Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Bài giảng DH y hải phòng đại cương về thảm họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.57 KB, 18 trang )

Bài : Đại cương về thảm họa
YHP-YTCC, Dương thị Hương
MỤC TIÊU:
1. Trình bày khái niệm thảm họa và phân loại
2. Trình bày những hậu quả của thảm họa
3. Các biện pháp quản lý và ứng phó khẩn cấp đối với thảm họa
NỘI DUNG:
1. Tổng quan
1.1 Khái niệm
Thảm họa được định nghĩa là một sự kiện có rất nhiều nạn nhân, xảy ra trong một
thời gian rất ngắn và sau một sự kiện bất thường. Thảm họa có thể là tự nhiên hoặc
là kết quả của các hoạt động của con người.
1.2 Phân loại thảm họa
1.2.1 Thảm họa tự nhiên
Thảm họa tự nhiên thường là kết quả của những hoạt động tự nhiên về khí hậu và
địa lý, những thảm họa tự nhiên thường không dự đoán trước được trong một
khoảng thời gian ngắn;
Thảm họa tự nhiên do kết quả về khí hậu chẳng hạn như bão lớn, lốc xoáy, ngập
lụt do mưa lớn kéo dài, thường có nhiều thiệt hại nhiều về của cải hơn là những
thiệt hại về tính mạng con người.
Các thảm họa tư nhiên do các hoạt động địa chấn, chẳng hạn như động đất, núi
lửa, trượt đất, sóng thần và lũ quét thường có khuyn hướng gây ra nhiều thiệt hại
về con người lớn hơn là thảm họa do khí hậu và có thể làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến khả năng của cộng đồng trong việc quan tâm tới những nhu cầu của
chính bản thân họ trong nhiều giờ và nhiều ngày sau khi thảm họa diễn ra. Các vụ
cháy rừng cũng có nhiều đặc điểm tương tự. Trong cả hai dạng thảm họa này, có
nhiều người bị mất tích và nhiều nạn nhân bị mắc kẹt và cần được cứu thoát ra.
Dạng chấn thương thường nghiêm trọng hơn nhiều, do các tòa nhà bị sập và những
ảnh hưởng nghiêm trọng khác kéo theo và có thể dẫn tới những vấn đề y tế công
cộng nghiêm trọng thậm chí ngay cả khi xử lý hợp lý. Các căng thẳng về tâm lý đi
kèm với những dạng thảm họa này thường lớn hơn nhiều so với những thảm họa


do các hoạt động khí hậu gây ra và ảnh hưởng lên cả nạn nhân và những người
cứu hộ.
1.2.2 Thảm họa công nghệ
Thảm họa công nghệ xảy ra do một số hoạt động của con người và có khuynh
hướng là gây ảnh hưởng sâu sắc tới một cộng đồng, dẫn tới việc đỗ lỗi cho một số
người và cảm giác xấu hổ trong cộng đồng, chẳng hạn như các vụ nổ, rõ rỉ hóa
chất độc hại hoặc các chất phóng xạ ra môi trường, sập cầu hoặc sập các tòa nhà
xây dựng, cháy, các vụ va chạm. Các thảm họa công nghệ thường có nhiều nạn
nhân hơn thảm họa tự nhiên có cùng phạm vi phá hủy. Các thảm họa này thường
khó khắc phục hơn và cộng đồng cũng khó chấp nhận. Các yếu tố tâm lý ảnh
hưởng tới các quan niệm về thảm họa công nghệ thường rất khác so với thảm họa
tự nhiên.
1.3 Ảnh hưởng của thảm họa đối với sức khỏe môi trường và các dịch
vụ
Mức độ gây thiệt hại do tác động của thảm họa cho môi trường, cá nhân, tổ chức
là không thể dự báo trước về độ lớn, tồn tại hay phục hồi.
Một vài thảm họa với sự có mặt của các sự kiện hủy hoại khốc liệt gây thiệt hại
trực tiếp tới cộng đồng người dân như khả năng duy trì kiếm sống, phá hủy giao
thông huyết mạch, ngừng trệ cung cấp các nhu cầu thiết yếu cơ bản trong một
khoảng thời gian. Tuy nhiên sự dứt đoạn kiếm sống cũng bị ảnh hưởng gián tiếp,
có thể tình trạng khẩn cấp chưa phát triển ngay, số người dân bị thiệt hại, tổn
thương tăng lên sau thời gian thảm họa. Một vụ nổ hoặc cháy tại một khu công
nghiệp của một thành phố có thành phố có thể không một ai bị chết hoặc bị thương
trực tiếp nhưng việc làm và thu nhập của một số lượng lớn công nhân và gia đình
của họ bị gián đoạn. Một cách gián tiếp sau đó, có thể thêm vào đe dọa cung cấp
thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Công nhân mất việc không thể chi
trả cho ăn uống, nhà ở và chăm sóc sức khỏe. Nhiều loại hậu quả cụ thể làm gia
tăng số gia đình bị tổn thương sau thảm họa.
Sự tổn thương là một sự nhạy cảm chức năng (các yếu tố làm nguy hại dẫn tới
thảm họa) và tác động phản hồi (khả năng chống đỡ lại sự tàn phá gây ra bởi dịch,

thảm họa và phục hồi sau đó). Khái niệm tổn thương giúp cho việc xác định những
ai trong cộng đồng chịu sự tác động nặng nhất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ
một nguy hại. Nó cũng giúp cho việc xác định những người bị ảnh sự hưởng nặng
hơn bởi sự gián đoạn kiếm sống kéo dài và gián đoạn giao thông đồng thời cũng
xác định được những người gặp khó khăn hơn để tái lập lại thói quen sống của họ.
Sự nghèo đói (là hậu quả phổ biến, dinh dưỡng kém, không nhà cửa, nhà sơ sài,
nghèo túng) là góp phần chính đến tổn thương. Trong nhiều tình huống, phụ nữ và
trẻ em bị tổn thương nhiều nhất do bùng phát thảm họa.
Ở mức quốc gia, các thảm họa lớn, lặp đi lặp lại có ảnh hưởng tới sự phát triển
thông qua kinh tế, chi phí xã hội và có thể tạo ra vòng xoắn tiêu cực như không
phát triển, gia tăng số người và xã hội bị tổn thương do thảm họa
Vùng, cộng đồng nhạy cảm cao: dân cư hoặc loại công việc gần hoặc nằm trong
vùng nguy hiểm dễ định vị được trên bản đồ. Cộng đồng sống ở vùng ngập lụt, dải
bờ biển không được bảo vệ, vung đất thấp dưới mực nước biển, đảo biệt lập do
bão lớn, sườn núi lửa đang hoạt động, hoặc gần các khu công nghiệp sử dụng hoặc
phát thải nguyên liệu phóng xạ hoặc hóa chất nguy hiểm. Tại các vùng đô thị xảy
bùng phát các vấn đề rải rác, tự xây dựng nhà, các mối hiểm họa tiềm ẩn, động
đất…
Khả năng phản ứng phục hồi thấp: cộng đông có tỷ lệ mắc bệnh, vấn đề sức khỏe
liên quan tới môi trường cao có thể có nhiều nguy cơ với thảm họa hơn cộng đồng
khác. Dinh dưỡng kém, phổ biến các nhân theo mùa, dẫn đến bệnh tật và giảm
khả năng phục hồi lại. Những người bị tàn tât, người già yếu thường di chuyển ít
và khó khăn trong việc di tản, trẻ em và phụ nữ có thai dễ bị ảnh hưởng bệnh nặng
hơn khi phơi nhiễm với hóa chất công nghiệp. Những người ở tầng lớp kinh tế xã
hội thấp có thể gặp khó khăn nhất về cảnh báo nguy hiểm vì họ không có đài.
Về lâu dài, những người có hạn chế về nguồn lực kinh tế, xã hội như mới nhập cư
đến các thành phố, người già sống một mình, trẻ vô gia cư gặp khó khăn hồi phục
sau thảm họa hơn
Hình 1: Tổn thương do thảm họa coi như là phơi nhiễm chức năng trước nguy
hiểm và đe dọa giảm khả năng khoanh phạm vi và phục hồi

2. Những thảm họa lớn trong năm 2010
PHƠI NHIỄM với
nguy cơ và đe dọa
THIẾU NGUỒN

LỰC: thu nhập,
tài sản, dự trữ, hỗ
trợ xã hội
TIẾP CẬN

KÉM: dịch vụ
y tế, tín dụng,
thông tin…
GIẢM KHẢ
NĂNG: giới hạn
và phục hồi
TĂNG TỔN
THƯƠNG
Năm 2010, những thảm họa nhân tạo và tự nhiên đã gây thiệt hại khoảng 222 tỷ
USD cho kinh tế toàn cầu, gấp 3 lần năm ngoái. Ở châu Á, thiên tai đã thành mối
đe dọa thực sự với các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Trong năm nay, các thảm họa lớn đã cướp đi ít nhất 260.000 mạng người trên thế
giới, trong đó chỉ tính riêng trận động đất tại Haiti đã làm 222.000 người thiệt
mạng. Các vụ thiên tai khác cũng có tỷ lệ thương vong cao bao gồm đợt nắng
nóng tại Nga khiến hàng chục người chết và các đợt lũ lụt vào mùa hè vừa qua tại
Trung Quốc và Pakistan đã cướp đi sinh mạng của 6.225 người.
Riêng tại châu Á, thảm họa thiên tai đã trở thành mối đe dọa thực sự với Các Mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ về giảm đói nghèo và cải thiện khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế và giáo dục vào năm 2015. Hậu quả của thảm họa thiên tai năm nay
đã gây thiệt hại nặng nề hơn năm ngoái, trong khi số liệu thống kê mới nhất của

Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học của các thảm họa (CRED) cho biết trong năm
2009, châu Á chiếm khoảng 40% trong tổng số hơn 330 vụ thiên tai trên toàn thế
giới song số nạn nhân chiếm tới 89%, và thiệt hại do thảm họa đã tăng lên tới gần
1.000 tỷ USD so với mức 75,5 tỷ USD vào thập niên 1960, và 85% dân số tại các
nước đang phát triển trên toàn thế giới phải hứng chịu động đất, bão, lũ lụt và hạn
hán.
Tại Mỹ Latinh và Caribean, gần 100 thảm họa thiên nhiên lớn xảy ra trong năm
nay đã cướp đi sinh mạng của hơn 223.000 nghìn người, ảnh hưởng đến 13,8 triệu
người khác và gây thiệt hại vật chất lên đến 49,4tỷ USD. Dưới góc độ kinh tế,
Chilê là nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do thiên tại gây ra trong năm do trận
động đất lịch sử 8,8 độ Richter, tiếp theo là Haiti với trận động đất 7 độ Richter
gây thiệt hại vật chất gần 8tỷ USD.
Hội nghị về biến đổi khí hậu diễn ra ở Cancun (Mexico) những ngày đầu của
tháng cuối cùng của năm chỉ đạt được một thoả thuận đủ để cứu vãn tiến trình đối
thoại chứ chưa cứu được vấn đề khí hậu. Trong khi đó, các nhà khoa học nổi tiếng
trên thế giới cảnh báo hiểm họa trước tiên đe dọa nền văn minh nhân loại chính là
khí hậu của Trái Đất đang ngày càng biến đổi - mà nguyên nhân chính là do con
người gây ra.
Sau đây là những thảm họa gây nặng nề nhất trong năm
1. Hạn hán lụt lội
Từ đầu năm tới nay, rất nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đang
phải gánh chịu đợt hạn hán nghiêm trọng bất thường do tình trạng biến đổi khí hậu
gây ra, khiến hàng chục triệu người dân mưu sinh dọc các con sông bị ảnh hưởng
nặng nề nhất. Những tháng đầu năm, hạn hán nghiêm trọng đã khiến mực nước
sông Mê Kông giảm xuống mức thấp nhất trong gần 20 năm qua, làm đình trệ các
hoạt động giao thông trên tuyến đường thủy quan trọng của châu Á này, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến kế mưu sinh của 65 triệu người ở 6 quốc gia dòng sông
này chạy qua.
Tại Trung Quốc, nhiều khu vực,đặc biệt là các tỉnh ở phía Tây Nam, đã phải trải
qua những ngày khô hạn nghiêm trọng nhất thế kỷ qua. Ở Pakistan, nhất là tại

Southern Punjab, đất đai nứt nẻ và sông ngòi cạn trơ đáy. Thay đổi khí hậu đang
đe dọa nhiều khu vực ở vùng Trung Á rộng lớn như Tajikistan mà cả ở các nước
hạ nguồn Uzbekistan và Turkmenistan. Nga đã gọi đây là “mối quan ngại thực sự”
và lo ngại thay đổi khí hậu ở Trung Á đe dọa Nga từ phía Nam
2.Động đất kinh hoàng tại Haiti
Ngày 12/1/2010, chỉ trong nháy mắt, hàng nghìn người đã thiệt mạng và mất tích
trong vụ động đất mạnh nhất ở Haiti từ năm 1887 đến nay. Rung chấn từ trận động
đất mạnh 7 độ Richter đã tạo nên một làn sóng phá hủy ghê gớm, hạ gục cả những
công trình vững chắc nhất ở thủ đô Haiti. Theo các chuyên gia, trận động đất ở
Haiti có sức tàn phá mạnh bởi tâm chấn nằm gần mặt đất làm tăng mức độ rung
lắc, lại chỉ cách Port-au-Prince chưa đầy 16km. Cơ quan khảo sát địa chất Anh
quốc đánh giá trận động đất tại Haiti có tác động "hủy diệt" và có sức mạnh tàn
phá tương đương 10 độ Richter.
3.Động đất ở Chile mạnh gấp 1000 lần so với động đất ở Haiti
Mạnh hơn trận động đất ở Haiti 1.000 lần, trận động đất ngày 27/2 ở Chile đã gây
ra sự tàn phá rất lớn, khi những dư chấn mạnh lan khắp Nam Mỹ. Là một trong
những trận động đất dữ dội nhất trong lịch sử thế giới, sức tàn phá của nó rất kinh
khủng. Gần 1.000 người chết và mất tích, cảnh báo sóng thần được ban bố khắp
khu vực vành đai Thái Bình Dương. Các chuyên gia cũng cho biết sở dĩ con số
thương vong ở Chile thấp hơn Haiti, dù động đất mạnh hơn rất nhiều, đơn giản là
do nước này đã chuẩn bị đối phó với động đất tốt hơn.
Riêng trận động đất ở Chile đã khiến ngành bảo hiểm phải chi trả số tiền lớn nhất,
lên tới 8 tỷ USD, trong khi thiệt hại kinh tế cho Chile sau thảm họa này là khoảng
30 tỷ USD.
4.Thảm họa môi trường tại Hoa kì
Vụ tràn dầu ở Vịnh Mexico là thảm họa môi trường khủng khiếp nhất mà Mỹ từng
phải đối phó: ít nhất 43 triệu gallon dầu đã tràn ra đại dương kể từ khi giếng dầu
Deepwater Horizon bốc cháy và chìm xuống biển trong tháng 4, lớn hơn rất nhiều
con số 11 triệu gallons dầu do tàu Exxon Valdez gây ra vào năm 1989. Tổng thống
Obama đã phả chỉ đạo thực hiện một chiến dịch có quy mô chưa từng thấy trong

lịch sử nước Mỹ để đối phó với một thảm họa sinh thái, huy động tới hơn 19.000
chiếc tàu, với 20.000 người tham gia dọn dầu loang. Nhưng các nhà khoa học độc
lập và các viên chức Mỹ nói có một thảm họa chúng ta không thể thấy ở vịnh Gulf
of Mexico do vụ dầu tràn gây ra vì nó quá sâu. Hai “đám mây khổng lồ”, sâu vài
trăm mét và kéo dài nhiều dặm đã thành hình dưới đáy biển. Đó là dầu và chắc
chắn nhiều loài sinh vật sẽ bị ảnh hưởng.
5.Cháy khắp phần châu Âu của Nga, thiệt hại hàng trăm tỷ đồng
Hồi tháng 8, thảm họa cháy rừng ở miền trung nước Nga xảy ra trên diện rộng, từ
miền Trung lan sang miền Nam, đúng vào đợt nước này phải đối phó với đợt nắng
nóng nhất trong hơn 100 năm. Hàng chục người đã thiệt mạng, hàng nghìn người
không còn sản nghiệp, nhiều căn cứ quân sự và cơ sở hạt nhân bị đe dọa vì cháy
rừng. Hơn 160.000 người, với sự hỗ trợ của nhiều nước, đã được huy động để dập
lửa ở hàng trăm đám cháy trong nhiều ngày. Trung tâm bảo tồn đa dạng sinh học
Nga ước tính tổng diện tích rừng đã bị "giặc lửa" thiêu trụi từ đầu năm đến nay là
10-12 triệu hécta, gây thiệt hại cho nền kinh tế Nga ít nhất 300 tỷ USD. Đó là một
tổn thất vô cùng to lớn, chưa kể đến những yếu tố khác về môi trường như hủy
hoại một số lượng lớn các loài động, thực vật quý hiếm và hệ sinh thái rừng.
6.Lũ lụt khủng khiếp ở Pakistan
Trận lụt dữ dội nhất trong lịch sử Pakistan hồi tháng 8 đã tàn phá nước này trên
diện rộng, từ vùng Tây Bắc đến miền Nam, cướp đi sinh mạng của 1.600 người,
ảnh hưởng tới 20 triệu người, gây thiệt hại vật chất ít nhất 43 tỷ USD, châm ngòi
cho dịch bệnh-bạo lực bùng phát ở đất nước đang phải vật lộn để chống lại những
phần tử cực đoan và khủng bố. Tổng Thư ký LHQ Ban Ki-moon cho biết đợt lụt
này là thiên tai kinh khủng nhất mà ông từng chứng kiến, và ước tính phải mất
nhiều năm mới có thể khắc phục được hậu quả.
7.Lũ bùn đỏ gây ô nhiễm chưa từng thấy ở Hungari
Dòng Danube xanh có nguy cơ bị nhuộm đỏ, các sinh vật sẽ bị giết chết, nhiều
quốc gia châu Âu khác sẽ bị liên lụy… Các chuyên gia cảnh báo ảnh hưởng của vụ
bùn đỏ xảy ra hôm 4/10 ở Hungary làm 7 người chết, hơn 100 người bị thương và
khiến khoảng 1 triệu m3 bùn đỏ độc hại tràn ra ngoài, gây ô nhiễm nghiêm trọng

các mạch nước ngầm cũng như sự phát triển của hệ động thực vật trong vùng.
Lượng bùn đỏ ở môi trường xung quanh nhà máy đã vượt giới hạn cho phép,
khiến hàng trăm người sống quanh khu vực này phải sơ tán hoặc dùng thiết bị bảo
hộ, nhiều vùng đất không thể trồng trọt được. Đây là một thảm hoạ sinh thái mà
Hungary chưa từng kinh qua và được cho là thảm họa sinh thái lớn nhất trong lịch
sử chế biếnnhôm và Alumin mà thật trớ trêu lại xảy ra tại một quốc gia có truyền
thống và giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
8. Động đất ở Trung Quốc
Trận động đất 7,1 độ Ríchte tại huyện Ngọc Thụ (thuộc tỉnh Thanh Hải) trung tuần
tháng 4 đã để lại hậu quả quá lớn cho khu vực có tới hơn 100.000 dân này khi
cướp đi sinh mạng hơn 2.000 người và làm hàng chục nghìn người bị thương. 85%
số nhà cửa tại thị trấn Kết Cổ, gần tâm chấn, bị san phẳng và nhiều tòa nhà lớn bị
rạn nứt.
Trong khi đó, lở đất do mưa lớn, lũ lụt ở huyện Chu Khúc thuộc tỉnh Cam Túc vào
ngày 14/8 làm 1.239 người đã thiệt mạng và 588 người khác vẫn mất tích. Lở đất
làm cho ít nhất toàn bộ một ngôi làng bị vùi hoàn trong đống bùn đất, những dòng
sông sâu đầy bùn đặc và đá. Ít nhất 50.000 người bị ảnh hưởng hậu quả trận lở đất
do mưa lớn gây ra này.
9. Thảm họa kép ở Indonexia
Xảy ra trong những ngày cuối cùng của tháng 10. Động đất mạnh 7,7 độ richter và
sóng thần tại khu vực quần đảo Mentawai thuộc tỉnh Tây Sumatra đã làm gần
1.000 người thiệt mạng. Tại khu vực quần đảo Mentawai thuộc tỉnh Tây Sumatra,
nơi phải hứng chịu sóng thần cao 2-8 mét, số người chết được thống kê là 413 và
298 người mất tích, trên 310 người bị thương, trong đó khoảng 270 người bị
thương rất nặng và hàng nghìn người mất nhà cửa và tài sản.
Trong khi đó, núi lửa Merapi phun trào suốt hơn 20 ngày, bắt đầu từ những ngày
cuối tháng 10, ở tỉnh Tây Java đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 300 người, làm
hơn 400.000 người phải sơ tán, gây thảm hoạ lớn trong vùng và khu vực lân cận:
đất canh tác và rừng hoàn toàn bị phá hủy, các ngành kinh tế như du lịch, nông
nghiệp, đều bị tổn thất, hàng loạt chuyến bay trong khu vực bị hủy. Núi lửa phun

khói bụi với tốc độ 300 km/h và cao tới 1,5-3 km và dòng nham thạch nóng tới
trên 600 độ C. Một số nhà kinh tế học Indonesia nhận định tổng thiệt hại từ sự
"tỉnh giấc" của Merapi có thể lên tới 5 nghìn tỉ Rp và phải mất từ 3 đến 5 năm mới
có thể phục hồi cuộc sống cho người dân các vùng bị ảnh hưởng.
10.Núi lửa Iceland gây thiệt hại hàng tỉ USD cho hàng không thể giới
Chủ tịch tổ Hiệp hội Vận tải hàng không quốc tế (IATA) nói rằng tác động kinh tế
của vụ núi lửa Eyjafjallajokull ở Iceland phun trào hồi tháng 4 đối với ngành hàng
không lớn hơn thiệt hại của các vụ tấn công 11 tháng 9/2001, khi không phận của
Mỹ bị đóng trong 3 ngày. Liên tục trong những ngày trung tuần tháng 4, núi lửa
này tiếp tục hoạt động mạnh, tạo ra những đám tro bụi khổng lồ đã buộc phần lớn
các sân bay ở châu Âu phải đóng cửa khiến hàng nghìn chuyến bay bị hủy và hàng
triệu hành khách bị mắc kẹt.
Hoạt động của núi lửa còn gây ảnh hưởng tai hại cho những khu vực ở thật xa như
châu Phi, Trung Quốc và Nhật Bản, những nơi mà từ đó sản phẩm đã không thể
vận chuyển sang châu Âu vì các đám mây tro. IATA cảnh báo hoạt động của núi
lửa Iceland gây thiệt hại ít nhất 200 triệu ơrô/ngày cho các hãng hàng không trên
thế giới.
11. Thảm họa do dẫm đạp tại lễ hội nước ở Campuchia 22/11/2010 [3]
Thảm họa ở Campuchia được xác định nguyên nhân ban đầu là người đi hội hoảng
loạn do nhiều người cùng lúc đứng trên cầu treo khiến cầu đung đưa, khiến nhầm
tưởng cầu sắp sập. khi xảy ra tai nạn, trên cầu treo Kim Cương có khoảng 8.000
người chen lấn, tạo ra một lực khoảng 400 tấn ép lên mặt cầu. Những người đi hội
trên cầu chen lấn khiến cầu treo rung lắc. Giữa lúc này, có ai đó nói rất to rằng,
cầu sắp sập khiến đám đông hoảng loạn tìm đường thoát khỏi cầu càng nhanh càng
tốt. Hậu quả là những người yếu hơn như phụ nữ, trẻ em bị xô ngã, và bị hàng
ngàn bàn chân vô tình giẫm đạp lên người cho đến chết. Con số thương vong
chính thức trong thảm họa giẫm đạp là 351 người chết và 395 người bị thương,
12.Sóng thần và động đất tại Nhật bản 3/2011
Ngày 9/3/2011, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) cho hay, trận động đất xảy ra
vào lúc 11h45, có cường độ mạnh 7,2 richter, và tâm chấn nằm ở độ sâu 10km

cách thủ đô Tokyo hơn 300 km về phía đông bắc. Các chuyên gia khí tượng cho
hay, một đợt sóng thần cao 0,6m cũng đã tấn công thị trấn ven biển Ofunato, tỉnh
Iwate, ngay sau trận động đất.
Ngày 11 - 3, Cơ quan khảo sát Địa chất của Mỹ cho biết trận động chất có cường
độ 8.9 richter xảy ra ở độ sâu 10 km, cách thủ đô Tokyo 382 km về phía đông bắc.
Tiếp đó, rất nhiều khu vực gần bở biển Nhật Bản bị sóng thần ập tới, hầu như xe, ô
tô, thuyền bè và thậm chí nhà cửa đều bị cuốn trôi theo dòng nước theo thông tin
của kênh truyền hình NHK (Nhật Bản).
Nhà máy điện hạt nhân Tokyo, lò phản ứng hạt nhân phát nổ vào các ngày 12,
13/3
Ước tính khoảng 9.600 người Nhật vẫn còn mắc kẹt trong đống đổ nát, trên ngọn
đồi, mái nhà, các vị trí cao khác, chờ được giải cứu. Hơn một triệu hộ gia đình
không có điện, nước . Hãng thông tấn Kyodo (Nhật Bản) đưa tin, 63.255 tòa nhà
bị động đất, sóng thần phá hủy. Các quan chức Nhật Bản cho hay, 530.000 người
vô gia cư đang được cứu trợ trong các trung tâm sơ tán tạm thời.
Chưa có thống kê thương vong, thiệt hại về người và tài sản, ô nhiễm môi trường
mức phát xạ. Cơ quan cảnh sát quốc gia Nhật Bản cho biết, tính tới 12 giờ trưa
ngày 16-3, trận động đất và song thần kinh hoàng trong lịch sử Nhật Bản đã cướp
đi sinh mạng của 3.771 người, 7.843 người khác vẫn mất tích.
3. Chu trình quản lý thảm họa
3.1. Quản lý thảm họa – tiếp cận phát triển
Những hoạt động phù hợp ở mọi giai đoạn của chu trình dẫn tới chuẩn bị sẵn sàng,
dự báo tốt hơn, giảm thương hại, hoặc dự phòng thảm họa trong suốt giai đoạn lặp
lại tiếp theo của chu trình.
Mục tiêu là tiếp cận xu hướng phát triển là để giảm nguy hại, dự phòng thảm họa
và sẵn sàng ứng cứu khẩn cấp. Những hoạt động không phù hợp của con người và
quá trình phát triển có thể làm tăng tổn hại do thảm họa và mất khả năng sẵn sàng
ứng cứu tình trạng khẩn cấp
Chu trình quản lý thảm họa có thể tiếp cận bắt đầu ở bất kỳ điểm nào. Nhiều chính
phủ và tổ chức chú ý trọng tâm những bước tiến gần thảm họa. Hình 1 cho thấy

ảnh hưởng của thảm họa thường tiếp theo sau một tình trạng khẩn cấp kêu gọi một
loạt đáp ứng nhanh, tức thì. Đáp ứng này bào gồm bắt đầu đánh giá nhanh, tìm
kiếm, giải cứu, khẩn trương giảm và tiến tới ổn định tình thế, diến tiến tiếp theo
nhanh bởi sự phá hủy chi tiết, đánh giá nhu cầu và khả năng tiến tới can thiệp ngắn
hạn để đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe và khả năng kiếm sống ở can thiệp
trung hạn. Giai đoạn phục hồi sau khẩn cấp, các hoạt động cuộc sống được phục
hồi, sửa chữa cơ sở hạ tầng, nhà cửa qua việc tái lập lại và xây dựng lại. Lý tưởng
là có sự chuyển dịch mềm mại từ phục hồi theo tiếp tục phát triển. Kết quả cần đạt
là tăng khả năng chống đỡ và phục hồi của người dân đối với thảm họa trong
tương lai. Tăng khả năng ở mỗi cá nhân, cộng đồng và tổ chức là trọng tâm của
dự phòng và giảm nhẹ. Sẵn sàng từng phần trong dịch vụ ứng cứu khẩn cấp, xã hội
cũng như toàn thể bao gồm hệ thống cảnh báo tốt hơn, hoàn thiện chu trình
3.2. Duy trì khả năng cuộc sống và quản lý thảm họa
Một trong những mục đích chủ yếu của quản lý thảm họa và là một trong những
kết nối quan trọng nhất với phát triển là nâng cao khả năng duy trì cuộc sống, bảo
vệ và phục hồi chúng trong thảm họa và tình trạng khẩn cấp. Mục đích đạt được là
người dân có khả năng ứng phó thảm họa và phục hồi nhanh, bền vững
3.3. Giới hạn sự phức tạp khẩn cấp
Di chuyển lớn người dân thường đưa ra trong những tính huống khẩn cấp. Chu
trình quản lý thảm họa có thể áp dụng với những trường hợp nhưng ở mức độ hạn
chế. Mặc dù có dự báo những nơi di dân tị nạn nhưng thường là quá ít lực lượng
cung ứng đối đầu với một số lượng lớn người dân với nhu cầu khẩn cấp và nguồn
lực ứng cứu không đủ để đáp ứng nhanh và phù hợp để dự phòng và giảm đi
những thảm họa thứ phát như dịch bệnh, đói nghèo, gia đình ly tán
Hình 2: Đề cập phát triển tới tất cả các thành tố của chu trình quản lý thảm họa [1]
4. Các bước quản lý thảm họa
4.1. Đánh giá phạm vi,đối tượng bị thương hại
Đánh giá tổn hại là có thể làm để dự đoán trước, nhóm đặc biệt sẽ đối mặt với các
tình huống của một thảm họa và trong suốt giai đoạn phục hồi
- Xác định nhóm đối tượng dễ nhạy cảm, dễ bị tổn thương với nguy hiểm

tiềm ẩn
- Đặc điểm cá nhân tổ chức có thể bị ảnh hưởng ngay lập tức và dài kì bởi
các ảnh hưởng nguy hại
4.2. Dự phòng và làm giảm nhẹ tổn thương
Dự phòng toàn diện đối với thảm họa chỉ có thể thực hiện được nếu có thể loại trừ
nhóm người nhạy cảm với nguy hiểm bằng cách di chuyển toàn bộ dân khỏi vùng
Dự báo
ứng phó
Dự phong và
giảm nhẹ
Phục hồi
t/tục
giảm nhẹ
Đáp ứng
khẩn cấp
Thảm họa
nguy hiểm, cung cấp bảo vệ toàn diện khỏi thảm họa hoặc dự phòng các nguy hại
vật lý đồng thời. Điều này đôi khi đạt được, ví dụ virut gây thủy đậu đã bị thanh
toán, những thành phố đã được bảo vệ khỏi lụt nhờ việc nắn dòng chảy sông sang
sông thay thế. Tuy nhiên để sống và cải thiện chất lượng sống tốt, con người
chuẩn bị nhận lấy nguy cơ và sẽ tái lập các vùng trước đây đã bị ảnh hưởng bởi
thảm họa tự nhiên
Vì thế thực hành tốt nhất có thể làm được thường xuyên là giảm những ảnh hưởng
tiềm ẩn của thảm họa và khẩn cấp. Các hoạt động làm nhẹ đi đạt tới tới giảm
(không triệt tiêu) các ảnh hưởng của sự kiện thảm họa trong tương lai và đích đạt
tới sau đó là giảm nhóm người nhạy cảm cao
4.3. Sẵn sàng ứng cứu khẩn cấp
Chuẩn bị sẵn sàng ứng phó khẩn cấp là một chương trình phát triển các hoạt động
dài kì, mục đích là làm mạnh khả năng nói chung và năng lực của một đất nước để
quản lý hiệu quả tất cả các vấn đề khẩn cấp và mang lại sự chuyển dịch từ giảm

nhẹ tổn hại đến phục hồi và quay lại tiếp tục phát triển
Mục đích của chương trình chuẩn bị sẵn sàng ứng cứu là đạt tới mức hài lòng của
sự sẵn sàng đáp ứng bất kì tình huống khẩn cấp nào qua chương trình nâng cao
năng lực kĩ thuật và quản lý của chính phủ, cơ quan, tổ chức và cộng đồng.
Chương trình đề cập tới;
- Pháp luật Nhà nước, chính sách quốc gia cho quản lý thảm họa
- Kế hoạch và qui trình quản lý thảm họa, phối hợp đáp ứng khẩn cấp ở các
mức quốc tế, quốc gia và vùng
- Làm mạnh các tổ chức và Tăng cường nhân lực cho quản lý thảm họa
- Thiết lập và quản lý dự trữ cung cấp giảm nhẹ và trang bị và xác định các
lựa chọn vận chuyển
- Giáo dục cộng đồng, dự báo cho cộng đồng, sự tham gia của cộng đồng vào
quản lý thảm họa
- Tập hợp, phân tích, phổ biến thông tin liên quan tới khẩn cấp và thảm họa
cần phải được thực hiện trong khu vực
4.4. Xây dựng kế hoạch, chính sách và năng lực
Xây dựng kế hoặc được yêu cầu ở mọi cấp độ, từ cộng đồng, tới quốc gia và quốc
tế, để đảm bảo các chương trình đành cho dự phòng và giảm nhẹ thảm họa được
triển theo mục tiêu rõ ràng, với nguồn lực đủ, sắp xếp quản lý; đảm bảo đối với
chiến lược, nguồn lực, hệ thống quản lý, vai trò và nguồn lực đối với đáp ứng
khẩn cấp được xác định và hiểu bởi các nhà hoạt động chính. Kế hoạch đáp ứng
hiệu quả có thể chỉ được triển khai khi vai trò và trách nhiệm đã được đồng ý
thống nhất.
Dự phòng thảm họa khẩn cấp, giảm nhẹ, chuẩn bị sẵn sàng và đáp ứng phụ thuộc
vào sự kết hợp của các biện pháp thích hợp trong kế hoạch phát triển quốc gia và
trong kế hoạch chương trình thuộc các bộ khác. Nó cũng phụ thuộc vào thông tin
có được về thảm họa, nguy cơ khẩn cấp và biện pháp đối phó được triển khai, và
phụ thuộc vào mức độ của cơ quan chính quyển, tổ chức phi chính phủ, và cộng
đồng chung có khả năng để yêu cầu sử dụng thông tin
Chu trình quản lý thảm họa hòan chỉnh bao gồm các thể loại chính sách công cộng

và kế hoạch mà cả hai có thể điều chỉnh theo nguyên nhân của thảm họa và giảm
nhẹ ảnh hưởng của nó tới dân chúng, tài sản, của cải và cơ sở hạ tầng. Năng lực
của các tổ chức cũng cần được nâng lên thông qua việc đổi mới về tổ chức và đào
tạo. Kinh nghiệm cho thấy có thể có một khả năng phục hồi nhanh hơn, ít quần thể
bị thương hại hơn, ít sự gián đoạn các các dịch vụ thiết yếu như cung cấp điện,
nước, cải thiện sớm khả năng dự báo sớm, và kế hoạch định hướng tốt hơn cho
việc di tản dân và đáp ứng khẩn cấp.
Các nhà quản lý sức khỏe, cũng tiếp cận dựa trên cộng đồng chuyên môn và người
tình nguyện giải quyết vấn đề sức khỏe môi trường, có thể góp phần để những nỗ
lực này kéo dài.
4.5. Đáp ứng khẩn cấp
Đáp ứng thích hợp sẽ phụ thuộc vào bản chất của thảm họa và tình huống khẩn
cấp và các biện pháp giảm nhẹ hiệu quả nhưng cũng có rất nhiều điều kiện đạt
được ở các mức độ chuẩn bị sẵn sàng
Trong một khủng hoảng, các cơ quan sức khỏe môi trường thường kêu gọi giải
quyết các vấn đề tức thì. Để có thể đáp ứng hiệu quả, các cơ quan này phải có kinh
nghiệm lãnh đạo, đào tạo thành viên, vận chuyển chính xác và cung cấp hậu cần,
thảo luận thích hợp, và các nguyên tắc, hướng dẫn cho công việc trong điều kiện
khẩn cấp. Nếu các công việc chuẩn bị cần thiết không được thực hiện, các cơ quan
liên quan không thể đáp ứng các yêu cầu khẩn cấp sức khỏe môi trường của cộng
đồng. Hoàn toàn không thực tế để mong đợi một đáp ứng hiệu quả được triển khai
tức thì mà không có kế hoạch hoặc sự chuẩn bị sẵn sàng. Đó chính là khả năng
nhìn xa, dự báo, tập dượt thử trước
Mục đích của đáp ứng khẩn cấp là để cung cấp hỗ trợ ngay để duy trì sống, cải
thiện sức khỏe và hỗ trợ tinh thần cho cộng động bị tác động. Sự hỗ trợ có thể xếp
thứ tự từ cung cấp đặc biệt nhưng viện trợ hạn chế như trại tị nạn, phương tiện vận
chuyển, chỗ ở tạm thời, thức ăn. Nó cũng tham gia vào sửa chữa ban đầu đối với
cơ sở hạ tầng bị phá hủy , hệ thống vệ sinh bị ngập lụt và kiểm soát các chất nguy
hại hóa học. Nhiều tài liệu kĩ thuật dành việc ứng phó khẩn cấp và thảm họa triển
khai ở giai đoạn giảm nhẹ. Nhấn mạnh trong giai đoạn giảm nhẹ là sự chuyển đi

ngay khỏi vùng môi trường nguy hại đối với sức khỏe và những nhu cầu cần thiết
của con người cho đến khi các giải pháp ổn định và lâu dài.
4.6. Phục hồi, xây dựng lại và phát triển lại
Khi sự khẩn cấp ở mức kiểm soát được, dân cư bị ảnh hưởng có khả năng tiếp tục
một số hoạt động phát triển nhằm đạt tới khôi phục lại cuộc sống, hạ tầng cơ sở
phục vụ cho đời sống. Quá trình này có thể chậm và một trọng những khả năng
thúc đẩy sự cố gắng cần có sự đào tạo một cách cẩn thận, xây dựng lại vượt qua
từng giai đoạn thời gian nhưng quá trình này cần bắt đầu sớm ngay trong giai đoạn
khẩn cấp.
Không có điểm khác biệt ở thay đổi giảm nhẹ thiệt hại tức thời trong giai đoạn
phục hồi và phát triển bền vững trong giai đoạn dài. Diễn tiến ở một vài vùng sẽ
có thể nhanh hơn so với một vài nơi khác. Phục hồi về vật chất và xây dựng lại đôi
khi có thể diễn ra nhanh hơn so với phục hồi về xã hội hoặc tâm lý. Tuy nhiên, cần
thiết đạt được sự phục hồi ở cả hai lĩnh vực. Vì thế ở giai đoạn này có một quá
trình chắc chắn với sự tham gia tất cả các thành tố chính trong lĩnh vực sức khỏe
môi trường. Đặc biệt các quá trình bao gồm khôi phục lại cuộc sống cộng đồng, sự
tham gia của cộng đồng dân cư vào các hoạt động phục hồi và phát triển, dự trữ
thích đáng cơ sở hạ tầng của sức khỏe môi trường (nơi cư trú, cung cấp nước, vệ
sinh…) sẽ có thể có nhiều cơ hội trong suốt giai đoạn phục hồi cho việc tiến hành
dự phòng và tăng cường công việc chuẩn bị, nhằm giảm sự tổn hại. Các hoạt động
sức khỏe môi trường đóng một vai trò quan trọng trong sự phục hồi. Nó góp phần
vào việc giảm dài kì số người bị tổn thương bởi nguy hại băng cách tăng năng lực
của họ để hạn chế lại và phục hồi đối với thảm họa trong tương lai. Ví dụ gồm có
xây dựng lại nhà với việc cải thiện các đường thoát nước, xây dựng mái thu gom
nước mưa, xây dựng lại chợ với các hệ thống làm thuận lợi hơn cho con người, vệ
sinh thực phẩm, tu sửa, nạo vét các giếng nước ở nông thôn và xây bờ giếng cao.
Sẽ có nhiều cơ hội cho việc cải thiện lâu dài sức khỏe môi trường trong suốt giai
đoạn phục hồi, phụ thuộc vào tình trạng tại địa phương
Câu hỏi lượng giá cuối bài
1. Nêu ảnh hưởng của thảm họa đối với cộng đồng và môi trường tự nhiên

2. Trình bày các bước trong quản lý và ứng phó thảm họa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wisner B. and Adams J. (2003). The Natural of emergencis and diasters.
Environmental health in emergencies and diasters: a practical guide. WHO,
2003. P: 10-27
2. Annalee Yassi, Tord Kjellstrom, Theo de Kok, Tee L.Guidotti, (2001),
“Không khí”, Sức khỏe môi trường, NXB OXFORD, New Jork tr: 194-216.
3. AP. Reuters

×