Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.19 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Tên đề tài:
MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC
GVPT: PGS. TS Bùi Văn Mưa
HVTH: Hồ Thị Hà
STT: 27
Nhóm: 9
Lớp: Quản Trị Kinh Doanh Đêm 1
Khóa 23
TP.HCM, tháng 12/2014
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học và khoa học là những hình thái ý thức xã hội đặc thù phản ánh các
lĩnh vực khác nhau của thế giới. Chúng xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển
trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội, và chịu sự chi phối của những quy luật
nhất định. Đồng thời chúng có những mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Lịch sử hình thành và phát triển hơn
hai ngàn năm của triết học và khoa học không những đã chứng tỏ hai lĩnh vực tri
thức ấy luôn luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau mà còn chứng minh rằng, triết
học tìm thấy ở khoa học những cơ sở khoa học vững chắc của mình, còn khoa học
tìm thấy ở triết học thế giới quan đúng đắn và phương pháp luận sắc bén để đi sau
nghiên cứu thế giới tự nhiên.
Lâu nay một số người quan tâm đến triết học đã có sự ngộ nhận rằng, triết
học là một khoa học chỉ thuộc về nội dung của phạm trù khoa học xã hội – nhân
văn. Nhưng ngược dòng thời gian, chúng ta biết rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết
học và khoa học đã không tách rời nhau. Nhưng như chính C. Mác và Ph.
Ăngghen đã khẳng định, việc khôi phục triết học theo nghĩa đen của nó (triết học
là “khoa học của mọi khoa học”) vào thời kỳ nửa sau của thế kỷ XIX là điều
không thể. Bởi vì, khoa học triết học và các khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại
trong môi trường mới với những yêu cầu mới được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn
đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ giữa triết học và khoa học không vì thế mà


giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Có thể nói rằng, từ khi chủ nghĩa duy vật
biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học mới thật sự bước
sang một giai đoạn mới.
Từ những thành tựu của khoa học hiện đại trong thế kỷ XX như: Thuyết
tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương đối rộng (1916); thuyết
lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử lượng tử hoá của Niels
Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg (1925), lý thuyết thông tin,
lý thuyết điều khiển (những năm 40 của thế kỷ XX); lý thuyết cô lập, lý thuyết
phân hình, lý thuyết hỗn độn, (những năm 70, 80 của thế kỷ XX), v.v… Đã tạo
nên những cuộc tranh luận ngày càng gay gắt về sự nhận thức của con người đối
với thế giới. Chính điều này đã buộc các nhà khoa học phải tìm đến với một thế
giới quan triết học đúng đắn để từ đó lý giải những vấn đề cụ thể trong lý thuyết
khoa học của mình. Như Albert Einstein đã viết: “Các kết quả nghiên cứu khoa
học thường gây nên những sự thay đổi trong các quan điểm triết học đối với
những vấn đề vượt ra ngoài phạm vi của những lĩnh vực rất hạn chế của bản thân
khoa học”.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và khoa học chẳng những giúp cho các nhà
triết học hiểu biết thêm những tri thức về khoa học mà còn làm cho họ thấy rõ
được cơ sở khoa học chính xác, khách quan để triết học dựa vào đó khái quát
thành những nguyên lý, những quy luật và những phạm trù triết học.
Đồng thời, nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học với khoa học giúp cho
các nhà khoa học nhận thức và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo thế giới
quan duy vật và phương pháp luận khoa học vào quá trình nghiên cứu khoa học,
làm cho họ luôn luôn ý thức được rằng, chỉ có cho mình một phương pháp biện
chứng thì họ mới có thể tiến xa hơn, đi sâu hơn vào các lĩnh vực mà họ đang và sẽ
nghiên cứu. Khi đưa ra nhận định về con đường phát triển phức tạp của vật lý học
V.I.Lênin đã viết: “Vật lý học hiện đại đang và sẽ đi, nhưng nó đi tới phương pháp
duy nhất đúng, đi tới triết học duy nhất đúng của khoa học tự nhiên, không phải
bằng con đường thẳng, mà bằng con đường khúc khuỷu, không phải tự giác mà tự
phát, không nhìn thấy rõ “mục đích cuối cùng” của mình, mà đi đến mục đích đó

một cách mò mẫm, ngập ngừng và thậm chí đôi khi giật lùi nữa. Vật lý học hiện
đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một
cuộc sinh đẻ đau đớn. Kèm theo sinh vật sống và có sức sống, không tránh khỏi
một vài sản phẩm chết, một vài thứ cặn bả nào đó phải vứt vào sọt rác. Toàn bộ
chủ nghĩa duy tâm vật lý học, toàn bộ triết học kinh nghiệm phê phán, cũng như
thuyết kinh nghiệm tượng trưng, v.v… đều thuộc những thứ cặn bả phải vứt bỏ đi
ấy”.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và khoa học còn góp cho con người
thấy rõ được nguồn gốc chung của sự nảy sinh triết học và khoa học đó là giới tự
nhiên; giúp cho chúng ta thấy được rằng, sự liên kết giữa triết học và khoa học là
không thể tránh khỏi và sự hợp tác giữa các nhà triết học với các nhà khoa học là
một tất yếu lịch sử.
Trong những năm gân đây khi mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại
phát triển như vũ bão, cũng như biến động cách mạng lớn lao làm thay đổi tận
gốc rễ bộ mặt của cuộc sống xã hội, đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học
chuyên môn giải quyết đúng đắn và kịp thời những lý luận và thực tiễn cấp bách.
Sự giải đáp này chỉ có thể nắm vững và vận dụng một cách đúng đắn và sáng tạo
thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác – Lenin. Do đó,
việc nghiên cứu những vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa triết học và khoa
học có ý nghĩa vô cũng quan trọng.
NỘI DUNG
I. Triết học
1. Định nghĩa triết học
Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người vê thế
giới, về bản thân con người và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Triết học là một hình thái ý thức xã họi đặt biệt, là thái độ chung của con người
”giai cấp, tầng lớp” đối với hiện thực, là học thuyết tổng quát về thế giới trong tính
chỉnh thể của nó ( tự nhiên, xã hội và tư duy)
Là một hình thái ý thực xã hội đặt biệt, triết học phải phản ánh tồn tại xã
hội (hiện thực, cuộc sống, thời đại), nhưng cách phản ánh của nó khác cách phản

ánh của các hình thái ý thức xã hội khác như tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức, ở chổ
nó phản ánh tồn tại xã hội bằng một hệ thống phạm trù (trừu tượng, khái quát),
mang tính đảng(trên nền tảng duy vật hay duy tâm) dựa trên lợi ích của giai cấp,
tầng lớp này hay giai cấp, tầng lớp nọ)
Là thái độ chung của con người (giai cấp, tầng lớp) đối với hiện thực, triết
học vạch ra cho các giai cấp, tầng lớp mà nó đại diện về tư tưởng, thấu hiểu được
lợi ích, vai trò, sứ mạng lịch sử của mình để trở thành chính mình và hành động vì
mình trong xã hội vô cũng phức tạp.
Là học thuyết về thế giới chỉnh thể, triết học phải dực trên lý trí,( tư duy ký
luận trừu tượng, khái quát, hệ thống) để đào sâu và mở rộng lý trí nhằm mang lại
những tri thức đặc biệt, khác với tri thức do các ngành khoa học, do các hình thái ý
thức xã hội khác mang lại ở tính phổ quát, tất yếu, (logic), của nó, ở tính phản ánh
thế giới trong tính chỉnh thể thống nhất của nó.
Triết học là một hệ thống tư tưởng kết hợp trong mình những giá trị chung
với những tri thức tổng quát, do các nhà tư tưởng của các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội xây dựng nên, để giải quyết những vấn đề trọng đại do lịch sử nhân loại đặt
ra dựa trên lợi ích của giai cấp, tầng lớp mình. Do vậy mà các hệ thống triết học từ
cổ đại đến nay đều mang tính đảng. Trước khi giải quyết những vấn dề do thời đại
đặt ra, các nhà triết học phải giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học; cách
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học sẽ ảnh hưởng đến cách giải quyết của các
vấn đề còn lại
2. Vấn đề cơ bản của triết học- chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
a, Thực chất và nội dung vấn đề cơ bản của triết học
Bằng tư duy lý luận các nhà triết học đi đến nhận định khái quát là : tất cả
sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới chưng quy lại có hai loại: các sự vật, hiện
tượng vật chất và các sự vật, hiện tượng tinh thần, ngoài ra không có bất kỳ sự vật,
hiện tượng nằm ngoài hai loại sự vật, hiện tượng đó. Do vậy, trong triết học, xuất
hiện hai phạm trù vật chất và ý thế dung để chỉ hai loại sự vật, hiện tượng trên. Dó
đó, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Mặt thứ nhât (bản thể luận) đòi hỏi

trả lời cho câu hỏi: vật chất hay ý thức (giới tự nhiên hay tinh thần…) cái nào có
trước, cái nào có sau? Mặt thứ hai ( nhật thức luận) đòi trả lời cho câu hỏi : con
người có khả năng nhận thức thế giới được hay không.
b, Cách giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học
Cách giải quyết thứ nhất thừa nhận chỉ có một yếu tố có trước và mang tính
quyết định đưa đến sự xuất hiện chủ nghĩa nhất nguyên. Chủ nghĩa nhất nguyên có
hai loại đối lập nhau là chủ nghĩa (nhất nguyên) duy vật và chủ nghĩa (nhất
nguyên duy tâm).
- Chủ nghĩa duy vật khằng định vật chất có trước và giữ vai trò quyết
định đối với ý thức, thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan độc lập với ý
thức con người và không có ai sáng tạo ra; còn ý thức là phản ánh thế giới khách
quan vào bộ óc con người; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.
Chủ nghĩa duy vật đã tồn tại dưới ba hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy vật chất
phát , chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng. chủ nghĩa duy
vật thường gắn liền với khoa học và là cơ sở lý luận cho các giai cấp thống trị tiến
bộ, cách mạng trong xã hội.
- Chủ nghĩa duy tâm khẳng định ý thức có trước, sản sinh ra và giữ
vai trò quyết định đối với vật chất, là cơ sở tồn tại của giới tự nhiên xã hội. Chủ
nghĩa duy tâm có hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ
nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm thường gắn liền với tôn giáo và là
cơ sở lý luận cho các giai cấp thống trị bảo thủ, phản động trong xã hội.
- Cách giải quyết thứ hai thừa nhận cả hai yếu tố vật chất và tinh thần
đều có trước và tồn tại song song, độc lập với nhau “ đơn” (thế giới vật chất sinh
ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinnh thần) đưa
đến sự xuất hiện chủ nghĩa nhị nguyên. Các nhà nhị nguyên luận muốn dung hòa
giữa hai chủ nghĩa duy vật và duy tâm, nhưng lập trường không nhất quán thường
đưa họ rời vào chủ nghĩa duy tâm hơn rời vào chủ nghĩa duy vật.
Ngoài hai cách giải quyết trên, trong lịch sử triết học có ”con đường thứ
ba” của các nhà thực chứng luận; mà theo họ, thì vấn đề cơ bản của triết học là vấn
đề giả dối, do đó nó không bao giờ có lời giải đáp đúng; mọi lời giải đáp của chủ

nghĩa nhất nguyên và chủ nghĩa nhị nguyên (được gọi chung là siêu hình học) chỉ
là những nhầm lẫn đáng trách, dẫn dắt trí tuệ con người rơi vào thế giới siêu hình,
phi thực tại. Cách luận giải này đưa đến sự xuất hiện chủ nghĩa thực chứng nhưng
sự thực nó cũng là một hình thức của chủ nghĩa duy tâm chủ quan được che đậy
tinh vi bởi những nội dung thực chứng do khoa học mang lại. Dù vậy, chủ nghĩa
thực chứng vẫn có giá trị đối với sự phát triển của khoa học vào cuối thời cận đại
và đầu thời hiện ddại.
Lịch sử triết học trước hết là lịch sử đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm Trong cuộc đấu tranh này chủ nghĩa duy tâm ngày càng thông
minh, càng siêu hình tinh vi hơn, còn chủ nghĩa duy vật ngày càng thực tiễn hơn,
càng biện chứng mềm dẻo hơn. Thông qua cuộc đấu tranh này mà tư duy lí luận
ngày càng được phát triển hoàn thiện hơn.
c, Cách giải quyết mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học
Cách giải quyết thứ nhất thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế
giới hình thành nên trào lưu khả tri trong triết học, bao gồm cả chủ nghĩa duy vật
và phần lớn chủ nghĩa duy tâm. Tuy nhiên, các nhà triết học khác nhau sẽ trả lời
không như nhau về bản chất của nhận thức con đường, cách thức nhận thức, chân
lý, tiêu chuẩn chân lý, … thường thì các nhà triết học duy vật cho rằng nhận thức
sự phản ánh thế giới vật chất, nắm bắt các quy luật bản chất vật chất của thế giới.
còn các nhà triết học duy tâm coi nhận thức thế giới không phải là phản ánh thế
giới mà chỉ là sự tự nhận thức của cái tinh thần về chính nó – bản chất của thế
giới:
Cách giải quyết thứ hai cho rằng về nguyên tắc con người không có khả
năng nhận thức được thế giới, Những nhà triết học này theo trào lưu bất khả tri
II. Khoa học
1. Định nghĩa khoa học
Khoa học (trong tiếng Latin scientia, có nghĩa là "kiến thức" hoặc "hiểu
biết") là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết của con
người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Thông qua các
phương pháp kiểm soát, nhà khoa học sử dụng cách quan sát các dấu hiệu biểu

hiện mang tính vật chất và bất thường của tự nhiên nhằm thu thập dữ liệu, phân
tích thông tin để giải thích cách thức hoạt động, tồn tại của sự vật hiện tượng. Một
trong những cách thức đó là phương pháp thử nghiệm nhằm mô phỏng hiện tượng
tự nhiên dưới điều kiện kiểm soát được và các ý tưởng thử nghiệm. Tri thức trong
khoa học là toàn bộ lượng thông tin mà các nghiên cứu đã tích lũy được. Định
nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích cực đã
được hệ thống hóa.
2. Phân loại khoa học
Các lĩnh vực khoa học thường được chia thành hai nhóm chính: khoa học tự
nhiên, nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên (kể cả đời sống sinh học) và khoa học
xã hội, nghiên cứu hành vi con người và xã hội. Những nhóm chính là khoa học
thực nghiệm, trong đó kiến thức phải được dựa trên những hiện tượng quan sát
được và có khả năng được thử nghiệm để kiểm nghiệm tính đúng đắn của nó bởi
các nhà nghiên cứu khác nhau làm việc trong cùng điều kiện. Ngoài ra còn có các
ngành liên quan được nhóm lại thành các khoa học liên ngành và khoa học ứng
dụng, chẳng hạn như khoa học kỹ thuật và khoa học sức khỏe. Các thể loại khoa
học này có thể bao gồm các yếu tố của các ngành khoa học khác nhưng thường có
thuật ngữ và cơ quan chuyên môn riêng.
Khoa học thuần túy là các môn học bao gồm các phương diện triết lý, tôn
giáo, khoa học, tín ngưỡng, xã hội học, nhân chủng học, chính trị học, luận lý học,
đạo đức học, tâm lý học, phân tâm học, thần kinh bệnh học, ngôn ngữ học, tôn
giáo học huyền bí học. Khoa học ứng dụng là khoa học chính xác sử dụng các kiến
thức thuộc một hay nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để
giải quyết những vấn đề thực tế. Nó có liên hệ mật thiết hoặc đồng nhất với kỹ
nghệ. Khoa học ứng dụng có thể sử dụng để phát triển công nghệ.
Toán học, được phân loại là khoa học thuần túy, có cả sự tương đồng và
khác biệt với các ngành khoa học tự nhiên và xã hội. Nó tương tự như khoa học
thực nghiệm ở chỗ nó bao gồm một phương pháp nghiên cứu khách quan, thận
trọng và có hệ thống lĩnh vực kiến thức. Nó là khác nhau vì để xác minh kiến thức,
toán học sử dụng phương pháp tiên nghiệm hơn là phương pháp thực nghiệm.

Khoa học thuần túy, trong đó bao gồm các số liệu thống kê và logic, có vai trò
quan trọng đối với các ngành khoa học thực nghiệm. Các tiến bộ trong khoa học
thuần túy thường dẫn đến những tiến bộ lớn trong các ngành khoa học thực
nghiệm. Các ngành khoa học thuần túy rất cần thiết trong việc hình thành các giả
thuyết, lý thuyết và định luật, cả hai phát hiện và mô tả bằng làm thế nào sự việc
xảy ra (khoa học tự nhiên) và con người suy nghĩ và hành động như thế nào (khoa
học xã hội).
III. Mối quan hệ triết học và khoa học
Triết học có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của khoa học cụ thể; nó
là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học cụ thể, là cơ sở lý luận cho các
khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt được, cũng như vạch ra
phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. Sự hình
thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa học cụ thể.
Tuy nhiên triết học duy vật hay triết học duy tâm, siêu hình học hay thực chứng
luận có vai trò không như nhau. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng
vai trò tích cực đối với sự phát triển của khoa học; ngược lại chủ nghĩa duy tâm
thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho tôn giáo và cản trở khoa học phát
triển
1. Thời cổ đại:
Thời cổ đại, lao động trí óc vừa mới tách ra khỏi lao động chân tay, tầng
lớp trí thức vừa mới hình thành, tri thức của loài người còn rất ít ỏi và khá đơn
giản, bản thân các ngành khoa học chưa tồn tại độc lập nhau, chúng thống nhất với
nhau nhờ vào triết học và trong triết học. Ở Trung Hoa, triết học gắn liền với các
vấn đề chính trị-xã hội; ở Ấn Độ, Triết học gắn liền với các vấn đề tôn giáo; ở Hy
Lạp, triết học gắn liền với Khoa học tự nhiên và được gọi là triết học tự nhiên. Nói
chung, lúc bấy giờ đối tượng của triết học là tri thức nói chung, tri thức thuộc
nhiều/ mọi lĩnh vực. Triết học đã đạt được nhiều thành tự rực rỡ; nó không chỉ gắn
liền với sự hình thành và phát triển tư duy lý luận nói chung mà còn đặt nền móng
cho sự phát triển về sau cho chính mình và cho các ngành khoa học (cả tự nhiên
lẫn xã hội). Từ đây, hình thành cách hiểu mang tính truyền thống về triết học.

Người Trung Quốc coi triết học là sự truy tìm bản chất, là sự thấu hiểu căn nguyên
của sự vật, sự việc; người Ấn Độ coi Triết học là con đường suy ngẫm dẫn dắt đến
lẽ phải, đến những chân lý siêu nhiên (darshama); còn người Hy Lạp coi triết học
là sự ham hiểu biết, yêu thích sự thông thái (philosophia), do đó nhà triết học được
gọi là nhà thông thái, - người có khả năng nhận thức được chân lý, làm sáng tỏ bản
chất của vạn vật… Như vậy, quan niệm truyền thống, dù ở phương đông hay
phương tây, đều coi triết học là đỉnh cao của lý trí, là sử dụng lý trí để thấu hiểu
thế giới, để nắm bắt được bản chất của vạn vật, khám phá chân lý. Nói cách khác,
triết học được coi như một phương thức hoạt động của lý trí (tư duy lý luận) đào
sâu, mở rộng chính nó.
2. Thời Trung cổ
Ở Tây Âu, dưới sự thống trị của giáo hội thiên chúa giáo, Triết học buộc
phải trở thành một bộ môn của thần học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là lý giải
và chứng minh tính “đúng đắn” của các nội dung trong kinh thánh, củng cố niềm
tin tôn giáo, hướng con người đến với thượng đế… Đó là những thứ triết lý của
các cha cố, là triết học kinh viện phục vụ cho thần học của nhà thờ, hạ thấp lý trí
để nâng cao lòng tin, thủ tiêu khoa học, mà trước hết là khoa học tự nhiên, để mở
rộng được phát triển thần học.
3. Thời Phục Hưng – cận đại
Trong lòng xã hội phong kiến của các nước Tây Âu sớm hình thành và phát
triển mạnh mẽ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa cùng với sự hồi sinh nhanh
chóng và sự phát triển rực rỡ của khoa học tự nhiên .
Vào thời Phục Hưng: Nhu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản
và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi triết học phải giải
đáp. Do đáp ứng được nhu cầu của thời đại nên chủ nghĩa duy vật sớm hồi phục và
nhanh chóng phát triển. Quan niệm coi triết học như “ gười mẹ của các nhành
khoa học” xuất hiện vào thời cổ đại, bị quên lãng vào thời trung cổ, bây giờ được
khôi phục lại.
Sang đầu thời cận đại, quan niệm coi triết học như “người mẹ của các
ngành khoa học” đã phát triển thành quan niệm coi triết học là “ khoa học của các

khoa học”. Khoa học thời nay, triết học phát triển nhanh đồng thời góp phần thúc
đẩy các ngành khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ; lý trí triết học và hiểu biết
khoa học vượt lên trên lý lẽ thần học và niềm tin tôn giáo. Vào cuối thời cận đại,
khi các nước Anh, Pháp, đã xây dựng vững chắc chủ nghĩa tư bản, thì nước Đức
vẫn còn là một nước phong kiến; giai cấp tư sản Đức đang hình thành. Do sự ảnh
hưởng về nhiều mặt (kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học, văn hóa, tư tưởng.) của
các nước Anh, Pháp từ bên ngoài và yêu cầu của giai cấp tư sản Đức từ bên trong
mà triết học cổ điển Đức đã hình thành và phát triển mạnh mẽ trên lập trường duy
tâm. Đỉnh cao của triết học cổ điển Đức là triết học Heghen. Heghen xem triết học
của mình là “ khoa học của các khoa học”. Đây là hệ thống triết học - “khoa học
của các khoa học” đồ sộ nhất và cuối cùng trong lịch sử
Cuối thời cận đại, các cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và thắng lợi ở các
nước Tây Âu, tạo tiền đề và cơ sở hiện thực cho khoa học tự nhiên đạt được nhiều
thành tựu nổi bật và phân ra thành các ngành độc lập nhau; chúng (mà trước hết là
cơ học) lần lượt tách ra khỏi triết học tự nhiên. Triết học (triết học tự nhiên) “mất”
đối tượng, khủng hoảng về nội dung. Quan niệm coi triết học là “ khoa học của
các khoa học” trở nên lỗi thời, thậm chí lố bịch; nó bắt đầu ngăn cản sự phát triển
của các ngành khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa thực chứng xuất hiện kịp thời để
hướng dẫn các ngành khoa học phát triển. Chủ nghĩa thực chứng cố gắng chứng
minh mình là triết học của khoa học, đồng thời đối lập mình với triết học truyền
thống, tức triết học là “ khoa học của các khoa học” hay siêu hình học. Chủ nghĩa
thực chứng cho rằng triết học thực sự không giải quyết vấn đề quan hệ giữa vật
chất và ý thực, không tìm hiểu thế giới để xây dưng thế giới quan mà nó phải giải
quyết các vấn đề khả năng, hình thức, cách thức tăng trưởng tri thức của khoa học
để thúc đẩy sự phát triển khoa học và xã hội…
4. Thời hiện đại
Đầu thời hiện đại, trước yêu cầu của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và
sự phát triển của khoa học tự nhiên, triết học macxit đã ra đời. Triết học Mác xít
đã đoạt tuyệt với quan niệm coi triết học là “khoa học của các khoa học” nhưng
cũng không chấp nhận quan niệm của chủ nghĩa thực chứng về đối tượng, nội

dung và vai trò của triết học. Triết học Mác Xít xác định đối tượng nghiên của của
mình là tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập
trường duy vật và quan điểm thực tiễn; nghiên cứu những quy luật chung nhất của
tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn
của con người nhằm cải tạo tự nhiên-xã hội, phục vụ lợi ích cho con người.
Ngày nay, ở các nước tư bản hiện đại nói riêng, trên toàn hành tinh của
chúng ta nói chung, bên cạnh những thành tự to lớn do các cuộc cách mạng khoa
học-kỹ thuật trước đây (hiện nay là cách mạng khoa học - công nghệ) mang lại là
những hậu quả nghiêm trọng về mọi mặt: đạo đức, xã hội, môi trường do chúng
gây ra. Nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề to lớn đòi hỏi phải giải quyết. Do
vậy đã xuất hiện nhiều trào lưu triết học khác nhau hướng đến giải quyết các vấn
đề không giống nhau; chúng tạo nên dòng thác tư tưởng “triết học phương tây hiện
đại ngoài Mác Xít”. Dù dòng triết học này rất đa dạng nhưng chúng ta dể nhận
thấy trong nó có những trào lưu lớn như: triết học duy khoa học, triết học nhân bản
phi lý tính, triết học tôn giáo, … các trào lưu triết học Phương tây hiện đại phân
tích những đối tượng khác nhau với những mục đích không như nhau, và thể hiện
lập trường không giống nhau.
IV. Nhận Xét
Trong quan hệ với các khoa học cụ thể, mối quan hệ giữa triết học Mác-
Lênin và các khoa học cụ thể là mối quan hệ biện chứng, cụ thể là: các khoa học
cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết
học Mác- Lênin cung cấp những công cụ phương pháp luận phổ biến, định hướng
sự phát triển của các khoa học cụ thể. Mối quan hệ này càng đặc biệt quan trọng
trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh phát triển khoa học cụ thể cũng như bản thân
triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các
nhà khoa học khác là hết sức cần thiết. Điều đó đã được chứng minh bởi lịch sử
phát triển của khoa học và bản thân triết học.
Ngày nay trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ, sự gắn bó càng
trở nên đặc biệt quan trọng. Trong kỷ nguyên này, cuộc đấu tranh chủ nghĩa duy

vật và chủ nghĩa duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội
dung và hình thức biểu hiện mới. Trong tình hình đó, lý luận triết học sẽ trở nên
khô cứng và lạc hậu, nếu không được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức
hết sức lớn lao của khoa học chuyên ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên
lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy biện chứng thì đứng trước những phát
hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi đến kết luận sai lầm về triết
học.
Tuy nhiên, triết học Mác không phải là đơn thuốc vạn năng chứa sẵn mọi
cách giải quyết các vấn đề đặt ra trong hoạt động nhận thức cũng như hoạt động
thực tiễn. Để có thể tìm lời giải đáp đúng đắn cho những vấn đề đó, bên cạnh tri
thức triết học cần có hàng loạt những tri thức khoa học cụ thể cùng với những tri
thức kinh nghiệm do cuộc sống tạo nên một cách trực tiếp ở mỗi con người. Thiếu
tri thức đó, việc vận dụng những nguyên lý triết học không những khó mang lại
hiệu quả, mà trong nhiều trường hợp có thể còn dẫn đến những sai lầm mang tính
giáo điều. Do vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta cần
tránh cả hai thái cực sai lầm:
Xem thường triết học sẽ sa vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với
những biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa
trông rộng, thiếu chủ động và sáng tạo trong công tác;
Tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng
một cách máy móc những nguyên lý, những quy luật vào từng trường hợp riêng
mà không tính đến tình hình cụ thể trong từng trường hợp riêng và kết quả là dễ bị
vấp váp, thất bại.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng để phòng
và chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình, đó vừa là kết
quả vừa là mục đích trực tiếp của việc nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết
học Mác - Lênin nói riêng.
KẾT LUẬN
Nhìn lại tiến trình lịch sử phát triển của triết học duy vật và khoa học tự nhiên,
chúng ta thấy rằng, hai lĩnh vực tri thức này luôn có mối quan hệ qua lại mật thiết

với nhau. Mối liên hệ giữa triết học nói chung, triết học duy vật biện chứng nói
riêng với khoa học tự nhiên là một tất yếu có tính quy luật và ngày càng phát triển.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn đặt cho mình nhiệm vụ phải khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên để làm sâu sắc thêm, phong phú thêm
những nguyên lý, những quy luật của mình. Và mỗi bước ngoặt của khoa học tự
nhiên, trước sự đổ vỡ của những nguyên lý cũ và sự ra đời của những phát minh
mới thì đại đa số các nhà khoa học tự nhiên đều đứng về phía chủ nghĩa duy vật.
Khoa học hiện đại ngày càng chứng tỏ mối liên hệ mật thiết giữa nó với triết học
duy vật biện chứng, chứ không phải với chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật
siêu hình. Tuy vậy, vẫn có một số ít những nhà khoa học, do không nắm vững
phép biện chứng, còn chịu ảnh hưởng của các trào lưu triết học sai lầm, nên
thường giải thích những thành tựu mới nhất của khoa học trên lập trường của chủ
nghĩa duy tâm và đưa khoa học tự nhiên đi lệch sang phía chủ nghĩa duy tâm. Đây
chính là lực cản của sự phát triển khoa học.
Tài liệu tham khảo
Triết Học Phần I – Đại Cương về Lịch Sử Triết Học, Trường Đại Học Kinh Tế
Thành Phố Hồ Chí Minh, 2011,
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, Phạm Mạnh Trường, Đại Học Sư
Phạm Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh, 2009,
MỤC LỤC

×