Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT HỌC PHÁP GIA THỜI TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.09 KB, 19 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
GIỮA TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ TRIẾT
HỌC PHÁP GIA THỜI TRUNG QUỐC
CỔ ĐẠI
GVHD: TS. Bùi Văn Mưa
Lớp : Cao học đêm 1_K23
Học viên: Luyện Vũ Đức Bình
STT: 134
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
Tháng 12 năm 2014
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu
I. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ …… ……………………
….1
II. Triết học nho gia:
1. Sự hình thành và phát triển của triết học nho gia: ………………………… 3
2. Một số tư tưởng triết học nho giáo:
2.1.Nho giáo nguyên thủy: ………………………………………………………4
2.2.Quan điểm của Khổng Tử về nho giáo: ………………………………… 5
2.3. Quan điểm của Mạnh Tử về Triết học nho giáo:………………………… 7
III. Triết học pháp gia:
1. Lịch sử hình thành và phát triển: ………………………………………… 10
2. Một số tư tưởng cơ bản của triết học pháp gia:
2.1.Pháp trị của Hàn Phi:…………………………………………………… 11
2.2.Nội dung cơ bản khác của tư tưởng pháp gia:…………………………… 12
2.3.Sự tương đồng của tư tưởng nho giáo và tư tưởng pháp gia:…………… 12
IV. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức nho giáo ở nước ta hiện nay:……… 14


V. Kết luận ……………………………………………………………… 15
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
2
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử triết học là môn học mang lại cho người những hiểu biết mang tính
hệ thống về quá trình hình thành và phát triển tư duy triết học - cơ sở tư duy lý luận
nhân loại, qua đó làm phong phú đời sống tinh thần và nâng cao nâng lực sử dụng tư
duy về việc giải quyết các vấn đề do nhận thức khoa học và thực tiễn cuộc sống đặt
ra.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức ra đời và tồn tại đến nay đã
hơn 2500 năm. Trong suốt thời gian tồn tại, Nho giáo đã có ảnh hưởng ở nhiều
nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Bài viết đề cập đến những nội dung đạo
đức chủ yếu của Nho giáo như tam cương (đạo đức xã hội gồm ba mối quan hệ cơ
bản là vua-tôi, cha-con, chồng-vợ), ngũ thường (gồm năm chuẩn mực đạo đức cá
nhân bất di bất dịch là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Đó là những tiền đề để thực hiện
thuyết chính danh, làm cho xã hội được ôn định, trật tự. Trên cơ sở phân tích những
nội dung đạo đức nói trên.
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, tư tưởng Pháp gia mà đại biểu
xuất sắc là Hàn Phi Tử có một vai trò đặc biệt trong sự nghiệp thống nhất đất nước
và phát triển xã hội cuối thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Nội dung cơ bản của tư tưởng
Pháp gia là đề cao vai trò của Pháp luật và chủ trương dùng pháp luật hà khắc để trị
nước. Tư tưởng Pháp gia mặc dù chỉ nổi lên trong một thời gian ngắn nhưng vẫn có
giá trị lịch sử lâu dài và có ý nghĩa đến tận ngày nay.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này chúng ta cùng nghiên cứu bài viết nói về: Sự
tương đồng và khác biệt giữa triết học Nho gia và triết học Pháp gia thời Trung
Quốc cổ đại.
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
3
I. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ:

Trung hoa là một đất nước rộng lớn thuộc vùng Đông Á trên lãnh thổ Trung
hoa có hai con sông rộng lớn chảy quan song Hoàng Hà ở phía bắc và sông Trường
Giang ở phía nam tạo nên hai miền.
Miền bắc xa biển khí hậu lạnh, đất đai khô cằn, cằn cổi sản vật nghèo, miền
nam khí hậu ấm áp, cây cối xanh tươi, phong cảnh đẹp, sản vật phong phú. Lúc mới
lập quốc, tức vào thế kỷ XXI TCN, Trung hoa chỉ là một vùng đất nhỏ ở trung lưu
sông Hoàng Hà.
Lực lượng kinh tế tư hữu ra đời là một thế lực đối chọi với chế độ sở hữu đất
đai nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là những lực lượng chính trị mới
Xu hướng chính trị của các thế lực mới này là thâu tóm quyền lực, tập trung
uy quyền và mở rộng sự thống trị lật đổ triều đại nhà Chu. Hệ quả xã hội của xu
hướng này thật tàn khốc. Những cuộc nội chiến kéo dài diễn ra . Thời Xuân thu có
438 cuộc chiến phạt lẫn nhau giữa các thế lực chính trị, đó là “ ngũ bá đồ vương
Những cuộc chiến tranh như vậy đã làm đảo lộn các thiết chế, nghi lễ truyền
thống nhà Chu; làm cho xã hội ở tình trạng loạn lạc, phá hoại sức sản xuất ghê
ghớm. Đương thời, Khổng Tử đã than rằng: Vua không ra đạo vua, bề tôi không làm
đúng đạo bề tôi, cha chẳng ra đạo cha, con chẳng làm đúng đạo làm con. Còn Mạnh
Tử thì nhận xét: “Đánh nhau tranh thành thì giết người thây chất đầy thành;
Chính trong sự biến động sôi động ấy của xã hội, hàng loạt vấn đề về xã hội,
về triết học, đã được đặt ra buộc các nhà tư tưởng đương thời phải quan tâm. Một
loạt các trường phái triết học ra đời, mỗi trường phái đưa ra 1 kế sách quản lý xã
hội, tạo nên một không khí sôi động trong đời sống tinh thần của xã hội Trung Hoa.
Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “ Bách gia Chư tử”. Chính trong hoàn cảnh đó đã
nảy sinh những nhà tư tưởng lớn, hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn
chỉnh.
1
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
Dần dần, lãnh thổ được mở rộng đến thế kỷ thứ XVIII về cơ bản được xác
định như hiện nay. Dân tộc chủ yếu của Trung hoa hiện nay là dân tộc Hán, mà tiền
than của nó có nguồn gốc Mông cổ, được coi là Hoa hạ, sống du mục, thích săn bắn

và chinh phục. Còn cư dân phía nam Trường Giang là các dân tộc Bách Việt, chủ
yếu sống bằng nông nghiệp, định canh, định cư, có nền văn hóa riêng, nhưng sau
này bị dân tộc Hán đồng hóa, lịch sử Trung hoa cổ đại đầy biến động.
Mặc dù xã hội đầy biến động nhưng trong sự biến động đó nhân dân Trung
hoa đã tạo nên một nền văn hóa rất rực rõ. Chữ viết phát triển nhanh đến chữ tiểu
triện thời Trần Thủy Hoàng, rồi chữ lệ, chữ hán, kinh thi và thơ đường cùng hang
loạt tiểu thuyết minh thanh.
Trong bối cảnh đó nhiều học thuyết, hệ thống triết học ra đời và phát triển
nhằm đưa ra những phương cách giải quyết khác nhau cho những vấn đề thực tiễn
chính trị-xã hội mà thời đại đặt ra. Tư tưởng triết học Trung hoa có mầm móng từ
thần thoại thời Tam đại với các biểu tượng như: đế, thượng đế, quỷ thần chúng hòa
quyện vào t
hế giới quan thần thoại-tôn giáo chi phối mạnh đời sống tinh thần của người
Trung Quốc.
Có hàng trăm học giả với hàng trăm tác giả ra đời cho nên thời đại này còn
được gọi là thời Bách gia chư tử
Mặc dù được đề cao nhưng giữ vai trò thống trị lâu dài, nho giáo phải hấp thụ
những tư tưởng có giá trị của các trường phái khác. Kinh học do nho làm chủ đã
xuất hiện, sau giai đoạn thống trị của nho giáo đến thời kỳ hưng thịnh của đạo giáo
với sự xuất hiện của Huyền học do Đạo làm chủ, rồi tiếp theo là sự vươn lên của
Phật học do Phật giáo làm chủ.
Sự phát triển mạnh tư tưởng triết học thời kỳ này là cơ sở để dân tộc Trung
hoa sang lên một nền văn hóa huy hoàng xán lạn trong thời kỳ cực thịnh của xã hội
phong kiến Trung quốc phải trãi qua thời kỳ phát triển gần một vòng đến thời Tống,
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
2
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
nho học lại được đề cao và phát triển đến đỉnh cao, hình thức thể hiện của nó là lý
học dung hợp đạo phật vào nho.
Như vậy, sự phát triển triết học Trung hoa là một quá trình đan xen, thâm

nhập lẫn nhau của các trường phái.
II/ Triết học nho gia:
1. Sự hình thành và phát triển của nho gia:
Nho gia là một trường phái triết học lớn được hoàn thiện liên tục có ảnh
hưởng sâu rộng, lâu dài đến nền văn hóa tinh thần của Trung Quốc nói riêng, của
nhiều quốc gia phương Đông nói chung.
Người Sáng Lập Thuyết Nho Gia Là Khổng Tử (551-479 TCN), trong tư
tưởng của Nho gia luôn đặt ra yêu cầu về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và chính danh. Yêu
cầu sống theo lối người xưa theo tam cương, ngũ thường. Thu phục nhân tâm bằng
đức của chính mình. Nếu lấy sức mạnh mà bắt người ta làm thì họ sẽ làm nhưng tâm
không phục, còn lấy đức khuyến khích người ta làm thì họ sẽ làm và tâm họ phục
theo. “Bản thân mà chính đáng thì không cần mệnh lệnh, người khác cũng thi hành”,
có như vậy mới đưa xã hội vào ổn định.
Khi phật giáo truyền vào Trung Quốc và Đạo giáo ra đời, nho giáo hấp thụ
một số tư tưởng của hai triết hoc này để phát triển tiếp tục. Sang thời nhà Tống, nho
giáo thật sự phát triển mới mạnh: Chính Chu Đôn Di và Thiệu Ung là những người
khởi sướng lý học trong nho giáo, ngoài ra thời này còn có hai an hem họ Trình-
Trình Hạo và Trình Di là những nhà lý học xuất sắc, họ đã nêu ra thuyết cách vật trí
tri.
Nho giáo tiếp tục chi phối đời sống tư tưởng xã hội Trung Quốc qua các triều
đại tiếp theo nhưng nói chung, nho giáo trong thời Minh – Thanh không có phát
triển mới nổi bật mà càng ngày càng khắc khe và bảo thủ. Sang thế kỷ XIX nho giáo
thật sự trở nên già cỗi, không còn sức sống nữa…Với tình cách là hệ tư tưởng chỉ
đạo đường lối trị nước ở Trung Quốc trên 2000 năm, nho giáo đã đóng góp lớn vào
sự nghiệp tổ chức và quản lý xã hội, vào sự phát triển văn hóa và giáo dục vào quá
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
3
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
trình rèn luyện đạo đức cá nhân, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Nhưng
đến cuối thời đại phong kiến do tính phục cổ, bảo thủ của nó mà nho giáo đã tạo ra

tình trạng trì tuệ kéo dài của xã hội Trung Quốc, làm cho Trung Quốc không bắt kịp
trào lưu văn minh của thế giới.
Đường lối nhân trị của Khổng Tử có tính chất điều hòa mâu thuẫn giai cấp,
phản đối đấu tranh. Ông khuyên giai cấp thống trị phải thương yêu, tôn trọng, chăm
lo cho nhân dân. Đồng thời, ông cũng khuyên dân phải an phận, lấy nghèo làm vui,
nghèo mà không oán trách. Ông coi việc oán trách cảnh nghèo hèn, ưa dùng bạo lực
là mầm mống của loạn. Tuy nhiên những kế sách chính trị của ông chỉ dừng lại ở
tính chất cải lương và duy tâm chứ không phải phải bằng cách mạng hiện thực
2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của nho giáo:
2.1Nho giáo nguyên thủy:
Nho giáo nguyên thủy là triết lý của Khổng Tử và Mạnh Tử về đạo làm người
quân tử và cách thức trở thành người quân tử, cách cai trị đất nước. Nó được trình
bày trong một hệ thống các tư tưởng về đạo đức – chính trị - xã hội có quan hệ chặt
chẻ với nhau.
Nho giáo nguyên thủy cho rằng, nền tảng của xã hội, cơ sở của gia đình
không phải là những quan hệ kinh tế - xã hội, mà là những quan hệ đạo đức – chính
trị, đặc biệt là ba quan hệ vua – tôi, cha – con, chồng – vợ. Các quan hệ này nho
giáo gọi là đạo, vì vậy muốn cải loạn thành trị, muốn thực hiện xã hội đại đồng thì
phải chấn chỉnh lại ba quan hệ đó, muốn chấn chính điều đó nho giáo nguyên thủy
lấy giáo dục đạo đức làm cứu cánh.
Khổng tử ít quan tâm đến các vấn đề nguồn gốc của vũ trụ nên quan điểm của
ông về trời – đất, quỷ - thần không rõ rang. Tuy nhiên để tìm chỗ dựa vững chắc cho
lý luận đạo đức của mình Khổng tử và Mạnh tử đều xây dựng thuyết thiên mệnh.
Xuất phát từ vũ trụ quan của kinh dịch, Khổng tử cho rằng, vạn vật không ngừng
biến hóa theo một trật tự không gì cưỡng lại được, mà nền tảng tận cùng của trật tự
đó là Thiên mệnh.
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
4
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
Con người có tính người, tính người do trời phú, sự phú cái tính ấy cơ bản là

đồng đều ở mỗi con người, nhưng trong cuộc sống do điều kiện hoàn cảnh, môi
trường khác nhau, do những tập quán, tập tục không giống nhau mà người này khác
xa người kia. Vậy tập là nguyên nhân làm biến tính ở mỗi con người, làm cho con
người không giữ được tính trời phú cho, làm cho con người trở nên vô đạo, rồi cả
nước thiên hạ vô đạo.
Vì vậy, muốn giữ tính được cho con người phải lập đạo, nghĩa là phải làm
cho cả nước cả thiên hạ hữu đạo.
2.2. Quan điểm của Khổng Tử về nho giáo:
Khổng Tử là người mở đầu khai sinh ra trường phái Nho gia. Ông tên thật là
Khổng Khâu, tự là Ni, sinh ra tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông-Trung Quốc.
Sinh ra trong gia đình quý tộc nhưng đã sa sút. Cha Khổng Tử đã từng làm quan
nước Lỗ, có lúc làm quan đại phu của nước Lỗ.
Khổng tử là người thông minh ôn hòa, nghiêm trang, khiêm tốn và hiếu học.
Với ông, “học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Người đầu tiên tự mở trường
dạy học. Học trò của ông không phân biệt giai cấp nhưng việc đào tạo có mục đích.
Khổng Tử từng làm quan (quan trong coi ruộng đất, sổ sách) nhưng không
được trọng dụng. Cuộc đời không thành đạt trong quan trường nhưng lại rực rỡ
trong lĩnh vực triết học nhân sinh. Khổng tử mất vào năm 73 tuổi.
2.2.1. Quan điểm của Khổng tử về chính trị xã hội:
Khổng tử sống trong thời đại nhà Chu suy tàn, trật tự xã hội bị đảo lộn. trước
tình hình đó, ông chủ trương lập lại lễ giáo nhà Chu, lập ra học thuyết, mở trường
dạy học và đi khắp nơi để truyền bá tư tưởng của mình. Để thực hiện điều đó, ông
đã xây dụng nên học thuyết về chính trị xã hội mà cốt lõi là 3 phạm trù nhân-lễ-
chính danh.
Như vậy, quan niệm về đức nhân của Khổng Tử là một đóng góp lớn trong
việc giáo dục đào tạo con người giúp con người phát triển toàn diện, vừa có đức vừa
có tài. Tuy nhiên do hạn chế về lập trường giai cấp nên quan niệm về đức nhân của
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
5
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22

Khổng Tử cũng có nội dung giai cấp rõ ràng khi ông cho rằng chỉ có người quân tử
mới có được đức nhân, còn kẻ tiểu nhân tức nhân dân lao động không có đức nhân;
nghĩa là đạo nhân chỉ là đạo của người quân tử là của giai cấp thống trị.
Quan niệm về lễ: Khổng tử cho rằng để đạt được đức nhân, phải chủ trương
dùng lễ để duy trì trật tự xã hội.Lễ trước hết là lễ nghi, cách thờ cúng, tế lễ; lễ là kỷ
cương, trật tự xã hội, là những qui định có tính pháp luật đòi hỏi mọi người phải
chấp hành.
Quan niệm về chính danh: quy định rõ danh phận của mỗi người trong xã hội.
Khổng Tử cũng như các nhà Nho có hoài bão về một xã hội kỷ cương. Vào thời đại
Khổng Tử, xã hội rối ren, vì vậy, điều căn bản của việc làm chính trị là xây dựng xã
hội chính danh để mỗi người mỗi đẳng cấp xác định rõ danh phận của mình mà thực
hiện
Khổng Tử cho rằng nếu mỗi người mỗi đẳng cấp thực hiện đúng danh phận
của mình thì xã hội có chính danh và một xã hội có chính danh là một xã hội có kỷ
cương thì đất nước sẽ thái bình thịnh trị.
2.2.2. Quan niệm của Khổng Tử về thế giới:
Trong quan điểm về thế giới, Khổng Tử có sự giao động gĩưa lập trường duy
vật và lập trường duy tâm vì có khi Khổng Tử tin có mệnh trời: ông cho rằng “tử
sinh có mệnh” (sống chết tại ở trời, không cãi được mệnh trời). Khổng Tử cho rằng
người quân tử có 3 điều sợ trong đó sợ nhất là mệnh trời, 2 là sợ bậc đại nhân, 3 là
sợ lời thánh nhân. Nhưng có khi Khổng Tử lại không tin có mệnh trời: ông cho rằng
trời là lực lượng tự nhiên không có ý chí, không can thiệp vào công việc của con
người. Ông cho rằng “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ vận hành thay đổi, trăm vật
trong vũ trụ cứ sinh sôi”.
Tóm lại, mặc dù đứng trên lập trường thế giới quan duy tâm bảo thủ, bảo vệ
trật tự xã hội nhà Chu suy tàn nhưng triết hoc Khổng Tử có yếu tố tiến bộ là đề cao
vai trò đạo đức kỷ cương xã hội, đề cao nguyên tắc giáo dục đào tạo con người,
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
6
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22

trong người hiền tài, nhân đạo đối với con người và quan niệm tiến bộ của ông nhằm
xây dựng xã hội thái bình thịnh trị.
2.2.3. Quan niệm về "Đạo Đức"- đường lối "ĐứcTrị ": Nhân, Lễ, Chính danh:
Với Khổng Tử "Đạo Đức" là gốc của con người, nói đến con người trước hết
là nói đến "Đạo Đức":
Làm người có nết hiểu để thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc
phạm bề trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào việc
gốc: gốc mà vững thì đạo đức sinh ra hiếu. Hiếu để là cái gốc của đức nhân.
"Đức" với Khổng Tử là lời nói đi đôi với việc làm trên cơ sở cái thiện:
"Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm được" Chính trên
cơ sở đó, Khổng Tử đã đề xuất đường lối "Đức Trị" - đường lối trị nước bằng đạo
đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông.
Đáng chú ý là, trong quan niệm của Khổng Tử Lễ chỉ quan trọng khi gắn bó
với điều Nhân, là biểu hiện của Nhân. Nếu tách rời nhân thì Lễ chỉ là vô nghĩa.
Chính sách trị dân và mẫu người cầm quyền Quân Tử
Tư tưởng “Đức Trị” của Khổng tử còn thể hiện ở quan niệm coi nhẹ chính
hình và giảm bớt sưu thuế cho dân, đề cao vai trò của dân. Khổng Tử quan niệm:
"Không giáo hoá dân để dân phạm tội rồi giết, như vậy là tàn ngược" Để thực thi
đường lối “Đức Trị”, đương nhiên cần phải có một mẫu người cầm quyền thích hợp.
Đó là mẫu người Quân tử với những tiêu chuẩn về tài đức nhất, xứng đáng được
nắm quyền trị dân. Đức của người quân tử là "Lấy Nghĩa làm gốc, theo Lễ mà làm,
nói năng khiêm tốn, nhờ thành tín mà nên việc", "Sửa mình để cho trăm họ yên trị".
2.3. Quan điểm của Mạnh Tử về triết học nho giáo:
Mạnh tử tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh tại nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn
Đông – Trung Quốc. Ông là người kế thừa phát triển tư tưởng của trường phái Nho
gia.
2.3.1. Quan điểm của Mạnh tử về thế giới
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
7
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22

Mạnh tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng Tử và đẩy thế giới quan
ấy tới đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà
không do mệnh trời, mình nên tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó,
Mạnh Tử đưa ra học thuyết “Vạn vật đều có đủ ở trong ta, nên chỉ cần tự tĩnh nội
tâm là biết được tất cả”, nghĩa là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ
cần tu dưỡng nội tâm là biết được tất cả. Ông đã chuyển từ quan điểm duy tâm
khách quan sang quan điểm duy tâm chủ quan.
2.3.2. Quan điểm về bản chất con người
Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên
phú chứ không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm
cho tính thiện ngày càng mạnh thêm; nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày
càng mai mọt đi thì con người trở nên nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện
thực có thể là ác, đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên, để
thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng
đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.
2.3.3. Quan điểm về chính trị xã hội:
Trong quan điểm về chính trị xã hội, Mạnh Tử có nhiều tiến bộ đặc biệt là tư
tưởng của ông về dân quyền, tức đề cao vai trò của quần chúng nhân dân. Ông cho
rằng trong một xã hội thì quý nhất là dân rồi mới đến vua, đến của cải xã tắc “dân vi
quý, quân vi khinh, xã tắc thứ chi”. Ông là người chủ trương khôi phục chế độ tĩnh
điền để cấp đất cho dân. Ông khuyên các bậc vua chúa tiết kiệm chi tiêu, thu thuế
của dân có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức mới mẽ và tiên bộ của ông
khiến ông mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của trường phái Nho gia hàng loạt
vấn đề mới mẽ toát lên tinh thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.
2.3.4. Quan điểm về đường lối nhân chính:
Thời đại của Mạnh Tử là thời đại Chiến quốc, một thời đại mà mọi tư tưởng
được giải phóng mạnh mẽ, cho nên, ông phải đảm đương sứ mệnh người thừa kế,
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
8

HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
bảo vệ và phát triển tư tưởng của Khổng Tử trong thời đại mới. Có thể khẳng định
với Mạnh Tử, học thuyết của Nho gia do Khổng Tử sáng lập đã được phát triển nâng
lên một tầm mức mới trở thành Nho giáo Khổng Mạnh. Đó là đường lối "Nhân
chính" của Mạnh Tử với những nội dung chủ yếu sẽ lần lượt được trình bày dưới
đây.
2.3.5. Đề cao sức mạnh nhân nghĩa :
Mạnh Tử cũng đã kế thừa và phát triển tư tưởng của Khổng Tử về "Tính
tương cận, tập tương viễn" và đi đến luận điểm nổi tiếng: "Nhân tính chi thiện giã"
(cái bản tính của người ta khi sinh ra vốn lương thiện). Từ đó ông khẳng định sức
mạnh vô địch của tính nhân nghĩa: "Đối với người nhân dẫu kẻ địch có đông cũng
chẳng làm gì được mình. Quả thật là Mạnh Tử rất nhất quán trong quan niệm lấy
nhân đức làm nguyên tắc chỉ đạo chính trị của mình. Trước sau như một, ông luôn
luôn chỉ nói đến Nhân Nghĩa và chỉ đề cao Nhân Nghĩa.
2.3.6. Trọng dân:
Mạnh Tử chủ trương thi hành một chế độ "Báo dân" và khuyến cáo các bậc
vua chúa: "Nếu người bậc trên mà vui với sự vui của dân thì dân cũng vui với sự vui
của mình; nếu mình buồn với sự buồn của dân, thì dân cũng buồn với sự buồn của
mình. Bậc quốc trưởng mà chia vui với thiên hạ, chia buồn với thiên hạ thì thế nào
nền cai trị của mình cũng có bề hưng vượng đó". Với các nhà cầm quyền, theo
Mạnh Tử chỉ có một phương pháp nên theo: "Dân muốn việc chi, nhà cầm quyền
nên cung cấp cho họ. Dân ghét việc chi nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ".
Nếu Khổng Tử coi trọng việc dưỡng dân hơn cả việc bảo vệ xã tắc, nhưng
mới dừng lại ở những nguyên tắc có tính đường lối, thì Mạnh Tử quan tâm nhiều
hơn đến các biện pháp kinh tế cụ thể nhằm tạo ra cho dân số một sản nghiệp no đủ.
Mạnh Tử đòi hỏi bậc minh quân phải
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng "Sử dân dĩ thời" của Khổng Tử, Mạnh Tử đã đề
xuất một định hướng kinh tế khá hoàn chỉnh nhằm hướng đến cải thiện đời sống của
dân,
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA

9
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
Với Mạnh Tử giảm bớt tô thuế không chỉ là việc làm có ý nghĩa đối với dân
chúng mà còn là một trong những tiêu chuẩn của người trị dân theo đường lối
"Nhân chính".
2.3.7. Hình phạt và tăng cường giáo hóa dân:
Trong đường lối "Nhân chính" ngoài việc lấy Nhân Nghĩa làm gốc, coi "Dân
là gốc”, thi hành chế độ điền địa và thuế khoá công bằng, Mạnh Tử còn chủ trương
phải giảm nhẹ hình phạt và tăng cường giáo hoá dân. Cũng như Khổng Tử, Mạnh
Tử trước sau tôn sùng "Vương đạo" phản đối "Bá đạo". Mạnh Tử coi việc giảm hình
phạt phải là một chính sách của "Đức Trị".
III/ Triết học pháp gia:
1. Lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng pháp gia:
Pháp gia là trường phái triết học có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp thống nhất
về tư tưởng và chính trị trong xã hội Trung Hoa cổ đại.
Tư tưởng về pháp trị của Quản Trọng được ghi trong bộ Quản Tử, gồm mục
đích trị quốc là làm cho phú quốc binh cường "Kho lẫm đầy rồi mới biết lễ tiết, y
thực đủ mới biết vinh nhục". Muốn có phú quốc binh cường một mặt phải phát triển
nông, công thương nghiệp, mặt khác phải đặt ra và thực hiện lệ chuộc tội: "Tội nặng
thì chuộc bằng một cái tê giáp (áo giáp bằng da con tê); tội nhẹ thì chuộc bằng một
cái qui thuẫn (cái thuẫn bằng mai rùa); tội nhỏ thì nộp kinh phí; tội còn nghi thì tha
hẳn.
Sau Quản Trọng phải kể đến Thân Bất Hại (401-337 TCN), là người nước
Trịnh chuyên học về hình danh, làm quan đến bậc tướng quốc. Thân Bất Hại đưa ra
chủ trương ly khai "Đạo đức" chống "Lễ" và đề cao "Thuật" trong phép trị nước.
Thân Bất Hại cho rằng "thuật" là cái "bí hiểm" của vua, theo đó nhà vua không được
lộ ra cho kẻ bề tôi biết là vua sáng suốt hay không, biết nhiều hay biết ít, yêu hay
ghét mình bởi điều đó sẽ khiến bề tôi không thể đề phòng, nói dối và lừa gạt nhà
vua.
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA

10
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
Cuối cùng phải kể đến Hàn Phi, người có công tổng kết và hoàn thiện tư
tưởng trị nước của pháp gia. Trước hết Hàn Phi đề cao vai trò của pháp trị. Theo
ông, thời thế hoàn cảnh đã thay đổi thì phép trị nước không thể viện dẫn theo "đạo
đức" của Nho gia, "Kiêm ái" của Mặc gia, "Vô vi nhi trị" của Đạo gia như trước nữa
mà cần phải dùng Pháp trị. Hàn Phi đưa ra quan điểm tiến hóa về lịch sử, ông cho
rằng lịch sử xã hội luôn trong quá trình tiến hoá và trong mỗi thời kỳ lịch sử thì mỗi
xã hội có những đặc điểm dấu ấn riêng. Do vậy, không có một phương pháp cai trị
vĩnh viễn, cũng như không có một thứ pháp luật luôn luôn đúng trong hệ thống
chính trị tồn tại hàng ngàn năm. Từ đó, ông đã phát triển và hoàn thiện tư tưởng
pháp gia thành một đường lối trị nước khá hoàn chỉnh và thích ứng với thời đại lúc
bấy giờ.
2. Một số tư tưởng cơ bản của triết học pháp gia:
2.1. Pháp trị của Hàn Phi:
Hàn Phi (khoảng 280 – 233 TCN) là người tập đại thành tư tưởng Pháp gia.
Ông đã tiếp thu điểm ưu trội của ba trường pháp “pháp”, “thuật”, “thế” để xây dựng
và phát triển một hệ thống lý luận pháp trị tương đối hoàn chỉnh và tiến bộ so với
đương thời. Coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để đem lại hoà bình, ổn định và công
bằng, Hàn Phi đã đề xuất tư tưởng dùng luật pháp để trị nước. Ông đưa ra một số
nguyên tắc cơ bản trong xây dựng và thực thi pháp luật, như pháp luật đẳng trước
pháp luật Với những tư tưởng đó, học thuyết của Hàn Phi được người xưa gọi là
“học thuyết của đế vương”.
Ba cơ sở của thuyết pháp trị Hàn phi:
Một là, thừa nhận sự tồn tại của lý-tính quy luật hay những lực lượng khách
quan trong xã hội, lý chi phối mọi sự vận động của tự nhiên và xã hội. Ông kêu gọi
con người phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp.
Hai là, thừa nhận sự biến đổi của đời sống xã hội, do không có chế độ bảo
hiểm xã hội nào bất di bất dịch nên không có khuôn mẫu chung cho xã hội. Theo
ông, người thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách quan của lịch sử, dực vào đặc

GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
11
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
điểm của thời thế mà tạo ra chế độ, đặt ra chính sách, đặt ra cách trị nước sao cho
thich hợp Ông cho rằng, không có một thứ pháp luật nào luôn luôn đúng với mọi
thời đại, pháp luật mà biến chuyển theo mọi thời đại thiên hạ trị, còn thời thế thay
đổi mà phép trị dân không thay đổi thì thiên hạ loạn, mong họ làm việc thiện mà
xuất phát từ số đông, ngăn chặn không cho họ làm điều ác.
Ba là, thừa nhận bản tính con người là ác: do bản tính con người là ác và do
trong xã hội người tốt cũng có nhưng ít, còn kẻ xấu thì rất nhiều nên muốn xã hội
yên bình, không nên trông chờ vào số ít.
Tóm lại, tư tưởng của Hàn Phi hết sức sâu rộng, bao gồm chính trị, pháp luật,
triết học, xã hội, kinh tế, quân sự, giáo dục, ; trong đó, then chốt chính là tư tưởng
chính trị. Ông để tâm suy nghĩ làm sao cho vị vua trong điều kiện xã hội đương thời
có thể vận dụng vô số các phương pháp khác nhau để đạt được cục diện chính trị ổn
định, để cho nước giàu quân mạnh. Có thể nói “Hàn Phi Tử” là một bộ sách chính trị
học vĩ đại và học thuyết chính trị của ông được người xưa gọi là “học thuyết của đế
vương” (đế vương chi học).
2.2. Nội dung cơ bản khác của tư tưởng pháp trị của phái Pháp gia
Để nâng cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi
thứ đều phải tuân theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng "Nước
của bậc minh chủ thì lệnh là cái quý nhất của lời nói, pháp là cái thích hợp của việc
làm. Lời nói không có hai cách đều quý, việc làm không có hai cách đều thích hợp
cho nên lời nói và việc làm mà không đúng với pháp lệnh thì cấm”
Như vậy, tư tưởng pháp trị đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư tưởng
Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Sự nghiệp thống nhất và
phát triển đất nước của Trung Quốc lúc bấy giờ đòi hỏi tư tưởng pháp trị phải phát
triển lên một trình độ mới trong đó tư tưởng về "Thế", "Thuật", "Pháp" vừa được
phát triển hoàn thiện vừa thống nhất với nhau trong một học thuyết duy nhất. Hàn
Phi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ lịch sử đó. Tư tưởng chủ đạo của pháp gia là

muốn trị nước, yên dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
12
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
có phức tạp bao nhiêu, nước có đông dân bao nhiêu thì vẫn "trị quốc bình thiên hạ"
được.
2.3. Sự tương đồng giữa tư tưởng nho gia và tư tưởng pháp gia:
Về mặt Nho giáo:
Nho giáo khao khát cải tiến xã hội thời Xuân Thu – chiến quốc từ loạn thành
trị là một khao khát thầm kín của cả thiên hạ lúc bấy giờ, nó thể hiện tính nhân bản
sâu sắc, đòi hỏi của nho giáo về người cai trị- người quân tử không thể là dân võ
biền mà phải là người có một vốn văn hóa toàn diện là một đòi hỏi chính đáng.
Nhưng chủ trương xây dựng một xã hội đại đồng của nho giáo hoàn toàn không dựa
vào các quan hệ đức đức – chính trị - xã hội, xuất phát từ việc giáo dục, rèn luyện
nhân cách cá nhân cho tầng lớp thống trị và chỉ dục duy nhất vào tầng lớp thống trị
là một chủ trương duy tâm, ảo tưởng xa rời thực tế cuộc sống bấy giờ.
Ý tưởng về một xã hội đại đồng cho dù đã làm lay động trái tim và khối óc
của biết bao con người, nhưng nó chỉ mãi mãi là một ý tưởng chính trị rất cao đẹp
của một tầng lớp phong kiến thống trị xã hội Trung Quốc.
Do không phù hợp với ước vọng của quần chúng nhân dân, nó mãi mãi chỉ là
một lý tưởng. Dù vậy nho giáo của Khổng Tử, Mạnh Tử chứa đựng nhiều nhân bản
và toát lên tinh thần biện chứng sâu sắc.
Nho giáo đã làm nổi bật khía cạnh xã hội của con người, tuy nhiên khía cạnh
con người đã bị hiểu một cách hạn chế và duy tâm.
Về mặt pháp gia:
Thuyết pháp trị của Hàn Phi nói riêng, của Pháp gia nói chung chủ trương lấy
pháp luật làm căn bản trong việc cai trị đất nước, chủ trương nhà cầm quyền không
phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra pháp luật cho rõ rang và
ban bố cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh.
Vì vậy, về nguyên tắc chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương nhân trị.

Nhưng xét cho cùng, pháp trị cũng chỉ là một hình thức cụ thể của nhân trị mà thôi
vì muốn thi hành các chủ trương của phái pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần một đấng
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
13
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
nam quân, một nhà vua sáng suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình
theo nguyên tắc đó.
Trong thời đại bấy giờ, chủ trương của phái pháp gia dùng pháp luật để trị đất
nước là đúng đắn, nhờ vậy nước Tần đã trở nên hung mạnh và thống nhất được
Trung Quốc.
Vì vậy, do thực hành triệt để pháp trị mà nhà Tần mất nước, từ thời Hán về
sau, dù pháp gia chính thức không được công nhận nhưng những tư tưởng có giá trị
của phái này đã được các học phái khác hấp thụ để bổ sung, hoàn chỉnh quan niệm
của mình.
IV. Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện nay:
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo
đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có
tính tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo:
Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ
chủ quyền dân tộc.
Góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam, trong đó có nhiều nhân tài kiệt
xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi…
Chịu ảnh hưởng của nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến
và phát triển, thể hiện ở các cuộc vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa…Các tư tưởng
đấng trượng phu, quân tử, quan hệ tam cương, tam dòng tứ đức, thủ tục ma chay,
cưới xin…đã ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam, nhất là bắt đầu từ thời nhà Lê khi
nho giáp bắt đầu thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong
kiến.
Nho giáo hướng con người vào con đường tu dưỡng đạo đức theo nhân-lễ-

nghĩa-trí-tín, ham học tập để phò vua giúp nước. Nhiều ý nghĩa có giá trị của những
chuẩn mực đạo đức nho giáo đã được qhần chúng nhân dân sử dụng trong nền đạo
đức của mình.
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
14
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và
các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp
luật. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai lầm
của người khác. Do quan niệm sai lệch về Đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả
nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của
chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền
V. Kết luận
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất đất
nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh xã hội Trung
Hoa cuối thời Chiến quốc, tư tưởng chính trị của pháp gia mà tiêu biểu nhất là Hàn
Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát triển của lịch sử. Tư
tưởng pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có thể vận dụng trong xây dựng nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Tư tưởng lễ của Nho giáo có tính hai mặt. Về ý nghĩa tích cực, tư tưởng lễ đã
đạt tới mức độ sâu sắc, trở thành thước đo, đánh giá phẩm hạnh con người. Sự giáo
dục con người theo lễ đã tạo thành một dư luận xã hội rộng lớn, biết quý trọng người
có lễ và khinh ghét người vô lễ.
Lễ không dừng lại ở lý thuyết, ở những lời giáo huấn mà đã đi vào lương tâm
của con người. Từ lương tâm đã dẫn đến hành động đến mức trong các triều đại
phong kiến xưa, nhiều người thà chết chứ không bỏ lễ: chết đói là việc nhỏ, nhưng
thất tiết mới là việc lớn (Chu Hy). Nhờ tin và làm theo lễ mà các xã hội theo Nho
giáo đã giữ được yên ổn trong gia đình và trật tự ngoài xã hội trong khuôn khổ của

chế độ phong kiến. Lễ trở thành điều kiện bậc nhất trong việc quản lý đất nước và
gia đình. Yếu tố hợp lý này chúng ta có thể học tập.
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
15
HVTH: LUY ỆN VŨ ĐỨC BÌNH LỚP: CAO HỌC ĐÊM 1 – KHÓA 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đại cương lịch sử triết học
(Trường Đại học kinh tế TP.HCM – Khoa triết học).
2. Giáo trình triết học
(Trường Đại học kinh tế TP.HCM – Khoa lý luận chính trị)
3. Webside: idoc.vn/tailieu/triethocnhogiao
4. Webside: daolamnguoi.vn
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
16

×