phải xây dựng chế độ sở hữu công, cha
mẹ con cái chung.
2.2.4. Quan điểm về đạo đức:
Theo quan điểm của Democrit, sự hiểu biết là cơ sở của hành vi đạo đức.
Sống có đạo đức là sống đúng mực, ôn hòa, không hại mình, hại người. Hạnh phúc
là trạng thái có thật mà con người có thể đạt được, trong đó, con người sống hưởng
lạc với tâm hồn thanh thản.
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 14
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Platon: Sống có đạo đức là làm điều thiện. Hành vi hướng thiện là dùng lý trí,
khám phá ý niệm tuyệt đối khách quan trên trời. Con người muốn sống hạnh phúc,
phải dùng lý trí để chiêm nghiệm những ý tưởng và khắc phục những dục vọng vật
chất thấp hèn, giúp linh hồn thoát khỏi gông cùm của nhà tù thể xác. Do đó, theo
ông, hạnh phúc không tồn tại dưới trần gian, chỉ tồn tại trong ý niệm, ở trên trời, sau
khi chết.
KẾT LUẬN
Triết học Hi lạp cổ đại đóng vai trò quan trọng nền kho tàng triết học của
nhân loại. Hai nhà triết học Democrit và Platon nói riêng, cũng như CNDV và
CNDT nói chung, đã đem đến cho nhân loại những tư tưởng về sự hình thành nên
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 15
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
con người, vạn vật; sự nhận thức của con người, vấn đề về đạo đức và phản ánh
quan điểm lịch sử chính trị trong thời kì đó.
Thông qua đề tài, có thể thấy: Mặc dù có những điểm tương đồng, nhưng
không thể phủ nhận thời kỳ Hi Lạp cổ đại là cuộc đấu tranh sâu sắc giữa Chủ nghĩa

Duy vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Tư tưởng của mỗi chủ nghĩa ảnh hưởng vô cùng
sâu sắc đến tư tưởng của các nhà triết học nói riêng và tư tưởng triết học các thời kì
sau nói chung.
Có thể nói trong quá khứ, hiện tại và tương lai triết học luôn tồn tại và gắn
liền với cuộc sống con người. Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, triết học không
chỉ giúp con người có được cách nhìn đúng đắn về thế giới mà còn giúp con người
có được khả năng đánh giá những biến động đang diễn ra, gợi mở cách đi, hướng
giải quyết các vấn đề mà cuộc sống đặt ra liên quan đến từng cá nhân cũng như đến
toàn xã hội và trong quan hệ với thiên nhiên. Triết hoc vừa thực hiện chức năng giải
thích thế giới và vừa góp phần biến đổi thế giới hướng tới mục tiêu tất cả là vì con
người và hạnh phúc của con người trong thời đại ngày nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Kinh Tế TpHCM, TS. Bùi Văn Mưa chủ biên, 673"0"+
81 9&$385#38:#;(<%#
1"+8, TpHCM, 2010.
2) Nguyễn Hữu Vui, =>(?"+8, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 16
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
3) Nguyễn Ngọc Thu, @AB >(?"+8, NXB Tổng hợp, TpHCM, 2003.
4) Website: 5CD<EF&C3"C
MỤC LỤC
Lời mở đầu
I. Khái quát sự ra đời và phát triển của triết học Hi Lạp cổ đại
1. Điều kiện ra đời của triết học Hi Lạp cổ đại
1.1 Điều kiện tự nhiên
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 17
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
1.2 Điều kiện kinh tế
1.3 Điều kiện chính trị xã hội
2. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Hi Lạp cổ đại

3. Khái quát chung Triết học Duy vật và Triết học Duy tâm thời Hi Lạp cổ đại
3.1. Triết học duy vật thời Hy Lạp cổ đại
3.1.1. Trường phái Milê
3.1.2. Trường phái Hêraclít
3.1.3. Trường phái đa nguyên Empêđốc – Anaxago
3.1.4 Trường phái nguyên tử luận
3.2. Chủ nghĩa duy tâm thời Hy Lạp cổ đại
3.2.1 Trường phái Pytago
3.2.2 Trường phái Êlê
3.2.3 Trường phái duy tâm khách quan của Xôcrát – Platôn
3.3. Chủ nghĩa nhị nguyên của Arixtốt
II. Sự tương đồng và khác biệt của Triết học Duy Tâm và triết học Duy Vật
thời Hi Lạp cổ đại
2.1 Sự tương đồng
2.2. Sự khác biệt
2.2.1 Quan điểm về bản chất thế giới
2.2.2. Quan điểm về lý luận nhận thức
2.2.3. Quan điểm về chính trị, xã hội
2.2.4. Quan điểm về đạo đức
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 18
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
Kết luận
Tài liệu tham khảo
HVTH: Nguyễn Thị Thủy 19

×