Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN BIỆN PHÁP PHỤ ĐẠO HS YẾU LỚP 2 HIỆU QUẢ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.7 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trang
1
II. Mục đích, phương pháp nghiên cúu 2
1. Mục đích nghiên cứu 2
2. Phương pháp nghiên cứu 2
III. Giới hạn của đề tài 2
IV. Kế hoạch thực hiện 3
B. PHẦN NỘI DUNG 4
I. Cơ sở lý luận 4
II. Cơ sơ thực tiễn 4
III. Thực trạng của việc bồi dưỡng học sinh yếu kém đạt hiệu quả
trong trường tiểu học
4
1. Thuận lợi 4
2. Khó khăn 4
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề 5
V. Hiệu quả áp dụng 8
C.KẾT LUẬN 9
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác 9
II Khả năng ứng dụng, triển khai 9
III. Bài học kinh nghiệm. 9
A-PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:
Hòa chung với sự đi lên của toàn cầu, đất nước ta đã và đang có những sự
chuyển mình trong xu thế đổi mới toàn diện trong mọi lĩnh vực để bước sang
một thời đại mới – Thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngành giáo
dục nói riêng đã có những bước chuyển mình rõ rệt có những đầu tư lớn trong
việc cải cách vì đại hội Đảng lần thứ VII đã khẳng định rằng: “Giáo dục vừa là


động lực, vừa là tiêu đề của sự phát triển xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước
ta”. Thật vinh dự và tự hào biết bao khi bản thân tôi được đứng trong hàng ngũ
là những kỹ sư tâm hồn – Những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa trong
sự nghiệp giáo dục và cả sự đổi mới của đất nước. Với những tự hào và trách
nhiệm đó tôi luôn tâm niệm lời Bác dạy “Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng
đáng là thầy giáo vẻ vang nhất dù tên tuổi không được đăng báo, không được
thưởng huân chương song những thầy giáo tốt là những người anh hùng vô
danh”. Những điều đó đã giúp tôi nhận thức được một cách đầy đủ hơn về
nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục về vai trò, vị trí là trọng trách của bản thân là người
giáo viên trực tiếp giảng dạy và giáo dục, là những người có vai trò quyết định,
người giữ vai trò then chốt trong việc tổ chức phát triển nhân cách, năng lực, trí
tuệ của học sinh đặc điểm đó là học sinh nhỏ tuổi, học sinh Tiểu học.
Chúng ta biết rằng học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà
trường, là mục đích của nhà trường, hơn thế nữa đây là giai đoạn đầu phát triển
của cả một đời người là nền móng cho các em sau này. Ở lứa tuổi Tiểu học là từ
6 đến 11 tuổi thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học, mà yêu cầu
trước hết để các em thực hiện tốt hoạt động này là các em phải biết đọc thông,
viết thạo một yêu cầu tưởng chừng như là đơn giản nhưng lại rất quan trọng đối
với các em.
Hiện nay các trường đang thực hiện Chỉ thị số 33/2006 CT-TTG ngày
08/02/2006 của Thủ tướng chính phủ về chống tiêu cực và khắc phục bệnh thành
tích trong giáo dục thông qua cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung.
2
Bản thân tôi cũng thấy rằng trong giảng dạy phải có chất lượng và thực hiện có
hiệu quả trong năm. Để đạt được điều đó tất cả các lớp, các cấp phải chú trọng
đến từng cấp học, phải quan tâm đến từng đối tượng học sinh giỏi, khá, trung
bình và yếu. Mục tiêu trước mắt của giáo viên là làm sao nâng chất lượng dạy và
học để đưa học sinh trung bình lên học sinh khá, học sinh giỏi phải đạt kết quả
cao hơn nữa, đặc biệt là đưa học sinh yếu, kém đạt học sinh trung bình để cuối
năm không có học sinh yếu, học sinh lưu ban (vì hiện nay đang duy trì, củng cố

thành tựu phổ cập giáo dục Tiểu học - Chống mù chữ, đẩy mạnh thực hiện phổ
cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Đó là một trong những nhiệm vụ, mục tiêu
của năm học đề ra cho từng lớp, từng cấp.
Nâng cao chất lượng văn hóa, rèn luyện và giáo dục tư cách đạo đức cho học
sinh tốt sẽ hạn chế được học sinh yếu kém, lưu ban. Do đó sự giúp đỡ của giáo
viên đối với học sinh là rất quan trọng, làm sao cho các em từng bước học tập có
kết quả, từ đó gây lòng tự tin hứng thú cố gắng học tập. Những học sinh phát
triển bình thường có đều có khả năng tiếp thu chương trình và đạt yêu cầu quy
định. Trong thực tế thì trong một lớp học số học sinh đạt kết quả thấp tương đối
nhiều? Nguyên nhân do đâu? Vì sao? Đó là những băn khoăn của bản thân tôi
và cũng là lý do mà tôi chọn làm đề tài “Phụ đạo học sinh yếu kém lớp 2 đạt
hiệu quả”.
II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu
1.Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu là mong muốn tập hợp nhiều ý kiến, nhiều giải pháp
và kinh nghiệm, để chia sẽ, trao đổi nhằm thực hiện có chất lượng hơn công tác
phụ đạo HS yếu; Giúp giáo viên dạy lớp dễ dàng áp dụng mang lại hiệu quả cao
hơn trong giáo dục HS yếu. Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và
hạn chế học sinh lưu ban. Thực hiện tốt “Nói không với học sinh ngồi nhầm
lớp”, thực hiện đúng mục tiêu giáo dục đã đề ra.
2. Phương pháp nghiên cứu:
3
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực hành.
III. Giới hạn của đề tài:
Tìm hiểu về các biện pháp phụ đạo học sinh yếu kém HS lớp 2F trường

Tiểu học An Thạnh 1, thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Đúc kết thành hệ thống
những kinh nghiệm dạy học đạt hiệu quả.
IV. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:
- Chọn đề tài.
- Lập đề cương nghiên cứu.
- Đọc, thu thập tài liệu viết đề tài.
- Thâm nhập thực tế.
- Hoàn thành sáng kiến.
4
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
- Một học sinh bình thường về mặt tâm lý, không có bệnh tật đều có khả
năng tiếp thu kiến thức theo yêu cầu phổ cập của chương trình tiểu học hiện nay.
- Những học sinh yếu kém vẫn có thể đạt yêu cầu của chương trình nếu
được hướng dẫn một cách thích hợp.
II. Cơ sở thực tiễn:
Qua thực tế ở trường, tôi đã tìm ra các nguyên nhân dẫn đến học sinh yếu
kém như sau:
- Trí tuệ của các em chậm, phát triển kém.
- Sức khoẻ yếu nên nghỉ học nhiều.
- Do hoàn cảnh khó khăn, điều kiện học tập thiếu thốn, cha mẹ chưa quan
tâm đến việc học của con.
- Do các em mắc bệnh tự ti.
- Do giáo viên chủ nhiệm phương pháp còn yếu, dạy học theo kiểu “đồng
loạt", chưa chú ý được hết tất cả các đối tượng học sinh, nhất là học sinh yếu
nên các em đã yếu lại càng yếu thêm vì bị giáo viên cho ra đứng bên lề trong các
tiết học.
III. Thực trạng của việc bồi dưỡng học sinh yếu kém trong trường tiểu học
1. Thuận lợi: Công tác phụ đạo HS yếu trong nhà trường cũng có những
thuận lợi nhất định đó là:

- Phía HS: Tinh thần và thái độ học tập có chuyển biến tốt, tham dự đầy
đủ các buổi học phụ đạo.
- Phía nhà trường và giáo viên: Cơ sở vật chất trường lớp phục vụ tốt cho
công tác phụ đạo, ngay đầu năm nhà trường đã có xây dựng kế hoạch phụ đạo
HS yếu và được giáo viên hưởng ứng tốt, tích cực tham gia giảng dạy.
5
2. Khó khăn: Bên cạnh đó còn những khó khăn bức xúc chung rất khó có
thể giải quyết triệt để nếu không có sự đồng tâm của tập thể giáo viên, cụ thể là:
- Học sinh: Đọc chậm, đọc sai, viết chậm, viết sai, học vẹt không có khả
năng vận dụng kiến thức, nói chung các kĩ năng cơ bản: nghe -đọc –nói -viết của
các em chưa hoàn chỉnh. Không biết làm tính, yếu các kĩ năng tính toán cơ bản,
cần thiết như (cộng, trừ nhân, chia). Khả năng phân tích, so sánh còn hạn chế.
- Giáo viên: Chưa xác định được cách phụ đạo học sinh, chưa biết phải
bắt đầu từ đâu, luôn lúng túng khi xây dựng nội dung phụ đạo, nên kết quả
thường không cao.
Chính vì vậy công tác phụ đạo hiện nay luôn được các nhà trường và giáo
viên đặc biệt quan tâm.
IV. Các biện pháp giải quyết vấn đề
- Để rèn luyện cho học sinh có những thói quen và phương pháp học tốt, đáp
ứng và yêu cầu đặt ra là giáo viên phải tìm ra những biện pháp phù hợp kết hợp
với lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lý của trẻ và bản thân phải nhiệt tình
trong công tác giảng dạy, phải thật sự là người mẫu mực, là tấm gương sáng cho
học sinh noi theo.
Nhưng một điều quan trọng để sớm đi đến đó là giáo viên phải nắm bắt
được hoàn cảnh, tình hình học tập của từng em, nắm rõ được những em học yếu,
yếu ở mức độ nào? Nguyên nhân do đâu? Từ đó tìm ra những phương pháp
giảng dạy để thu hút tuyệt đối sự chú ý của các em, cố gắng tạo niềm vui trong
lúc học không để các em nhàm chán. Đó có thể là phương pháp tốt mà tôi đã áp
dụng đầu tiên bằng cách luôn động viên khuyến khích các em kịp thời. Mọi cái
đối với các em đều gò bó vì ở nhà các em thích gì đều được, hay nhõng nhẽo,

nhưng khi đến lớp với tôi lại rất nghiêm khắc nhưng lại vừa nhẹ nhàng động
viên gần gũi.
VD : Sau câu trả lời của học sinh tôi khen ngợi ngay “Em rất cố gắng” hay
“Lần này bạn rất giỏi cả lớp khen bạn nào”. Sau mỗi lần khen là tôi đã gây
6
được lòng tin của các em. Có những lúc các em chưa viết đúng, đọc hay làm tính
còn sai tôi không phê bình mà vẫn khen động viên khuyến khích rằng “em cần
cố gắng hơn nữa” tránh thái độ, lời nói chạnh lòng tự ái hoặc mặc cảm đối với
các em.
- Tôi phân loại học sinh ra nhiều loại như: Đọc kém, viết kém hay làm toán
kém. Khi đã nắm được yếu điểm của học sinh tôi lập ngay kế hoạch theo dõi,
thường xuyên cụ thể kết quả học tập, làm bài tập, kết quả kiểm tra thật chặt chẽ .
- Hoặc phân loại học sinh theo 2 mức độ: sự phát triển trí tuệ chậm, kiến thức
không vững chắc.
Với những em trí tuệ phát triển chậm thì bản thân tôi phải kiên trì và tìm
hiểu biện pháp thích hợp, khắc sâu kiến thức cho các em.
Với những học sinh không nắm chắc kiến thức, trong giờ dạy phụ đạo tôi
phải tìm hiểu các em đọc sai, làm sai ở những phần nào? Thuộc mảng nào của
kiến thức. Từ đó tôi kèm cặp và gọi các em đọc, viết, làm toán.
VD: Khi làm bài toán tìm số bị chia : x : 5 = 5
Tôi cho học sinh nhớ thuần thục những tên gọi các thành phần trong phép
tính. Sau đó nhắc lại qui tắc tìm số bị chia cho học sinh đọc thầm bảng nhân 5,
chia 5. Sau dó mới giải : X : 5 = 5
X= 5 x 5
X = 25
Hoặc :
Khi hướng dẫn một bài văn tả ngắn về biển thì tôi lại phải hướng dẫn bằng
cách cho học sinh nhắc lại những từ ngữ tả về biển chẳng hạn tả sóng: bồng
bềnh, dào dạt, cuồn cuộn, trắng xóa,… tả về mặt biển: xanh biếc, phẳng lặng,…
Sau đó lại cho phép từ ngữ đó vào thành câu văn tả về sóng biển, tả mặt

biển,… Cuối cùng mới viết thành đoạn văn ngắn.
7
- Giáo viên luôn tạo ra niềm vui trong học tập cho các em thông qua trò chơi
để các em tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức dễ dàng hơn (vì khi đọc đã kém
thường các em hay chán nản, ít có hứng thú học tập, không chú ý nghe giảng).
VD: Có những bài toán tôi tổ chứa trò chơi “truyền điện” hoặc giờ luyện từ
và câu có những bài tìm từ có tiếng “biển” chẳng hạn.
Đối với những bài dạy trên lớp (không phải là giờ phụ đạo) tôi luôn tìm
tòi biện pháp giảng dạy thích hợp có trọng tâm như tự điều chỉnh nhịp độ giảng
dạy, tổ chức việc học tập bằng phương pháp phát huy tính tích cực chủ động của
học sinh. Tổ chức hướng dẫn dìu dắt để các em được tiếp cận, chiếm lĩnh hoàn
toàn tri thức không áp đặt, các câu hỏi được sắp đặt rõ ràng có hệ thống trong
từng bài, từng đối tượng cụ thể trong những bài soạn. Với yêu cầu vừa sức các
em và nâng cao dần và không nản chí, thiếu tự tin, sốt ruột, khắc phục tính ngại
khó và những định kiến thiếu tin tưởng và sự tiến bộ của học sinh.
Trong khi giảng bài tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của những học sinh
yếu để kiểm tra kịp thời sự tiếp thu của học sinh.
VD: Khi học xong bài toán “Số có ba chữ số” với số 342 tôi tôi đặt câu hỏi
“Số 342 gồm mấy trăm, mấy chục, mấy đơn vị ? ”.
Phần hướng dẫn bài tập cần cụ thể hơn với học sinh kém. Mọi nhiệm vụ
được giao tôi kiểm tra cụ thể phân tích và sửa chữa kịp thời các sai lầm cho các
em.
- Tổ chức cho học sinh khá giỏi thường xuyên giúp đỡ học sinh kém bằng
cách bố trí cho học sinh giỏi ngồi gần học sinh yếu hay đọc sai, đọc chậm, làm
toán kém. Và giáo viên thường cho những học sinh yếu đó ngồi đầu bàn để các
em dễ chú ý và giáo viên thường xuyên kiểm tra và giúp đỡ kịp thời.
- Bên cạnh đó là biện pháp làm việc với sách giáo khoa và bảng con.
Học sinh làm việc với SGK đối với lớp đầu cấp là việc hết sức quan trọng.
Nên trong giờ học tôi đã dành thời gian nhất định để các em xem hình vẽ, mô
hình minh họa (cố gắng để cả lớp có SGK).

8
Hoặc khi làm toán dùng bảng con làm tôi có thể kiểm tra và sửa sai cho học
sinh một cách tương đối nhiều, bao quát nhanh những học sinh yếu làm bài như
thế nào để kịp thời uốn nắn.
- Khắc phục được hiện tượng một số học sinh không làm việc trong giờ học
đó là những học sinh không có đủ đồ dùng học tập, không thích ứng với nhịp độ
bài giảng. Giáo viên cần lôi cuốn học sinh bằng cách nhắc nhở lại câu hỏi của cô
hay câu trả lời của bạn hay kết luận của giáo viên. Tránh tình trạng không cho
các em tham gia hoạt động học tập vì không được giao nhiệm vụ bằng cách giáo
viên phải bao quát được lớp, nhắc nhở thường xuyên.
Để làm tốt đòi hỏi tôi phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của những học sinh
yếu vì hầu như ở lớp tôi thường học sinh yếu lại rơi vào những gia đình có hoàn
cảnh khó khăn, bố mẹ không có tiền mua đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập,
hay không quan tâm đến sự học tập của con cái. Vì thế, tôi lại phải nhờ đến nhà
trường cho mượn sách vở và đồ dùng học tập khi đến lớp đó cũng là tạo những
ấn tượng tốt trong các em để các em có niềm tin ở trường lớp, thầy cô, bạn bè từ
đó có ý chí vươn lên.
- Ngoài những biện pháp trên (tổ chức giảng dạy đó là phần bắt buộc) tôi
luôn tổ chức trò chơi, văn nghệ, kể chuyện và những hoạt động khác để tạo dựng
nơi các em lòng tin yêu trường lớp, tha thiết học tập thích gần gũi với thầy cô,
bạn bè để từ đó các em luôn chấp hành tốt nhiệm vụ và kỷ luật của buổi học tập.
- Cuối cùng là biện pháp phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm với gia
đình bằng cách qua sổ liên lạc để gia đình tạo điều kiện đôn đốc các em thực
hiện tốt kết hoạch ở trường, ở nhà.
Hơn thế nữa bản thân tôi cũng đã gắn bó với học sinh thân yêu, từng thấy
trách nhiệm của mình đối với học sinh là cả một bước quan trọng không thể nhìn
thấy sau mỗi giờ học, buổi học mà nhìn thấy học sinh mình có nhiều em vẫn
chưa hiểu bài nên tôi đã nghĩ mọi phương pháp giảng dạy (như đã trình bày trên).
Ngoài ra, tôi còn dành thời gian1-2 buổi/ tuần phụ đạo cho các em yếu kém.
9

Tóm lại, tùy và từng đối tượng để giáo viên có biện pháp cụ thể thích hợp để
tổ chức dạy học chứ không theo phương pháp cứng nhắc, áp đặt. Đó là biện
pháp thiết thực nhất để nâng cao học, hạn chế được tối đa học sinh yếu kém,
không có học sinh lưu ban, không có học sinh ngồi nhầm lớp, đẩy nhanh tiến bộ
phổ cập giáo dục tiểu học mà kế hoạch năm học đã đề ra.
V. Hiệu quả áp dụng:
Qua một thời gian tôi tự tìm tòi, nghiên cứu ra những biện pháp để thực hiện
vào việc giảng dạy, phụ đạo học sinh yếu kém. . Với lòng yêu nghề, yêu trẻ với
những kinh nghiệm ít ỏi của mình tôi đã mạnh dạn áp dụng trong những năm
qua. Kết quả cho thấy rằng lớp tôi sau những đợt kiểm tra định kỳ tăng lên rõ
rệt. Những học sinh từ không biết đọc, không biết làm toán, không biết viết văn
bây giờ đã tiến bộ rõ nét đáng khen ngợi.
10
C.KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa của đề tài đối với công tác:
- Những kinh nghiệm sau khi được tập hợp, phân loại và xếp vào quy
trình sẽ tạo điều kiện cho giáo viên tham khảo, áp dụng vào giảng dạy một cách
dễ dàng, làm cho việc phụ đạo HS yếu có hiệu quả hơn.
- Sáng kiến còn là nơi để giáo viên tập hợp kinh nghiệm, giải pháp,
chia sẽ với nhau trong quá trình tổ chức phụ đạo HS yếu. Nhưng thật ra không
có phương pháp nào là vạn năng hay tối ưu chỉ có lòng nhiệt tình, tinh thần trách
nhiệm của người thầy với nghề nghiệp là mang lại kết quả cao trong giảng dạy,
là chìa khóa vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày
mai tươi sáng. Đây là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Đó cũng là
duyên nợ của người thầy.
II. Khả năng ứng dụng, triển khai:
Do đây là hệ thống những kinh nghiệm đã được áp dụng trong thực tế nên
khi ứng dụng và triển khai rất được giáo viên đồng tình, hưởng ứng. Khi triển
khai thực hiện các giải pháp sẽ được tập hợp nhiều hơn, khi đó đề tài sẽ là kinh
nghiệm chung cho tất cả giáo viên có HS yếu.

III. Bài học kinh nghiệm:
Từ những kết quả đạt được trong kết quả giảng dạy. Tôi tự thấy bồi dưỡng,
rèn luyện học sinh yếu kém là vô cùng quan trọng để nâng cao chất lượng học
cho học sinh trước hết giáo viên phải thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Người giáo viên phải yêu nghề, mến trẻ, phải hết lòng vì nghề nghiệp, vì học
sinh thân yêu, tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp, bồi dưỡng vốn sống
năng lực cho bản thân.
- Giáo viên phải nắm từng đối tượng, từng cá nhân thật cụ thể để có phương
pháp giáo dục cụ thể.
11
- Giáo viên phải gần gũi giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn từ đó các em
có chỗ dựa vững chắc để vươn lên.
- Giáo viên phải kỳ công bày vẽ, từng ly từng tí cho học sinh.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần động viên, nhắc nhở kịp thời để các
em cố gắng, khắc phục kịp thời.
Trên đây là một số ý kiến nhỏ xuất phát từ tình hình dạy học thực tế tôi rút ra
kinh nghiệm và thấy cũng mang lại những dấu hiệu tốt trong quá trình phụ đạo
cho những học sinh yếu kém.
HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT CỦA TRƯỜNG An Thạnh, ngày 15 tháng 04
năm 2012
Xếp loại:…………… Người viết
CTHĐ


12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- SÁCH TOÁN 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO – ĐỖ ĐÌNH HOAN (Chủ
biên)- NGUYỄN ÁNG- ĐỖ TIẾN ĐẠT- ĐỖ TRUNG HIỆU- ĐÀO THÁI
LAN
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM

- SÁCH TIẾNG VIỆT 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO- NHÀ XUẤT BẢN
GIÁO DỤC
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thống kê.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thực hành.
13

×