Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TRIẾT HỌC ARISTOTLE VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.5 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
“TRIẾT HỌC ARISTOTLE VÀ SỰ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
XÃ HỘI PHƯƠNG TÂY”
GIẢNG VIÊN PHỤ TRÁCH: TS.BÙI VĂN MƯA
HỌC VIÊN THỰC HIỆN: ĐỖ KIM THẠCH
STT: 89
NHÓM: 8
LỚP: ĐÊM 1
KHÓA: 23
TP.HCM, Tháng 12/2014
TRANG MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Triết học phương Tây luôn là một bộ phận không thể thiếu của hệ thống
triết học thế giới. Nó là nền tảng tư tưởng và lý luận cho các cuộc cách mạng tư
sản tại châu Âu, đưa loài người bước qua một kỉ nguyên mới với những thành
tựu khoa học kỹ thuật vượt bậc. Khởi nguồn của triết học phương Tây từ triết học
Hy Lạp cổ đại với nhiều nhà triết học nổi tiếng như: Milet, Heraclite, Pythagoras,
Élée, Democrite, Platon…Nhưng để thực sự mang khoa học đến cho nhân loại
phải chờ đến sự xuất hiện của Aristotle. Có thể nói Aristotle là “hoàng đế” trong
khoa học thời cổ Hy Lạp. Ông đã đặt nền tảng cho nhiều ngành khoa học khác
nhau như: logic học, sinh vật học, thần học…Vì lý do đó, tôi chọn đề tài “Triết
học của Aristotle và sự ảnh hưởng của nó đến xã hội phương Tây” với mong
muốn có thể hiểu rõ hơn về một trong những trường phái triết học lớn nhất Hy
Lạp cổ.
Mục đích của đề tài.
Do hạn chế về nguồn tài liệu tiếp cận được nên bài viết chỉ tập trung trình
bày những quan điểm triết học nổi trội về thế giới quan, nhân sinh quan của
Aristotle thông qua những học thuyết tiêu biểu của ông. Đồng thời bài viết sẽ cố


gắng phân tích để làm rõ hơn vai trò của Aristotle đối với nền Triết học phương
Tây, cũng như những ảnh hưởng của ông đến xã hội phương Tây.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
I/ Tổng quan về Aristotle.
II/ Triết học của Aristotle và ảnh hưởng của nó đến xã hội phương Tây.
III/ Kết luận.
Các tài liệu được sử dụng trong bài viết này bao gồm các giáo trình Triết học của
trường đại học Kinh Tế TP.HCM cũng như các sách bàn về triết học Aristotle
của các tác giả trong và ngoài nước.
2
I/ Tổng quan về Aristotle.
1. Tiểu sử Aristotle.
Aristotle, triết gia, nhà khoa học và nhà vật lý Hy Lạp, sinh năm 384 TCN,
mất năm 322 TCN. Ông được sinh tại Stagira, đôi khi còn được gọi là ‘Aristotle
người Stagira’.
Cha của Aristotle, Nicomaque, là quan ngự y nổi tiếng của triều đình
Macedonia. 18 tuổi, ông đến Athens để tham gia học viện Academy của Platon.
Năm 335 TCN, Aristotle mở trường riêng của mình tại Athens, gọi là Lyceum
(tên đền thờ thánh Apollo). Aristototle là học trò của Platon và chính bản thân
Aristoteles là gia sư của Alexandre Đại đế.
Các tác phẩm của Aristotle bao gồm một nhóm do chính ông xuất bản nhưng
ngày nay đã bị thất lạc và một nhóm được ghi chép lại và bảo tồn. Một số tác
phẩm tiêu biểu như: Organum, gồm 6 luận văn về luận lý học; Physics (vật lý
học); Metaphysics (siêu hình học); De Anima (bàn về loài vật); Nichomachean
Ethics và Eudemian (đạo đức học); Rhetoric (khoa hùng biện); Constitution of
Athens (Hiến pháp Athens).
2. Những yếu tố ảnh hưởng đến Triết học Aristotle.
2.1 Bối cảnh lịch sử.
Hy Lạp cổ đại là quốc gia chiếm hữu nô lệ rộng lớn có điều kiện tự nhiên
thuận lợi và một nền kinh tế công thương nghiệp phát triển.

Xã hội chia thành hai giai cấp đối lập nhau chủ nô, nô lệ và tầng lớp bình dân.
Lịch sử trải qua bốn thời kỳ: Crète – Mycens, Homère, thời kỳ thành bang,
Macédoine. Aristotle sống vào thời kì Macédoine.
Chế độ chiếm hữu nô lệ đã tạo cơ sở cho sự phân hóa lao động, đề cao lao
động trí óc, xem thường lao động chân tay dẫn đến sự ra đời của tầng lớp trí thức
3
và việc sử dụng tư duy lý luận. Triết học và khoa học đã ra đời và phát triển
mạnh mẽ. Nhưng trong điều kiện tri thức còn nghèo nàn, không có sự phân
ngành khoa học nên lúc này triết học không có đối tượng nghiên cứu riêng hay
nói cách khác đối tượng nghiên cứu của triết học lúc này bao gồm tất cả các lĩnh
vực tri thức, tự nhiên cũng như xã hội. Triết học được coi là “khoa học của các
khoa học”.
2.2 Những trường phái triết học trước Aristotle.
Trước Aristotle có các trường phái như: Milet, Heraclite, Pythagoras, Élée,
phái đa nguyên, phái nguyên tử, phái ngụy biện, phái duy tâm khách quan…
Nhưng nhìn chung tất cả đều thuộc chủ nghĩa duy vật hoặc chủ nghĩa duy tâm,
được gọi chung là chủ nghĩa nhất nguyên. Theo đó các nhà triết học nhất nguyên
khẳng định giữa ý thức và vật chất, tinh thần và tự nhiên có quan hệ với nhau.
Sự xuất hiện của phép biện chứng chất phác và việc sử dụng phương pháp
quy nạp để nhận thức. Triết học thời kỳ này cũng nghiên cứu về khoa học tự
nhiên và coi trọng vấn đề con người. Triết học giai đoạn này là công cụ lý luận
của giai cấp chủ nô để duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò thống trị của mình.
Sự xung đột mạnh mẽ của hai trường phái Democritus và Platon đại biểu cho
chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy tâm khách quan.
2.3 Triết học của Platon.
Aristotle đã theo học tại trường Hàn Lâm của Platon trong suốt hai mươi năm
nên ta có thể nói Aristotle chịu ảnh hưởng của Platon ngay cả khi chống lại
những học thuyết của Platon. Aristotle nói: “Thầy đã quý, chân lý còn quý hơn”.
II/ Triết học của Aristotle và ảnh hưởng của nó đến xã hội phương Tây.
1. Triết học nhị nguyên của Aristotle.

4
Aristotle để lại cho nhân loại một hệ thống tri thức đồ sộ và có ảnh hưởng về
nhiều mặt đến đời sống của nhân loại; đặc biệt ông đã xây dựng nên logic học
(luận lý học).
Aristotle đã đứng trên quan niệm duy vật tiến bộ phê phán thuyết ý niệm của
Platon; nhưng ông cũng không ủng hộ quan điểm của các trường phái duy vật
bàn về khởi nguyên vật chất của vũ trụ. Khi bàn về các vấn đề siêu hình, sự do
dự giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đã đưa Aristotle đến với chủ
nghĩa nhị nguyên; và từ chủ nghĩa nhị nguyên ông đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm
khi đưa ra thuyết nguyên nhân. Tuy nhiên khi bàn về vật lý học, ông lại bộc lộ rõ
quan điểm duy vật của mình. Thuyết nguyên nhân là nền tảng của Siêu hình học
mang tính thần thánh của Aristotle. Siêu hình học là cơ sở lý luận để Aristotle
xây dựng Vật lý học mang tính tự nhiên, bàn về vũ trụ, giới tự nhiên và quá trình
vận động của chúng…
1.1 Logic học và phương pháp luận của Aristotle.
Logic học là một khoa học tìm kiếm sự thực bằng lý luận, tuy nhiên logic
cũng có nghĩa là sự mạch lạc của ý nghĩ và lời nói, hay là một chuỗi sự kiện xảy
ra tiếp nối nhau một cách hợp lý.
Aristotle có nói đến cách nhìn của mình đối với logic học trong tác phẩm siêu
hình học: việc nghiên cứu về các phép phân tích (lý thuyết về suy luận) phải đi
trước việc nghiên cứu khoa học khác: thật vậy phải biết các phép phân tích trước
khi đề cập bất kì khoa học nào. Aristotle cho rằng bản chất phải nằm ngay trong
bản thân sự vật và phải được nhận thức của con người khái quát thành cái chung
dưới dạng khái niệm, quy luật, phạm trù. Aristotle đã đưa ra một bảng liệt kê
những phạm trù sau đây: Bản thể, lượng tính, phẩm tính, tương giao, địa điểm,
thời gian, vị trí, sở hữu, hoạt tính.
Như vậy nhà triết học nghiên cứu bản chất của mọi bản chất của mọi bản thể
phải hiểu những nguyên tắc tam đoạn luận trước đã.
5
Tam đoạn luận là cách đưa ra hai mệnh đề mang tính cách dứt khoát và khẳng

định và mệnh đề thứ ba dùng làm kết luận. Aristotle trình bày về tam đoạn luận
như sau: "Nếu a được xác định bởi b, và c được xác định bởi b, thì nhất thiết a
phải được xác định bởi c". Người ta có thể gọi a (thuộc tính chỉ định cho kết
luận) là mệnh đề chính, và c (chủ thể của kết luận) là mệnh đề thứ yếu.
Sau đây là một thí dụ điển hình về tam đoạn luận thường thấy:
Socrate là một công dân Athens. Mệnh đề thứ yếu
Những công dân Athens là những người Hy Lạp. Mệnh đề chính
Vậy Socrate là một người Hy Lạp. Kết luận
Trong đó a là “người Hy Lạp”, thuộc tính chỉ định cho kết luận, b là “công
dân Athens”, c là “Socrate”, chủ thể của kết luận.
1.2 Thuyết nguyên nhân – cơ sở của Siêu hình học.
Aristotle cho rằng, tồn tại nói chung phải xuất phát từ bốn nguyên nhân cơ
bản: vật chất, hình thức, vận động và mục đích trong đó hình thức và vật chất giữ
vai trò quan trọng nhất. Theo Aristotle, tồn tại cả vật chất ban đầu phi hình thức
lẫn hình thức ban đầu phi vật chất tuy nhiên hình thức có vai trò quyết định hơn
so với vật chất bởi vì không có hình thức thì vật chất chỉ là bản thể thụ động của
tồn tại. Hình thức đầu tiên là bản chất tích cực của tồn tại, làm cho sự vật vận
động theo mục đích sắp đặt trước, là lý tính thuần túy, Thượng đế, động cơ đầu
tiên của thế giới, nguyên nhân tận cùng, mục đích tối thượng của mọi hiện tượng.
1.3 Thuyết vận động – cơ sở của Vật lý học.
Giới tự nhiên là toàn bộ các sự vật, quá trình luôn vận động và có liên hệ với
nhau và được cấu thành từ một bản thể vật chất. Vận động không thể bị tiêu diệt
và cũng không thể tách ra khỏi sự vật, quá trình tự nhiên. Có sáu hình thức vận
động là: phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí.
6
Aristotle thừa nhận cái hích đầu tiên của Thượng đế nằm bên ngoài giới tự nhiên,
là nguồn gốc thần thành của mọi vận động xảy ra trong giới tự nhiên.
Aristotle cho rằng vũ trụ là hữu hạn, liên tục và khép kín trong không gian
nhưng vĩnh viễn về thời gian.Vạn vật trong vũ trụ được cấu thành từ bốn yếu tố
vật chất: đất, nước, lửa, không khí; và bốn tính chất nguyên thủy: nóng, lạnh, khô

và ẩm; được đặc trưng bằng chuyển động thẳng mang tính cưỡng bức dựa trên
nguyên lý vật nặng rơi nhanh hơn vật nhẹ.
1.4 Quan niệm về sinh thể, con người và linh hồn.
Sinh thể và con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. Không có linh
hồn bất tử, không có linh hồn trong cơ thể chết và cũng không có linh hồn nằm
bên ngoài thể xác vật chất. Aristotle chia linh hồn làm ba loại: linh hồn thực vật
thực hiện chức năng nuôi dưỡng và sinh sản, linh hồn động vật thực hiện chức
năng cảm ứng với môi trường xung quanh và linh hồn lý tính bất tử thực hiện
chức năng hoạt động nhận thức.
Theo Aristotle con người là một sinh thể có lý trí. Con người có cả ba loại
linh hồn trên. Vậy con người là một sinh thể có lý trí, luôn khát vọng nhận thức.
Bản chất con người sinh ra là để nhận thức. Khi con người chết đi linh hồn lý
tính chứa đựng tri thức vẫn tồn tại bất diệt.
1.5 Quan niệm về nhận thức.
Nhận thức là một quá trình xuất phát từ thực tại khách quan trải qua giai đoạn
cảm giác, biểu tượng để đến tư duy, lý luận. Nhận thức là hoạt động bản tính của
linh hồn, nhưng khi con người mới sinh linh hồn như một tấm bảng trắng. Nhận
thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bên ngoài vào bên trong linh
hồn. Chỉ có nhận thức lý tính mới khám phá được cái phổ biến, tất yếu, tức cái
quy luật, bản chất của sự vật. Theo ông khoa học là một hệ thống tri thức phức
tạp nhằm hướng tới ba mục đích: hoạt động đời sống, sáng tạo và tư biện. Vì vậy
có ba nhóm khoa học: khoa học thực hành (đạo đức học, chính trị học…), khoa
7
học sáng tạo (hùng biện, thi ca, nghệ thuật…) và khoa học lý thuyết (siêu hình
học, vật lý học, toán học…)
1.6 Quan niệm về đạo đức.
Aristotle cho rằng ngu dốt, sai lầm là nguồn gốc của cái ác; lý trí và lẽ phải
đời thường là cơ sở của điều thiện, là nền tảng của phẩm hạnh con người. Phẩm
hạnh của con người nhờ việc hiểu thấu và làm theo chân lý thông qua giáo dục và
đào tạo là phẩm hạnh lý tính. Còn phẩm hạnh có được nhờ vào thói quen theo lẽ

phải đời thường, hành động theo cái trung dung là phẩm hạnh luân lý.
Hạnh phúc tồn tại trên trần gian, gắn với bản tính tự nhiên của con người, bị
chi phối bởi các yêu tố chủ quan như: sự khôn ngoan, đức hạnh, sự khoái lạc và
các yêu tố khách quan như: tiền bạc, sức khỏe, tình bạn, xã hội công bằng…
1.7 Quan niệm về chính trị - xã hội.
Aristotle xem chính trị học là sự khai triển đạo đức học vào trong đời sống xã
hội. Con người vừa là sinh thể đạo đức, vừa là động vật chính trị. Con người
không thể sống ngoài cộng đồng, bên ngoài sự giao tiếp. Nhà nước là một hình
thức giao tiếp cộng đồng cao nhất. Nhà nước hoạt động lập pháp, hành chính và
xét xử, nhằm đảm bảo hạnh phúc cho con người trừ nô lệ.
Xã hội tốt phải dựa trên chế độ Cộng hòa quý tộc, do tầng lớp chủ nô trung
lưu lãnh đạo. Trật tự xã hội hiện tại là xấu nhưng cần thiết do đó phải bảo vệ nó.
Theo ông công bằng trong trao đổi sản phẩm là nền tảng của công bằng xã hội và
bình đẳng cá nhân. Aristotle đòi hỏi phải quan tâm đến lao động và phân công
lao động.
2. Những ảnh hưởng của triết học Aristotle đến xã hội Phương tây.
2.1 Nền tảng logic học.
8
Giá trị của Aristote là ở chỗ ông đã phát minh môn học mới, hoàn toàn không
dựa vào các tác phẩm từ trước để lại. Lối suy luận của người Hy Lạp trước thời
Aristote không được minh bạch, chính Aristote đã chấn chỉnh tình trạng này bằng
cách đặt ra những quy luật cho sự suy luận. Ngay cả Platon đôi khi cũng vấp phải
lỗi lầm suy luận không chính xác. Dưới thời trung cổ, một ngàn năm sau khi
Aristote qua đời người ta còn hăng say dịch lại các sách về luận lý để theo đó mà
hướng dẫn tư tưởng.
Logic có nghĩa là nghệ thuật và phương pháp suy nghĩ chính xác. Đó là
phương pháp của tất cả các khoa học , tất cả các nghệ thuật kể cả âm nhạc. Logic
học là một khoa học vì nó có thể được trình bày dưới nhiều định luật giống như
các định luật vật lý và hình học, nó cũng là một nghệ thuật vì nó tập cho tư tưởng
quen với lối suy nghĩ chính xác.

Với sự trình bày các phương pháp logic Aristotle đã có công lớn với nhân loại
là đặt nền tảng cho phương pháp suy luận chính xác mặc dù môn logic học gặp
những chông gai và được coi như một môn học khó hiểu.
2.2 Hệ thống khoa học.
Khoa học Hy Lạp trước thời Aristotle:
Học giả Renan cho rằng Socrate đem triết lý cho nhân loại, còn Aristote đem
khoa học cho nhân loại. Đành rằng trước Socrate và trước Aristotle cũng có khoa
học và triết lý nhưng còn trong trạng thái thô sơ. Dân Cổ Hy Lạp có khuynh
hướng giảng giải tất cả những hiện tượng thiên nhiên như là hành vi của các thần
linh.
2.2.1 Triết học tự nhiên.
Aristotle đã xây dựng lên một bức tranh triết học tự nhiên có ảnh hưởng lâu
dài đến sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên. Theo Aristotle, mục đích
của vật lý học - tức triết học tự nhiên là nhận thức các nguyên tố, nguyên nhân,
9
nguyên lý ban đầu của thế giới. Thật vậy trong cuốn vật lý học chỉ trình bày
những khái niệm siêu hình về vật chất, sự chuyển động, không gian, thời gian,
nguyên lý, và những khái niệm tương tự. Về khoa thiên văn Aristote không tiến
bộ hơn các học giả đương thời là bao. Ông công kích thuyết của Pythagore cho
rằng mặt trời là trung tâm điểm của thái dương hệ, ông một dành vinh dự ấy cho
trái đất. Tuy nhiên ông cũng có nhiều nhận xét giá trị về sức nóng của mặt trời
làm bốc hơi nước biển, làm cạn sông ngòi, nước bốc hơi thành mây và rơi xuống
thành mưa. Aristotle cũng đã giảng giải một cách thoả đáng sự thành lập các lục
địa trên trái đất, ông cho rằng các lục địa được nảy sinh và dần dần biến mất dưới
đáy biển cùng với tất cả những nền văn minh ở trên ấy trong một sự thay đổi tuần
hoàn. Con người đi từ trạng thái sơ khai đến trạng thái văn minh cực độ rồi sẽ trở
về trạng thái sơ khai do những biến cố vĩ đại của tạo hoá.
Tóm lại bức tranh của Aristotle không chứa đựng nhiều dự đoán thiên tài như
những bức tranh trước đó nhưng nó rút ra được một số kết luận phù hợp với hiện
thực và có giá trị đối với con người lúc bấy giờ. Bên cạnh những tư tưởng duy

tâm và các yếu tố thần bí, siêu hình, bức tranh của Aristotle còn có nhiều tư
tưởng duy vật và những yếu tố khoa học, biện chứng thơ ngây nên nó có thể thúc
đẩy sự phát triển của khoa học tự nhiên ở một chừng mực nhất định.
2.2.2 Nền tảng của khoa sinh vật học
Trong khi Aristotle quan sát những loại sinh vật trong vườn bách thảo rộng
lớn của ông, tự nhiên ông nhận thấy rằng những loại sinh vật có thể được xếp
hạng và giữa những hạng ấy có những mối liên hệ mật thiết trong nhiều phương
diện khác nhau chẳng hạn như trong sự cấu tạo cơ thể, cách sinh sống, sự thụ
thai, sự cảm xúc Những mối liên hệ này nối liền những loại sinh vật thô sơ nhỏ
bé nhất đến những loại sinh vật phức tạp nhất. Người ta có thể kết luận rằng đời
sống trên trái đất phát triển một cách liên tục từ trạng thái thô sơ nhất đến trạng
thái phức tạp nhất. Trí thông minh cùng phát triển theo với trạng thái, nói cách
khác: trạng thái càng phức tạp, trí thông minh càng phát triển. Đồng thời các cơ
10
quan kiểm soát càng ngày càng tập trung, thần kinh hệ được phát triển cùng với
sự tập trung này.
Mặc dù có những nhận xét xác đáng kể trên, Aristote không chủ trương
thuyết tiến hoá. Ông đả kích thuyết cho rằng các sinh vật đấu tranh để sống và
chỉ những sinh vật nào thích hợp nhất mới được tồn tại.
Aristotle tạo nên một khoa học về sự phát triển của bào thai. Ông nói rằng
muốn quan sát sự vật một cách chính xác không gì bằng quan sát ngay trong thời
kỳ thai nghén. Aristote cũng nghiên cứu hiện tượng này và những nhận xét của
ông còn làm cho các nhà khoa học ngày nay phải ngạc nhiên. Chắc ông đã làm
nhiều thí nghiệm về khoa sinh sản vì ông phủ nhận thuyết cho rằng nam tính
hoặc nữ tính của bào thai phụ thuộc vào vị trí của ngọc hành. Ông còn đưa ra
nhiều vấn đề thời sự về nhân chủng chẳng hạn như ông đã nhận xét một cuộc hôn
nhân giữa người đàn bà da trắng và người đàn ông da đen. Tất cả những đứa con
sinh ra đều da trắng nhưng đến thế hệ thứ hai thì nhiều đứa con da đen xuất hiện.
Đó chỉ là một nhận xét mở đầu cho định luật danh tiếng về nhân chủng học mệnh
danh là định luật Mendel.

Nói tóm lại mặc dù có những sai lầm trong các tác phẩm về Sinh lý học của
ông, Aristotle cũng đã đặt nền móng cho khoa học này. Lý thuyết về ngành Động
Vật Học của Aristotle đã không thay đổi và được giảng dạy tại tất cả các trường
học trong nhiều thế kỷ cho tới khi nhà khoa học người Anh Charles Darwin đề
cập tới Thuyết Tiến Hóa vào thế kỷ 19.
2.3 Siêu hình học và thực chất của Thiên Chúa.
Có thể nói rằng siêu hình học theo Aristotle là sự tiếp tục của sinh lý học. Tất
cả mọi vật trong vũ trụ đều tiến hoá do một sức mạnh nội tâm. Mỗi một thực thể
có thể được xem như một hình thể do một nguyên thể mà phát sinh ra. Ví dụ con
người là hình thể, do đứa trẻ là nguyên thể phát sinh. Đứa trẻ là hình thể do bào
thai là nguyên thể phát sinh. Bào thai là hình thể do noãn châu là nguyên thể phát
sinh. Nếu chúng ta đi lần mãi vào nguồn gốc của nguyên thể chúng ta sẽ tìm thấy
11
một ý niệm về nguyên thể mà không có hình thể (tức là Thiên chúa). Sự phát
triển không phải là một việc ngẫu nhiên mà chính đã được hướng dẫn từ bên
trong. Ví dụ cái trứng gà được cấu tạo để thành một con gà chứ không phải một
con vịt. Do đó theo quan niệm của Aristotle thì quyền lực của Thiên chúa được
thể hiện trong các hiện tượng thiên nhiên.
Aristotle quan niệm rằng có một Thiên chúa. Ông đi từ quan niệm cử động
trong vũ trụ: mọi vật trong vũ trụ đều cử động xoay vần mãi mãi, nguyên do sự
cử động ấy là ở đâu ? Aristotle cho rằng nguyên do ấy là ở Thiên chúa, đó là vị
chúa tể đã làm cho các tinh tú và hành tinh trong vũ trụ hoặc các yếu tố nhỏ hơn
được xoay vần cử động theo một định luật bất di bất dịch. Vị chúa tể này không
có hình thể, không thể phân chia, không thể thay đổi, không thể bị huỷ diệt. Theo
Aristotle thì Thiên chúa không tạo nên vũ trụ, ngài chỉ làm cho vũ trụ cử động.
Ngài là cứu cánh cuối cùng của sự vật, là nguyên thể của vũ trụ, là lẽ sống, là
toàn thể những diễn tiến sinh lý, là động lực của toàn thể. Ngài là năng lực hoàn
toàn, có thể so sánh được với quan niệm năng lực của nền khoa học và triết lý
hiện đại.
Vào cuối thời kỳ Trung cổ, những học thuyết của ông được phát hiện lại và

được nhiều học giả thời đó tin tưởng, tôn sùng. Họ kết hợp các học thuyết của
ông với học thuyết Cơ đốc giáo thành hệ thống triết học kinh viện (scholastism).
Triết học Aristotle trở thành triết học chính thức của nhà thờ Thiên chúa Roma.
Một số khám phá khoa học vào thời Trung cổ và thời Phục hưng bị chỉ trích đơn
giản chỉ vì chúng không được tìm thấy trong các thuyết của Aristotle.
2.4 Bản chất của nghệ thuật.
Trong một tác phẩm, Aristotle bàn về nghệ thuật và thẩm mỹ. Ông nói rằng
nghệ thuật phát minh do nhu cầu của con người muốn diễn tả những cảm nghĩ,
cảm giác của mình. Trong bản chất, nghệ thuật là một sự bắt chước và phản ảnh
thiên nhiên giống như cái kiếng thu những hình ảnh của tạo vật. Trong tất cả mọi
người đều có bản năng bắt chước, một bản năng mà thú vật thấp kém không có.
12
Tuy nhiên mục đích của nghệ thuật không phải là diễn tả bề ngoài của sự vật mà
chính là diễn tả ý nghĩa ở bên trong.
Nghệ thuật cao cả nhất vừa đánh động lý trí vừa đánh động tình cảm, tạo nên
một khoái cảm cao cả nhất cho con người. Do đó các công tác nghệ thuật phải
hướng về sự đồng nhất. Ví dụ một vở kịch phải có cốt chuyện đồng nhất, nghĩa là
không được có những giai đoạn đi ra ngoài đề. Sau cùng nhiệm vụ của nghệ thuật
là sự thanh lọc: những cảm giác chất chứa trong con người do đời sống xã hội tạo
nên có thể tìm thấy ở nghệ thuật một lối thoát êm đẹp thay vì gây ra sự bạo động.
Những ý nghĩ trên đây ngày nay vẫn còn có giá trị và mở màn cho những thuyết
tân kỳ về sức mạnh của nghệ thuật.
2.5 Đạo đức học.
Công trình nghiên cứu của Aristote về đạo đức học bị ảnh hưởng quá nhiều
của luận lý học. Kết quả là một công trình quá khô khan không đủ sức thúc đẩy
con người tự cải thiện. Lý tưởng của Aristotle thiên về một đời sống quá bình
thản, quá ôn hoà, một đời sống mà người ta thường gán cho giai cấp thượng lưu
ở Anh. Một điểm đặc biệt là những tác phẩm về đạo đức học của Aristotle được 2
trường đại học danh tiếng tại Anh là Oxford và Cambridge dùng làm sách giáo
khoa. Nhiều thế hệ sinh viên Anh xem tác phẩm của Aristotle như kinh nhật

tụng. Tác phẩm nhan đề là "chính trị" đã góp phần xây dựng tư tưởng của người
Anh để đem lại một nền chính trị ôn hoà và hữu hiệu. Nếu thay vì mến chuộng
những tác phẩm của Aristotle, người Anh lại ham mê và áp dụng những tư tưởng
của Platon thì bộ mặt của thế giới có lẽ đã đổi khác.
2.6 Khoa học – chính trị.
Aristotle được xem là “người sáng lập ra khoa học chính trị” tức chính trị học
– khoa học chuyên nghiên cứu về quyền lực, chính thể, tổ chức và hoạt động của
nhà nước. Ông đã dành gần hết cuộc đời mình để khảo cứu các thành bang Hy
Lạp và Hiến pháp Athens để rút ra những kết luận khoa học mà tầm vóc của nó
không chỉ dừng lại ở đương thời.
13
Về chế độ sở hữu Aristotle chỉ trích chế độ cộng sản của Platon, cho đó là
một chế độ không tưởng. Ông cho rằng Rất có thể rằng trong quá khứ xa xôi có
một xã hội sống theo chế độ cộng sản. Trong xã hội đó một gia đình được coi
như một quốc gia và tất cả hoạt động kinh tế tập trung vào việc cày ruộng và nuôi
súc vật. Đối với một xã hội phát triển hơn, cần có sự phân công phức tạp hơn,
khả năng của con người không thể đồng nhất như xưa và do đó không thể áp
dụng chế độ cộng sản được. Cần phải có sự thúc đẩy tâm lý con người mới chịu
tự rèn luyện để đảm nhận những công việc chuyên môn, cần phải có phần thưởng
của tư sản con người mới chịu hăng hái phát triển kỹ nghệ và chăn nuôi. Khi tất
cả tài sản là của chung, thì không một ai chịu lo lắng giữ gìn tài sản ấy, người ta
có khuynh hướng lo lắng cho cái gì thuộc riêng mình và hoàn toàn lơ là trước các
vấn đề chung.
Aristotle đã có những nhận xét về dân chủ mang những ý nghĩa nhất định đến
tận ngày nay. Ông cho rằng Chế độ dân chủ thường thường là kết quả của một
cuộc cách mạng chống giai cấp giàu sang. Aristotle đã có một tư tưởng gần như
Karl Marx khi ông nhận xét rằng : Sự cạnh tranh để làm giàu khiến cho giai cấp
trọc phú càng ngày càng bị thu hẹp, đám dân chúng vô sản càng ngày càng đông
đảo. Những phần tử này sẽ làm cách mạng để lật đổ giai cấp thống trị." Sự chấp
chính của giai cấp vô sản có một vài ưu điểm. Xét theo từng cá nhân thì giai cấp

này không ra gì nhưng xét theo ý chí chung thì giai cấp này cũng tạm gọi là
được. Dân chúng là những người thừa hưởng và trực tiếp chịu ảnh hưởng những
chế độ chính trị, với tư cách đó họ có nhiều kinh nghiệm quý giá mà giai cấp lãnh
đạo không có. Những kẻ hưởng dụng những tiện nghi của một toà nhà có thể phê
bình toà nhà ấy xác đáng hơn là những kiến trúc sư. Những thực khách trong một
bữa tiệc có thể phê bình những món ăn xác đáng hơn là những người nấu bếp.
Mặt khác, một ưu điểm khác của chế độ dân chủ mà Aristote đã nêu ra là khi đại
đa số dân chúng được tham dự chính quyền, sự kiểm soát lẫn nhau sẽ làm khó
khăn cho các hành vi tham nhũng. Người ta có thể làm dơ bẩn một ly nước dễ
dàng hơn làm dơ bẩn một hồ nước. Hơn nữa, cá nhân dễ bị chi phối vì tham sân
si và dễ có những xét đoán sai lầm trong khi đoàn thể khó bị rơi vào tình trạng
14
trên. Tuy nhiên, Aristote vẫn cho rằng chế độ dân chủ không bằng chế độ quý
tộc. Ông không chấp nhận nguyên tắc bình đẳng trong chế độ dân chủ . Ông cho
rằng mọi người có thể bình đẳng trên một vài phương diện nhưng không thể bình
đẳng trên tất cả mọi phương diện. Ông sợ rằng trong chế độ dân chủ các phần tử
sáng suốt sẽ bị hy sinh cho quyền lợi của đa số. Ông còn sợ rằng một thiểu số sẽ
nấp sau đa số mà thao túng chính trường. Vì lẽ đó, ông vẫn chủ trương rằng chỉ
nên trao quyền đầu phiếu cho những kẻ sáng suốt. Ông muốn có một sự dung hoà
giữa hai chế độ dân chủ và quý tộc. Nếu tất cả mọi người đều có cơ hội tham gia
chính phủ thì chế độ dân chủ được bảo đảm. Tuy nhiên Aristote thấy rằng việc
chọn lựa người tham gia chính phủ phải được cân nhắc kỹ lưỡng chỉ những
người có đầy đủ điều kiện mới được vào, đó là nguyên tắc của chế độ quý tộc.
Mặc dù nhìn công việc chính trị dưới khía cạnh nào đi nữa người ta cũng sẽ cùng
đi đến một kết luận chung: đó là dân chúng phải có quyền ấn định mục tiêu của
quốc gia trong khi đó chỉ những người chuyên môn mới có thể thực hiện mục
tiêu đó. Đây là những tư tưởng hết sức tiến bộ của Aristotle.
Aristotle phản đối những cuộc cách mạng. Chúng có thể đem lại một vài cải
cách, nhưng con người phải trả giá quá đắt. Khuyết điểm lớn nhất là tình trạng
hỗn độn có thể đưa đến sự phá huỷ trật tự xã hội và cơ cấu quốc gia. Nếu một

hiến pháp muốn được tồn tại lâu dài, hiến pháp đó phải được đại đa số dân chúng
tán thành. Một nhà cai trị muốn tránh các cuộc nổi dậy cần phải làm thế nào để
xã hội không có những người quá giàu hoặc quá nghèo. Họ phải khuyến khích
dân chúng ra khai khẩn đất đai ở nước ngoài để sự cạnh tranh ở trong nước có lối
thoát; họ phải khuyến khích và thực hành tôn giáo. Một lãnh tụ "cần phải tỏ ra
ngoan đạo. Nếu dân chúng thấy rằng lãnh tụ của mình ngoan đạo họ sẽ tin tưởng
vào vị lãnh tụ nhiều hơn. Do sự tin tưởng ấy họ sẽ không tìm cách lật đổ vị lãnh
tụ, những kẻ yếu bóng vía còn tưởng rằng vị lãnh tụ của mình thế nào cũng được
các thần thánh giúp đỡ".
Aristotle chủ trương chính phủ cũng phải kiểm soát nền giáo dục. Muốn
chính thể được lâu dài, nền giáo dục phải thích hợp. Những kẻ xuất chúng phải
được huấn luyện để trở nên những nhà cai trị. Họ sẽ sống một cuộc đời hoàn toàn
15
vì quyền lợi chung, không đếm xỉa đến của cải riêng. Toàn dân phải được huấn
luyện để biết tuân theo pháp luật. Những công dân tốt trước khi trở thành người
chỉ huy giỏi phải là người thừa hành giỏi. Nền giáo dục còn có tác dụng thống
nhất quốc gia, vượt lên trên những vấn đề chia rẽ địa phương. Các thanh thiếu
niên cần phải thấm nhuần các điều lợi ích do cuộc sống tập thể đưa lại. Một con
người có giáo dục là một con người tốt nhất, những kẻ sống cô độc là những kẻ
tệ hại nhất. Nhờ lời nói con người họp thành một xã hội, nhờ xã hội con người
phát triển trí thông minh, nhờ trí thông minh con người sống trong trật tự, nhờ
trật tự con người đi đến văn minh. Chính trong xã hội con người mới có những
cơ hội để phát triển.
Aristotle xem thường nghề lao động chân tay của người Hy Lạp. Nguyên do
là đời sống lúc bấy giờ còn thô sơ và công việc lao động chân tay không đòi hỏi
nhiều khả năng như bây giờ. Aristotle xem những người lao động chân tay như
những người hoàn toàn không biết suy nghĩ. Những công việc ấy chỉ thích hợp
với giai cấp nô lệ và cũng dễ nô lệ hoá con người. Aristotle cho rằng công việc
lao động chân tay làm cho trí óc cằn cỗi, không có thì giờ hoặc năng lực để suy
nghĩ về chính trị. Do đó Aristotle cho rằng chỉ những người rảnh rang mới được

quyền tham gia chính trị. Những kẻ làm thợ nhiều khi còn bị mất quyền công
dân. Ở Thèbes còn có một đạo luật cấm những thương gia giữ chức vụ trong
chính phủ nếu họ chưa hoàn toàn từ bỏ tất cả các hoạt động thương mãi trong
thời hạn mười năm trở về trước.
Aristotle xem đàn bà là nô lệ và đàn ông là chủ. Aristote cho rằng đàn bà chỉ
có thể tuân lệnh. Theo bản chất, phụ nữ không có ý chí, do đó không thể tự lập.
Việc làm thích hợp nhất đối với phụ nữ là coi sóc nhà cửa. Không nên làm cho
phụ nữ được ngang quyền với nam giới như Platon đã chủ trương. Sự can đảm
của nam giới không giống như sự can đảm của nữ giới như Socrate đã chủ
trương. Aristote cho rằng sự can đảm của nam giới thể hiện trong việc chỉ huy,
sự can đảm của nữ giới thể hiện trong sự phục tòng. Giữ im lặng là sự vinh quang
của nữ giới. Tư tưởng này của Aristotle rất gần với tư tưởng trọng nam khinh nữ
16
của xã hội phong kiến và tồn tại một thời gian dài đến tận thế kỷ 19, 20 mới dần
được xóa bỏ.
III/ Kết luận.
Aristotle xứng đáng là “nhà bách khoa toàn thư” vĩ đại nhất Hy Lạp cổ đại,
người tổng kết triết học Hy Lạp cổ đại, đặt nền móng cho chủ nghĩa duy lý
phương Tây.
Aristotle đã xây dựng khởi đầu nền tảng cho nhiều ngành khoa học khác nhau
như: logic học, khoa học – chính trị, sinh vật học… Tuy ông có nhiều sai lầm
quan trọng trong những nhận xét về thiên nhiên nhưng cũng không thể phủ nhận
những đóng góp của ông trong việc tạo động lực phát triển khoa học tự nhiên.
Tư tưởng Aristotle ngự trị vận hành tư tưởng Tây phương đến độ ngay cả
những nhà tư tưởng không đọc Aristotle cũng chịu ảnh hưởng triết lý của ông mà
không hay biết. Có thể nói suốt dòng lịch sử Tây Phương đến cận đại, những trào
lưu tư tưởng diễn ra chỉ là kế tục hay đối kháng triết học của ông.
Như Rivaud nhận xét, tư tưởng của Aristotle có “uy quyền” - một uy quyền
mạnh nhất là vẻ trầm lặng, phối ngẫu giữa sự chính xác của tri thức và đòi hỏi
của khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Tiểu ban triết học, khoa Lý luận chính trị, trường ĐHKT TP.HCM - Triết
học phần 1 Đại cương về lịch sử triết học.
17
2. Bùi Văn Mưa - Triết học & Bức tranh Vật lý học về thế giới – NXB Đại
học Quốc Gia TP.HCM – 2007.
3. Will Durant – Câu chuyện triết học qua chân dung Platon, Aristote,
Bacon, Rant, Spinoza, Voltaire, Spencer – NXB Đà Nẵng – 2000.
4. Đặng Phùng Quân - Triết học Aristote – NXB Đêm Trắng – 1972.
18
Mục lục
19

×