Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận triết mối quan hệ giữa triết học & khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.22 KB, 15 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU
Không phải ngẫu nhiên triết học được xem như là khoa học của mọi khoa
học. Cũng không phải ngẫu nhiên trong lịch sử, nhà triết học được gọi là nhà
thông thái, nhà hiền triết, là người nắm được bí mật của sự vật. Thậm chí trong
lịch sử, có thời kỳ xã hội đã đặt nhà triết học vào vị trí cao nhất của cơ cấu tổ
chức xã hội (Platon với mô hình "Nhà nước lý tưởng"). Tất cả những điều ấy
khiến triết học trở thành một môn học thú vị, một cái gì đó kì bí làm cho con
người ở mọi thời đại đam mê, ham muốn hiểu sâu hơn. Kể từ khi ra đời trải qua
nhiều giai đoạn phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ thì triết học luôn phản
ánh sự phát triển trí tuệ loài người và thúc đẩy tư duy loài người, đôi khi còn trở
thành vũ khí sắc bén nhất cho những gì tiến bộ của sự phát triển đó. Ngày nay
triết học đã thực sự trở thành khoa học, đã hoàn chỉnh hơn vì vậy động lực cho
sự phát triển của đời sống xã hội càng rõ nét hơn, con người càng được hoàn
thiện hơn về tư duy lý luận. Đó là mặt tác động đến đời sống xã hội từ bản thân
triết học. Ngày nay, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự phát triển
về mặt vật chất của đời sống xã hội đòi hỏi các nhà triết học và các nhà khoa học
chuyên môn giải quyết đúng đắn và kịp thời những yêu cầu lý luận, thực tiễn cấp
bách chính vì vậy mà việc nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và khoa học có
ý nghĩa hết sức to lớn hơn bao giờ hết do đó tôi đã chọn đề tài tiểu luận “mối
quan hệ giữa triết học & khoa học”.
Trải qua quá trình lịch sử hình thành và phát triển hơn hai nghìn năm của
triết học và khoa học đã cho thấy hai lĩnh vực này luôn có nhiều điểm tương
đồng cũng như có những tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên, ở đây bài tiểu
luận sẽ không đi phân tích sâu mối quan hệ giữa chúng mà chỉ dừng lại ở việc
tổng hợp và làm nổi bậc mối quan hệ đặc trưng giữa triết học & khoa học qua
từng thời kỳ lịch sử. Cụ thể ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo bài tiểu luận bao gồm 3 phần như sau:
- Phần I: Khái niệm và phân loại triết học
- Phần II: Khái niệm và phân loại khoa học
- Phần III: Mối quan hệ triết học & khoa học qua các thời kỳ


Phần I: KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI TRIẾT HỌC
2
Triết học ra đời vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên tại cái nôi
văn hóa lớn của thế giới là Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp. Trải qua các thời đại
lịch sử nó vẫn tồn tại và phát triển đến ngày nay. Trong từng thời đại lịch sử thì
đối tượng nghiên cứu của triết học là khác nhau dẫn đến sự hình thành các quan
niệm khác nhau về triết học. Tuy nhiên, trong tất cả các quan niệm riêng đó
chúng ta cũng rút ra được quan điểm chung nhất về triết học như sau: “ Triết học
là môn khoa học chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự
nhiên và xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục
đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhận thức
luận”. Những người nghiên cứu triết học được gọi là triết gia, tức, nhà triết học.
Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan
điểm chung nhất của con người về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy. Một
trong những vấn đề cơ bản nhất của triết học là quan hệ giữa vật chất và ý thức
(tinh thần). Vấn đề này có hai mặt: mặt thứ nhất giải quyết vấn đề vật chất và ý
thức, cái nào có trước, cái nào có sau; mặt thứ hai giải quyết vấn đề con người có
khả năng nhận thức được thế giới hay không. Tùy theo cách giải quyết mặt thứ
nhất của vấn đề cơ bản mà các nhà triết học chia làm hai phe chính: những người
theo chủ nghĩa duy tâm và những người theo chủ nghĩa duy vật. Tuỳ theo cách
giải quyết vấn đề thứ hai mà các nhà triết học chia thành những người thừa nhận
con người có thể nhận thức được thế giới (khả tri) và những người phủ nhận khả
năng ấy (bất khả tri). Triết học ra đời rất sớm, ngay từ khi mới ra đời, triết học đã
phân làm hai phe đối lập nhau là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và sự
đấu tranh giữa hai phe ấy đã trở thành quy luật phát triển của triết học. Cùng với
quá trình phát triển của triết học các cuộc đấu tranh xuất hiện và ngày càng biểu
hiện sâu sắc hơn sự đối lập giữa hai phương pháp tư duy: biện chứng và siêu
hình. Các trào lưu triết học trong lịch sử đã có những biến dạng khác nhau nhưng
không thoát ra khỏi những sự đối lập ấy. Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử
đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, giữa phương pháp

biện chứng và phương pháp siêu hình. Chính cuộc đấu tranh giữa hai phái duy
vật và duy tâm đã thể hiện tính đảng của triết học. Triết học là thế giới quan của
3
một lực lượng xã hội, một giai cấp nhất định, cho nên cuộc đấu tranh trên mặt
trận triết học cũng phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp về mặt tư tưởng và chính trị.
Phần II: KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI KHOA HỌC
Khoa học là quá trình nghiên cứu nhằm khám phá ra những kiến thức mới,
học thuyết mới, … về tự nhiên và xã hội. Những kiến thức hay học thuyết mới
này tốt hơn và có thể thay thế dần những cái cũ, không còn phù hợp. Thí dụ:
quan niệm thực vật là vật thể không có cảm giác được thay thế bằng quan niệm
thực vật có cảm nhận.
Khoa học bao gồm một hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự
vận động của vật chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội, và tư duy. Hệ thống
tri thức này hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn
xã hội. Phân biệt ra 2 hệ thống tri thức: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học.
Căn cứ theo lĩnh vực nghiên cứu thì khoa học được chia làm hai lĩnh vực
chính là khoa học tự nhiên (nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên kể các đời sống
sinh học) và khoa học xã hội (nghiên cức hành vi con người và xã hội). Ngoài ra
tùy theo phương pháp nghiên cứu mà khoa học có thể phân chia thành hai nhóm
là khoa học thực nghiệm và khoa học lý thuyết.
Phần III: MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC & KHOA HỌC QUA CÁC
THỜI KỲ
Như chúng ta đã thấy trong khái niệm triết học đã nêu rõ: “triết học là
môn khoa học chung nhất…” chính vì vậy mà triết học luôn có mối quan hệ mật
thiết với khoa học. Sự phát triển của triết học có vai trò rất to lớn trong sự phát
triển của khoa học. Triết học là thế giới quan và phương pháp luận cho khoa học
cụ thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu
đạt được cũng như vạch ra phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên
cứu khoa học cụ thể. Ngược lại triết học lại tìm thấy ở khoa học những cơ sở, kết
quả khoa học vững chắc cho mình. Tuy nhiên trong lịch sử không phải mối quan

hệ của triết học và khoa học đều là mối quan hệ thúc đẩy phát triển tích cực,
không phải trào lưu triết học nào cũng giữ vai trò là thế giới quan, phương pháp
luận đúng đắn đối với khoa học và ngược lại không phải thành tựu khoa học nào
4
đều là cơ sở khoa học để chứng minh cho những luận điểm của mọi trào lưu triết
học. Tùy từng giai đoạn, tùy từng trào lưu triết học mà tồn tại các có mối quan hệ
khác nhau giữa triết học và khoa học, cụ thể:
 Thời cổ đại:
Khoa học tự nhiên mới bắt đầu hình thành, tri thức khoa học đang còn
ở tình trạng tản mạn, sơ khai. Triết học lúc ấy đã phác thảo sơ lược bức tranh
tổng quan về thế giới, triết học hầu như là dạng thức lý luận duy nhất, bao trùm
và giải quyết tất cả các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy. Tính bao trùm của
triết học vào thời kỳ này đã làm cho triết học được xem như là “người mẹ” của
các ngành khoa học.
Ở Trung Hoa, triết học gắn liền với các vấn đề chính trị, xã hội và
người Trung Quốc coi triết học là sự truy tìm bản chất, là sự thấu hiểu căn
nguyên của sự vật, sự việc; Ở Ấn Độ, triết học gắn với vấn đề tôn giáo và người
Ấn Độ coi triết học là con đường suy ngẫm, dẫn dắt đến lẽ phải, đến những chân
lý siêu nhiên (darshana); Ở Hy Lạp, triết học gắn liền với khoa học tự nhiên,
được gọi là triết học tự nhiên và người Hy Lạp coi triết học là sự ham hiểu biết,
yêu thích sự thông thái (philosophia). Tóm lại, trong thời kỳ này, triết học được
coi như là một phương thức hoạt động của lý trí (tư duy lý luận) đào sâu, mở rộng
chính nó và cũng chính tư tưởng triết học đã định hướng cho khoa học phát triển.
Các nhà triết học thời kỳ này cho rằng: “không có cái nào tự nhiên
sinh ra và mất đi, vì rằng giới tự nhiên là bảo toàn mãi mãi” . Ph. Ăng-ghen
nhận xét: “ Như thế chủ nghĩa duy vật tự nhiên và tự phát đã hiện ra hoàn toàn
rõ nét, chủ nghĩa duy vật này trong giai đoạn phát triển đầu tiên của nó, coi một
cách hoàn toàn tự nhiên, tính thống nhất trong sự muôn vẻ vô tận của những
hiện tượng nhiên là một điều dĩ nhiên và tìm sự thống nhất ấy trong một vật hữu
hình nào đó, một vật đặc biết nào đó, như Talét là nước vậy”. Như chúng ta đã

biết, các nhà triết học cổ đại khác, vật đặc biệt đó là: không khí (Anaximen), lửa
(Heracơlít), đất - nước - lửa - không khí (Arixtôt), con số (Pitago), nguyên tử
(Dêmôcrít). Tuy nhiên, trong các triết gia trên không ai giải thích được nguồn
gốc của sự vận động. Dêmôcrít với thuyết nguyên tử - đây được xem là cống
5
hiến nổi bật đối với chủ nghĩa duy vật, tuy nhiên ông chỉ gắn liền vận động với
nguyên tử và nó cũng vô cùng, vô tận như nguyên tử; chỉ có Pitago là người đầu
tiên nêu ra ý tưởng về quy luật của vũ trụ; Heracơlít nêu ra ý tưởng tính quy luật
của sự vận động là phép biện chứng và Arixtôt đã vận dụng phép biện chứng mặc
dù những lúc khác ông lại phản đối phép biện chứng. Chính do trình độ hiểu biết
tự nhiên thời kỳ này còn ít ỏi, rời rạc mang tính trực quan là chính nên chưa thể
tiến hành khái quát khoa học dưới sự chỉ đạo của tư tưởng triết học.
 Thời trung cổ:
Thời kỳ này, triết học kinh viện là công cụ biện hộ cho tôn giáo, cản
trở sự phát triển của khoa học.
Ở Tây Âu, dưới sự thống trị của Giáo hội Thiên chúa giáo, triết học
buộc phải trở thành một bộ môn thần học. Nhiệm vụ của triết học khi đó là lý
giải và chứng minh tính “đúng đắn” của các nội dung trong Kinh thánh, củng cố
niềm tin tôn giáo hướng con người đến với Thượng đế… Đó là những thứ triết lý
của cha cố, là triết học kinh viện phục vụ cho thần học của Nhà thờ, hạ thấp lý trí
để nâng cao lòng tin, thủ tiêu khoa học. Điển hình là 2 triết gia: Ôguytxtanh và
Tôma Đacanh.
Tư tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của Ôguytxtanh là: Toàn bộ
thế giới là do Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng đế. Thượng
đế có sức mạnh vạn năng, có quyền lực tuyệt đối; thượng đế là "Bác sĩ của trái
tim mình". ý chí của con người là tự do, song nằm trong giới hạn tiền định của
Thượng đế; quá trình nhận thức của con người là quá trình nhận thức của
Thượng đế. Thượng đế là chân lý tối cao. Về lý luận nhận thức, Ôguýtxtanh gắn
liền với thần học. Ông cho rằng quá trình nhận thức của con người là quá trình
nhận thức Thượng đế. Và nhận thức Thượng đế chỉ đạt được bởi lòng tin tôn

giáo.
Tôma Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu "chân lý của lý
trí", còn đối tượng của thần học là nghiên cứu "chân lý của lòng tin tôn giáo”.
Giữa triết học và thần học không có mâu thuẫn, vì Thượng đế là khách thể cuối
6
cùng của triết học và thần học, nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý
trí con người thấp hơn "lý trí của thần".
Tóm lại Ôguytxtanh, Tôma Đacanh là những nhà triết học ra sức bảo
vệ tôn giáo, chống khoa học.
Tuy nhiên bên cạnh 2 nhà triết học theo chủ nghĩa kinh viện thì trong
thời kỳ này có 1 nhà triết học đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện, ông là người
tiên phong trong khoa học thực nghiệm của thời đại mới, ông chính là Rôgiê
Bêcơn. Rôgiê Bêcơn đã đưa ra quan niệm mới về đối tượng của triết học. Theo
ông, triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học
bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản; còn bản thân
triết học được xây dựng trên thành quả của các khoa học đó.
Chính những cái đó đã cho thấy dấu hiệu của sự sụp đổ của chủ nghĩa
kinh viện và sự phát triển mới của khoa học tự nhiên và triết học trong thời đại
Phục hưng.
 Thời phục hưng và cận đại
Thời kỳ này, chủ nghĩa duy vật đã phát triển gắn liền với khoa học,
góp phần tích cực vào sự phát triển của khoa học, chống lại sự thống trị của
giáo hội. Trên phương diện thế giới quan, chủ nghĩa duy vật trở thành thế giới
quan của giai cấp tư sản tiến bộ và cách mạng; còn khoa học trở thành sức mạnh
của họ trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và nhà thờ nhằm thiết
lập một trật tự xã hội mới. Trên phương diện phương pháp luận, triết học thời
Phục hưng – cận đại chủ yếu đi tìm phương pháp nhận thức mới để khắc phục
triệt để phương pháp kinh viện giáo điều, nhằm xây dựng một triết học và một
khoa học mới có liên hệ mật thiết với nhau, hướng đến xây dựng tri thức. Tuy
nhiên sự đối lập giữa cảm tính và lý tính gay gắt kéo theo sự đối lập giữa phương

pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch, giữa tổng hợp và tư duy phân tích đã
sinh ra sự đối lập của chủ nghĩa kinh nghiệm – duy giác và chủ nghĩa duy lý – tư
biện. Sự đối lập này đã sinh ra hai phương pháp tư duy siêu hình trong nhận thức
khoa học: phương pháp kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học tự nhiên thực
7
nghiệm và phương pháp tư duy tư biện trong nghiên cứu khoa học tự nhiên lý
thuyết. Cụ thể:
- Thời kỳ phục hưng, nhu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư
bản và khoa học tự nhiên lúc bấy giờ đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi triết học phải
giải đáp. Do đáp ứng được nhu cầu của thời đại nên chủ nghĩa duy vật sớm hồi
phục và nhanh chóng phát triển. Quan niệm coi triết học là “người mẹ” của các
ngành khoa học xuất hiện vào thời cổ đại, bị quên lãng vào thời trung cổ, bây giờ
đã khôi phục lại. Tuy nhiên do ảnh hưởng rất lớn của thần học nên chủ nghĩa duy
vật thời kỳ này không triệt để nó mang tính tự nhiên thần luận, nó chỉ chống lại
Nhà thờ nếu Nhà thờ xuyên tạc những lý tưởng xã hội cao đẹp, những quan niệm
khoa học đúng đắn, nó còn dựa vào Thượng đế để chống lại những biểu hiện phi
khoa học trong nghiên cứu.
Trong thời kỳ này thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn
đến nhận thức duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai
Côpecnich (1475-1543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich đã
đứng trên lập trường của triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê
(người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là
trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã
giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo, thần học mở đầu cho cuộc
cách mạng hóa toàn bộ khoa học.
- Thời kỳ cận đại: đầu thời kỳ cận đại, quan niệm coi triết học là
“người mẹ” của các ngành khoa học đã phát triển thành quan niệm coi triết học
là “khoa học của mọi khoa học”. Vào thời kỳ này, triết học phát triển nhanh,
đồng thời góp phần thúc đẩy các ngành khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ.
Cuối thời kỳ cận đại, cuộc cách mạng tư sản đã nổ ra và thắng lợi ở các nước Tây

Âu tạo tiền đề và cơ sở hiện thực cho khoa học tự nhiên đạt được nhiều thành tựu
nổi bật và phân ra thành các ngành độc lập nhau. Quan niệm triết học là “khoa
học của mọi khoa học” trở nên lỗi thời, nó bắt đầu ngăn cản sự phát triển của
khoa học tự nhiên. Đặc trưng khoa học tự nhiên thời kỳ này là khoa học tự nhiên
– thực nghiệm.
8
Như chúng ta đã biết triết học và khoa học có điểm chung là đều phải
nhận thức cái phổ biến, cái bản chất nhưng sự khác nhau là một bên nhiệm vụ
nhận thức cái chung là ở mức trừu tượng và khái quát cao nhất, đưa đến những
quan điểm có ý nghĩa tiên đề; còn một bên là nhận thức cái riêng, cái riêng này
cũng trừu tượng, cũng khái quát nhưng ở mức độ thấp hơn và có biểu hiện ở
những đối tượng vật chất nhiều hay ít tùy thuộc vào trình độ phát triển của khoa
học từng thời kỳ lịch sử. Từ thời cận đại, khoa học phát triển thì cái riêng này
được gọi là bức tranh khoa học tự nhiên về thế giới. Mọi ngành khoa học đều xây
dựng có hệ thống khái niệm, trên cơ sở đó xây dựng lý thuyết của mình và sau
khi được kiểm nghiệm sẽ dùng để giải thích các hiện tượng được quan sát hoặc
tiên đoán những kết quả sẽ xuất hiện trong những hiện tượng mới. Đ ể xây dựng
các khái niệm và lý thuyết đó đòi hỏi nhà khoa học phải giải quyết hai vấn đề
thuộc về đối tượng nhận thức hay sự nhận thức về đối tượng đó. Triết học tác
động lên khoa học chính là hai vấn đề đó, thông qua các quan điểm của mình,
xoay quanh vấn đề cơ bản triết học (quan hệ vất chất và ý thức), với hai mặt của
nó và quan điểm về trạng thái tồn tại của thế giới và cách tiếp cận nhận thức
(biến chứng hay siêu hình). Trong thời kỳ này phương pháp nhận thức cơ bản là
phương pháp siêu hình dẫn đến các nhà khoa học cổ điển khái quát bức tranh
khoa học về thế giới cũng có tính siêu hình, các bức tranh này một mặt là cơ sở
để phát triển khoa học nhưng một mặt nó cũng cản trở khoa học khi phát hiện
những hiện tượng mới không thể đưa vào khuôn khổ bức tranh đã xây dựng.
Để thấy được mối quan hệ nổi bậc của triết học & khoa học thời kỳ
này chúng ta tìm hiểu quan điểm triết học của một số nhà triết học nổi tiếng như:
Ph.Bêcơn, Đềcáctơ…

Mác đánh giá Bêcơn là “ông tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và
khoa học thực nghiệm hiện đại”. Về nhận thức luận, Bêcơn đưa ra những sai
lầm vốn có trong tư duy, những sai lầm do lý trí tạo ra. Những sai lầm do lý trí
mang lại Bêcơn gọi nó là “Idola - ảo ảnh”. Tuy nhiên, việc xác định bản chất và
nguyên nhân của các ảo tưởng của Bêcơn còn mang nặng tính trực quan, chủ yếu
xét ở khía cạnh nhận thức luận, vì vậy chưa đưa ra được các giải pháp khắc phục
9
ảo tưởng một cách hợp lý. Về phương pháp, Bêcơn đưa ra phương pháp “con
ong”. Bản chất của "phương pháp con ong" là từ những tri thức do cảm tính đem
lại chế biến chúng, như con ong biến mật hoa thành mật ong, rút ra những tri
thức mới bằng tư duy lý tính. Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Ph.Bêcơn, là
phương pháp quy nạp. Ông coi phương pháp quy nạp là chiếc la bàn của khoa
học. Nhưng ông không thoả mãn với những phương pháp quy nạp đã có (quy nạp
đầy đủ, quy nạp không đầy đủ). Ông là người đầu tiên khám phá ra phương pháp
quy nạp loại trừ, tức phương pháp quy nạp mà trong đó có phân tích, loại bỏ
những dữ kiện phụ, đi đến khẳng định bản chất của sự vật. Nhìn chung, ông là
người có công khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống
phương pháp luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại.
Đềcáctơ là người đặt nền móng cho khoa học lý thuyết. Có thể chia
triết học của Đềcáctơ thành hai bộ phận là siêu hình học và khoa học (vật lý học).
Về nhận thức, theo Đềcáctơ quá trình nhận thức đúng đắn phải dựa vào năng lực
trực giác của lý tính để khám phá ra tri thức bẩm sinh chứa sẵn trong nó. Sau đó,
linh hồn lý tính sử dụng hiệu quả tư duy phân tích một cách toàn diện và phép
suy diễn hợp lý (diễn dịch toán học) để xây dựng tri thức khoa học lý thuyết.
Đềcáctơ là một nhà duy vật, ông thừa nhận tính vĩnh cửu của vật chất. Vận động
được chuyển từ vật này sang vật khác và không bao giờ bị tiêu diệt. Luận điểm
của Đềcáctơ về tính không bị tiêu diệt của vận động được Ph.Ăng-ghen đánh giá
như một thành tựu khoa học vỹ đại.
Tóm lại mối quan hệ triết học & khoa học thời cận đại thể hiện: thứ
nhất, một loạt khám phá khoa học đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của

triết học bên cạnh đó có thể ảnh hưởng phương pháp triết học cũng là phương
pháp khoa học áp dụng; thứ hai, so với thời kỳ phục hưng những ràng buộc của thần
học so với triết học và khoa học không còn nặng nề nhưng vẫn chưa chấm dứt hẳn.
 Thời hiện đại:
- Sang đầu thời kỳ hiện đại, trước yêu cầu của cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản và sự phát triển của khoa học tự nhiên, triết học mácxít đã ra đời và
phát triển đến ngày nay.
10
Trong thời kỳ này, phương pháp nhận thức mới - phương pháp biện
chứng – thay thế cho phương pháp nhận thức cũ – phương pháp siêu hình, đúng
như nhận định của Lênin: “Vật lý học hiện đại đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng và điều tất yếu để vật lý học thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng – khi chuyển
từ vật lý học cổ điển sang vật lý học hiện đại – là chủ nghĩa duy vật biện chứng
phải thay thế chủ nghĩa duy vật siêu hình”. Về thực chất, chính chủ nghĩa duy
vật biện chứng là một lý thuyết triết học chung nhất của các hệ thống vật chất,
tinh thần. Nó đem lại một bức tranh nhất định về thế giới xem như vật chất đang
vận động (phương diện thế giới quan) và đồng thời nó cũng là phương pháp luận
của nhận thức khoa học (phương diện logic - nhận thức luận).
Triết học Mác – Lênin chứng minh mối liên hệ thống nhất giữa triết
học duy vật biện chứng với khoa học tự nhiên. Triết học Mác – Lênin cố gắng
vạch ra một cái chung ổn định và bất biến trong vô số những thuộc tính và những
quy luật riêng lẻ cụ thể và điều đó dẫn đến sự nhận thức thuộc tính và quy luật
phổ biến của tồn tại của vật chất. Chẳng hạn trong khoa học tự nhiên, người ta
xác định hàng loạt những quy luật đặc trưng cho mối quan hệ qua lại của các
thuộc tính và các khuynh hướng biến đổi đối lập của các khách thể vật chất: các
quy luật tương tác giữa điện tích dương và điện tích âm, giữa hạt và phản hạt,
giữa hút và đẩy trong kết cấu của vật thể,…Mỗi quy luật đều tác động trong
phạm vi cục bộ. Nhưng trong kết cấu của tất cả các quy luật ấy có một cái gì đó
thống nhất bất biến. Trên cơ sở khái quát hóa nội dung thống nhất này mà hình
thành quy luật biện chứng về sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, một

quy luật có giá trị phổ biến. Các quy luật phổ biến của tồn tại đã được nhận thức
sẽ trở thành những nguyên lý phương pháp luận của sự nghiên cứu trong khoa
học tự nhiên. Chẳng hạn nguyên lý triết học về sự bảo toàn vật chất và vận động
là cơ sở của tất cả các quy luật riêng về sự bảo toàn những thuộc tính khác nhau
của vật chất được diễn đạt trong các khoa học tự nhiên.
Sở dĩ các khoa học ngày càng quyện vào nhau, đó là do khoa học tự
nhiên ngày càng đi sâu vào phép biện chứng của tự nhiên. Nhận thức khoa học là
sự phản ánh những đối tượng tồn tại khách quan cùng với tất cả những tính chất
11
và những quy luật vốn có của nó. Mối liên hệ lẫn nhau giữa các lĩnh vực khác
nhau của khoa học tự nhiên hiện đại là sự biểu hiện của những mối liên hệ khách
quan của giới tự nhiên. Sự thâm nhập lẫn nhau của các khoa học tự nhiên hiện
đại chứng tỏ rằng giới tự nhiên, trong cơ sở thống nhất của mình là một sự thống
nhất của cái đa dạng: không một lĩnh vực nào lại tách khỏi những lĩnh vực khác
mà nằm trong mối liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với nhau, kết hợp với nhau
bằng trăm nghìn những sợi dây khác nhau, những sự quá độ và chuyển hóa lẫn
nhau. Điều này thể hiện nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng
trong triết học Mác - Lênin.
Khi nói đến sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cần nhận thấy
rằng cả Ăng-ghen và Lênin đều muốn nói rằng, dưới ảnh hưởng của những phát
minh vỹ đại nhất, điều cần xem xét lại không phải là bản thân các nguyên lý của
chủ nghĩa duy vật mà là các luận điểm có liên hệ với sự khái quát khoa học tự
nhiên về mặt triết học. Triết học có tác dụng khái quát hóa dựa trên những kết
quả của các khoa học cụ thể. Nhưng sự khái quát hóa về mặt triết học hay những
kết luận triết học rút ra từ những luận điểm và những phát minh của khoa học tự
nhiên không thể quy về sự phân tích các quan điểm của một bộ môn khoa học
riêng biệt nào đó. Những kết luận và những luận điểm triết học không thể bị thay
thế bởi các luận điểm của các khoa học cụ thể, mặc dù muốn đi tới kết luận và
luận điểm triết học phải phát hiện và ứng dụng các luận điểm của khoa học cụ
thể. Triết học nghiên cứu các quy luật về nhận thức của tư duy luận phản ánh thế

giới vật chất và do vậy không thể quy nó về một bộ môn khoa học tự nhiên, toán
học, kỹ thuật, xã hội hay bất cứ một bộ môn khoa học cụ thể khác.
Mọi người đều biết luận điểm của Ăng – ghen và luận điểm này đã được
Lênin giải thích rõ và phát triển thêm rằng: “cứ mỗi khi trong lĩnh vực khoa học
tự nhiên có một phát minh lớn thì chủ nghĩa duy vật phải mang một hình thức
mới hoặc phải thay đổi hình thức của mình”. Triết học tác động vào khoa học tự
nhiên thông qua thế giới quan và phương pháp khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện
chứng mới với tính cách là phương pháp luận của khoa học tự nhiên, giúp cho
việc khái quát hóa và giải thích đúng đăn những thành tựu mới của khoa học. Các
12
nhà triết học và khoa học cần bồi bổ cho nhau. Các nhà triết học cần tính toán
đến sự phát triển của tri thức hiện đại trong khi nghiên cứu các quy luật, các
phạm trù. Còn các nhà khoa học thì không nên đối lập các phạm trù của một
khoa học cụ thể nào đó đối với các phạm trù triết học mà phải thấy mối liên hệ
lẫn nhau của chúng. Sẽ nguy hiểm nếu như chúng ta cho phép một sự tách biệt và
gián đoạn trong việc ứng dụng các phạm trù khoa học và triết học. Làm như vậy
thì cả triết học và khoa học đều bị thiệt thòi. Sự thống nhất giữa phương pháp
biện chứng và lý luận duy vật, đó là cơ sở không gì lay chuyển nổi của tính khoa
học của triết học Mác – Lênin. Sự thống nhất này đã làm cho triết học Mác –
Lênin trở thành thế giới quan và phương pháp luận thật sự của khoa học trong
nhận thức và thực tiễn hiện nay.
- Ngày nay, sự phát triển khoa học – kỹ thuật – công nghệ một mặt
tăng năng suất lao động xã hội, nâng cao mức sống cho con người nhưng mặt
khác nó cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng, có sức hủy diệt lớn đối với
cuộc sống và làm tan biến giá trị truyền thống của nhân loại. Chính điều này đã
thôi thúc các nhà triết học phương tây đưa ra những hình thức triết lý mới tạo
dòng thác tư tưởng “triết học phương tây hiện đại ngoài mácxít”. Tuy nhiên,
khoa học – kỹ thuật – công nghệ, cuộc sống con người, tương lai nhân loại được
lý giải một cách duy tâm, siêu hình nên đã hình thành nên trào lưu triết học duy
khoa học, trào lưu nhân bản phi duy lý.

+ Triết học duy khoa học phương Tây hiện đại bao gồm hai trào lưu
nối tiếp nhau: trào lưu thực chứng và trào lưu hậu (phản) thực chứng.
Theo trào lưu thực chứng, “bản thân khoa học đã là triết học; tri thức
về thế giới là đặc quyền của khoa học thực chứng”. Chủ nghĩa thực chứng phát
triển qua 3 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất – giai đoạn thực chứng cổ điển; giai
đoạn thứ hai - giai đoạn kinh nghiệm phê phán; giai đoạn thứ ba – giai đoạn phát
triển hưng thịnh nhất để rồi sau đó sơi vào thời kỳ suy tàn là giai đoạn chủ nghĩa
thực chứng logic và triết học phân tích.
Đại biểu của chủ nghĩa thực chứng logic là Cácnáp, Slích. Chủ nghĩa
thực chứng lôgíc sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là của lôgíc
toán lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh đề
13
có thể dùng lôgíc toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm vụ tiến
hành sự phân tích kết cấu lôgíc đối với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa trên các
tài liệu thực chứng (kinh nghiệm). Tóm lại chủ nghĩa thực chứng logic chỉ tiến
hành phân tích lôgíc ở trạng thái tĩnh đối với lý luận khoa học, không quan tâm
nghiên cứu sự phát triển của tri thức khoa học, cho rằng các tri thức khoa học chỉ
tích luỹ về lượng.
Ngược lại với chủ nghĩa thực chứng là chủ nghĩa hậu thực chứng, bao
gồm các đại biểu như Pốppơ, Cun và Lacatốt. Học thuyết, quan điểm của họ khác
nhau, nhưng cái giống nhau ở họ là đều phản đối chủ nghĩa thực chứng logic. Họ
cho rằng khoa học tiến bộ thông qua con đường cách mạng trong tri thức, do đó
phải tiến hành sự phân tích lịch sử khoa học theo trạng thái động, thông qua giải
quyết mâu thuẫn.
Pốppơ đã đưa ra quan điểm mới tốt hơn triết lý thực chứng logic. Theo
ông thì sự phát triển của khoa học bắt đầu từ vấn đề mà đề ra giả thuyết có tính
quy ước, tiếp đó dùng thực nghiệm để kiểm nghiệm, cố gắng chứng thực nó bằng
sự giả hóa, sau đó lại xuất hiện vấn đề mới. Như vậy khoa học phát triển theo
phương thức "cách mạng không ngừng".
Cun dùng thuyết các giai đoạn phát triển của khoa học để thay thế cho

thuyết "cách mạng không ngừng" của sự tăng trưởng tri thức khoa học. Ông chia
sự phát triển khoa học thành hai thời kỳ, thời kỳ phát triển bình thường và thời
kỳ cách mạng. Theo ông, ngay trong thời kỳ phát triển bình thường của khoa học
đã xuất hiện những hiện tượng trái với bình thường. Việc tích luỹ các hiện tượng
trái với bình thường, đến một chừng mực nào đó sẽ dẫn đến sự khủng hoảng
trong khoa học, do đó tạo ra cuộc cách mạng khoa học.
Lacatốt, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm của Pốppơ và Cun đã nêu lên
phương pháp luận "cương lĩnh nghiên cứu khoa học", trả lời rõ câu hỏi thế nào là
một khoa học, thế nào là tính hợp lý trong sự phát triển của khoa học. Ông cho
rằng khoa học là một chuỗi những "chương trình nghiên cứu" (research
programs), từng bước tiến lên từ một vấn đề này đến vấn đề khác. Quan điểm của
Lakatos có vẻ hợp lý nhất đối với đa số các ngành khoa học hiện đại (kể cả các
ngành khoa học xã hội).
14
+ Theo trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý mà trường phái triết học
chủ yếu của nó là chủ nghĩa hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái
triết học rất phức tạp. Đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa hiện sinh là các nhà triết
học Hâyđơgơ, Xáctơrơ, Giaxpơ, Macxen. Quan điểm của những đại biểu của triết
học này thường có sự khác nhau rất lớn tuy nhiên tất cả đều coi sự hiện sinh của
cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học của mình.
Ngược lại với chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hiện sinh không chú
trọng đến hoạt động nghiên cứu khoa học bởi vì theo họ những tri thức thu được
bằng khoa học dựa trên lý tính là hư ảo. Người ta càng dựa vào lý tính và khoa
học thì càng khiến mình bị chi phối, từ đó bị tha hóa. Theo họ, để đạt đến hiện
sinh chân chính thì chỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính. Chỉ có trong cuộc
sống đau khổ, cô đơn, tuyệt vọng, sợ hãi con người mới có thể trực tiếp cảm
nhận được sự tồn tại của mình. Như vậy, nhận thức luận của chủ nghĩa hiện sinh
là nhận thức duy tâm chủ quan phi duy lý.
Tóm lại triết học phương Tây ngoài Mácxít hiện đại ngày càng xa rời
truyền thống duy vật và tư tưởng biện chứng và các giá trị khoa học của triết học

chuyển sang chủ nghĩa duy tâm khá thông minh và phép siêu hình tinh vi tạo nên
thế giới quan tiêu cực.
KẾT LUẬN
Trải qua quá trình lịch sử phát triển cho thấy hai lĩnh vực triết học và khoa
học có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. Mức độ tác động tùy thuộc vào
từng thời kỳ, có khi chúng ta chỉ thấy được sự tác động của triết học đến khoa
15
như thời cổ đại, có khi triết học cản trở sự phát triển của khoa học như thời trung
cổ nhưng cũng có khi triết học và khoa học tác động qua lại cùng phát triển, gắn
bó mật thiết như thời hiện đại…Càng ngày thì mối quan hệ giữa triết học và khoa
học càng được thể hiện rõ hơn và có tầm quan trọng lớn lao. Mối quan hệ giữa
triết học nói chung hay triết học duy vật biện chứng nói riêng với khoa học tự
nhiên là một tất yếu có tính quy luật và ngày càng phát triển.
Qua bài tiểu luận này, mong rằng sẽ giúp chúng ta nhận thức được rõ hơn
mối quan hệ của triết học và khoa học và sẽ làm cơ sở để chúng ta tiếp tục nghiên
cứu để có thể đi sâu phân tích mối quan hệ này, đồng thời có thể nhận thức các
quy luật để đưa ra các giải pháp cho các vấn đề khoa học, đời sống và thực tiễn.

×