Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Luận văn triết học quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.71 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
Mở đầu 2
Chương I: Lý luận chung về nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa 5
1.1 Nguồn gốc, bản chất, chức năng và các kiểu nhà nước trong lịch sử 5
1.1.1 Nguồn gốc của nhà nước 5
1.1.2 Bản chất của nhà nước 8
1.1.3 Chức năng của nhà nước 9
1.1.4 Các kiểu nhà nước trong lịch sử 12
1.2 Nhà nước xã hội chủ nghĩa – một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử phát triển
của nhân loại 15
1.2.1 Tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa 15
1.2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa 17
1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa 19
Chương II: Thực trạng và giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay 27
2.1 Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay 27
2.1.1 Thành tựu 27
2.1.2 Hạn chế 32
2.2 Một số giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam trong thời gian sắp tới 33
2.2.1 Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp, giám sát tối cao của Quốc hội
đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước 33
2.2.2 Cải cách nền hành chính nhà nước 37
2.2.3 Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước 42
2.2.4 Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật 48
2.2.5 Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với các tổ chức trong bộ máy nhà nước 54
Kết luận 60
Tài liệu tham khảo 63


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng Nhà nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xuất phát từ truyền thống dân tộc và đặc điểm Việt Nam, vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác – Lênin về nhà nước cách mạng. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
của nhân loại về nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền
của một số nước trên thế giới, từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc
và nhân văn, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là sự tiếp tục phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ buổi đầu
được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã mang những
yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt
chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thể chế hóa nghị quyết Đại hội Đảng nhấn mạnh “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, một đạo luật
cơ bản chính thức ghi nhận Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước thực hiện việc quản lí xã hội bằng pháp
luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi
mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của
Đảng như một xu thế khách quan mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở
rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây cũng là quá

trình tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự đồng thuận theo tư tưởng phát triển của
2
thời kỳ mới đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đối với sự thành công của công cuộc đổi
mới đất nước nên tôi chọn đề tài “ Quan điểm Chủ nghĩa Mác –Lênin về nhà nước và xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở
Việt Nam hiện nay”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà lý luận ở
nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.
- Nguyễn Thị Doan, “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo”, Tạp chí
Cộng sản, số 803 ( 9/2009 ).
- Lê Xuân Hựu, “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, Tạp
chí Cộng sản, số 61 (2004)
- Nguyễn Duy Quý, “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 11 (11/2007) .
- Trần Thành, “Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 (2003).
- Nguyễn Đăng Thông, “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1/2006).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích nghiên cứu vấn đề nhà nước và đi sâu phân tích
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân ở nước ta trong thời gian qua nhằm đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện
bộ máy pháp quyền của nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: Đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền
của nước ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
Đối tượng: Vấn đề Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân ở Việt Nam thời gian qua và sắp tới.
Về phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước
ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Cụ thể sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử và lôgic
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, tìm hiểu,
nghiên cứu về vấn đề nhà nước.
Khóa luận đã đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền
của nước ta theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận gồm
2 chương và 4 tiết.
4
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng và các kiểu nhà nước trong lịch sử
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
Vấn đề Nhà nước luôn luôn là tâm điểm của những cuộc đấu tranh về mặt lý luận
lẫn thực tiễn diễn ra trong suốt quá trình tồn tại và phát triển từ khi xã hội loài người xuất
hiện giai cấp.
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về Nhà nước. Thomas

Aquin (1225-1275), nhà triết học và thần học thời kì trung cổ ở châu Âu, cho rằng nhà
nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, phản ánh quyền lực mang tính
siêu nhiên. Nhà nước mang “thần tính”; do vậy phục tùng nhà nước chính là phục tùng
quyền lực của thượng đế. Thuyết “gia trưởng” quan niệm nhà nước như là sự phát triển
của các quan hệ gia đình. Quyền lực nhà nước được ví như quyền lực của người cha đối
với con cái. Vì vậy, quyền lực của nhà nước là tối thượng, tuyệt đối, vượt trên mọi lợi ích
của phe nhóm, cục bộ. Nhà nước không bao hàm bản chất giai cấp.
Trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến bảo thủ, hà khắc, các nhà tư
tưởng của chủ nghĩa tư bản đã đưa ra các học thuyết về nguồn gốc và bản chất của nhà
nước để phản ánh tư tưởng về tự do bình đẳng bác ái. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà
lý luận tư sản vẫn chưa đưa ra được lời giải thích căn bản về cơ sở kinh tế, xã hội của nhà
nước và do vậy, chưa làm rõ được một cách khoa học về nguồn gốc hình thành và bản
chất của nhà nước.
Vào những năm 40 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời đã xây dựng một
học thuyết mới về nhà nước. Tiền đề của học thuyết này là xem nhà nước như một hiện
tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Trong nhiều tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác phẩm Nguồn gốc gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nhà nước và cách mạng, Chủ nghĩa Mác và vấn
đề nhà nước…, các nhà kinh điển đã chứng minh rằng không phải khi nào xã hội cũng có
nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nhà nuớc. Phù hợp với tình trạng
kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp, tổ chức đầu tiên của xã hội trong xã
hội cộng sản nguyên thuỷ là thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc
5
trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu những cơ quan quản lý xã hội
dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Quyền hành và chức năng của cơ quan lãnh đạo
trong thời kì đó chưa mang tính chính trị.
Trong thị tộc, bộ lạc khi đó chưa hình thành một tổ chức quyền lực chính trị nào để
cai quản công việc chung. Ph.Ăngghen viết: “khi ở trong bộ lạc, mọi thành viên nam giới
đến tưổi thành niên đều là chiến binh thì vẫn chưa có một quyền lực công cộng tách khỏi
nhân dân và có thể đứng đối lập với nhân dân” [1; tr.159]. “Do nhu cầu tồn tại của thị tộc,

bộ lạc, nhân dân phải bầu ra thủ lĩnh quân sự. Ngoài những chức năng quân sự của mình
ra, người thủ lĩnh quân sự còn phải có chức năng tế lễ và tư pháp nữa; những chức năng
tư pháp và tế lễ không được quy định một cách chính xác, còn chức năng quân sự thì
người thủ lĩnh quân sự thực hành với tư cách là đại biểu tối cao của bộ lạc, hay của liên
minh bộ lạc” [10; tr.162].
Các thủ lĩnh quân sự không phải là người cai trị. Họ không có quyền, đặc lợi cá
nhân, không bắt nhân dân phục vụ lợi ích riêng. Họ hoàn toàn thực hiện vai trò của mình
theo ý chí và quyết định của nhân dân. Như vậy, thể chế xã hội trong thời kì cộng sản
nguyên thuỷ là chế độ tự quản của nhân dân. Tuy chưa có nhà nước nhưng xã hội rất có
trật tự vì nó được vận hành bằng tinh thần tự giác của cả cộng đồng. Nhận xét về xã hội
đó, Ph.Ăngghen viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc quả là một
tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc vua
chúa, tổng đốc trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những nhiệm vụ xử
án, thế mà mọi việc đều trôi chảy.” [1; tr.146].
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia
xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã. Ph.Ăngghen cho rằng sự tan rã
của chế độ cộng sản nguyên thuỷ dẫn tới nhà nước ra đời là bởi các lý do sau:
Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động
vào cuối thời kì nguyên thuỷ mà đặc trưng là việc thay thế công cụ bằng đá sang công cụ
bằng kim loại, đã mở ra khả năng tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ
hoặc đơn vị gia đình, sở hữu chung trở thành vật cản đối với sự phát triển của sản xuất.
Hơn nữa, với công cụ sản xuất đó người ta có thể làm ra lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều
hơn so với nhu cầu tối thiểu cho sự tồn tại của mình. Điều này làm cho sự bình đẳng trong
6
xã hội bị chấm dứt và hình thành những nhóm người có quyền lợi ban đầu là khác nhau,
sau đó là xung đột nhau. Xã hội bắt đầu phân hoá thành kẻ giàu người nghèo, đó là cơ sở
khách quan làm cho những người có chức, có quyền trong công xã nảy sinh khát vọng
chiếm đoạt sản phẩm lao động của người khác.
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến các hệ quả là: chế độ sở
hữu công cộng bị thay thế bởi chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất; xã hội loài

người lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện chế độ người bóc lột người.
Thứ hai, do sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng đã làm nảy sinh ở những kẻ
có quyền lực lòng tham muốn chiếm đoạt để làm của riêng. Họ sử dụng mọi quyền lực có
trong tay để thực hiện tham vọng đó. Đây là nguyên nhân thúc đẩy phân hoá xã hội. Giai
cấp xuất hiện và sự đối kháng, mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột
ngày càng trở nên gay gắt và sâu sắc.
Thứ ba, do nạn chiến tranh, cướp bóc giữa các bộ lạc, thị tộc làm cho quyền lực
của các thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cùng với sự ra đời của chế độ phụ
quyền, người trong một gia đình có quyền thừa kế chức thủ lĩnh quân sự, điều đó làm cho
của cải, địa vị xã hội của họ gia tăng và càng ngày càng được củng cố, mở rộng. Họ bóc
lột nhân dân ngày càng thậm tệ, họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân.
Thứ tư, đó chính là cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ
của nó trong nhân dân, các tổ chức đó thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân
dân.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người lần đầu tiên xuất hiện hai giai cấp đối
kháng đó là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Điều này dẫn đến nguy cơ chẳng những các
giai cấp này tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để bảo vệ quyền lợi của
mình thì các thế lực nắm quyền về kinh tế lập ra một bộ máy bạo lực để trấn áp các thế
lực chống đối khác, hướng xã hội phát triển theo quan niệm và lợi ích của giai cấp thống
trị đó chính là nhà nước. Đây là một cơ quan quyền lực với một thiết chế có tiền thân từ
những tổ chức phi chính trị xuất hiện ngay trong xã hội thị tộc, bộ lạc. Trong xã hội thị
tộc, bộ lạc đã xuất hiện những thiết chế có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng;
giờ đây, xuất hiện giai cấp, các thiết chế đó trở thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai
cấp. Từ chỗ là tôi tớ của xã hội nó trở thành chủ nhân, trở thành kẻ thống trị toàn xã hội.
7
Như vậy, sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu
sắc, không thể điều hoà được. Theo Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng
nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà
nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn

giai cấp không thể điều hoà được ” [10; tr.9]. “Giai cấp bóc lột không thể duy trì được sự
bóc lột nếu không dựa vào bộ máy bạo lực, bộ phận của nó chủ yếu là những đội vũ trang
đặc biệt để trấn áp giai cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt,
những tổ chức này không còn phù hợp nên nó được thay thế bằng thiết chế nhà nước” [10;
tr.9].
Nhà nước xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan của lịch sử không phải do
ý muốn chủ quan của riêng ai hay của một giai cấp nào. Sự ra đời của nhà nước là để
chống lại sự đối kháng giai cấp, để làm dịu sự đối kháng giai cấp, làm cho sự xung đột
giai cấp diễn ra trong vòng trật tự; trât tự ấy là điều cần thiết để duy trì chế độ kinh tế,
trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước “đó là sự kiến lập một trật tự, trật tự
này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”[10;
tr.10]. Đương nhiên, cơ sở của tính tất yếu nói trên, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy
nhà nước phải là giai cấp có thế lực nhất – giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói cách
khác, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự
hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
1.1.2 Bản chất của nhà nước
Nhà nước là cơ quan thống trị của giai cấp, là tổ chức chính trị của giai cấp thống
trị về kinh tế. Lênin viết: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một
cơ quan áp bức của giai cấp này với một giai cấp khác, đó là một sự kiến lập ra một “trật
tự” trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai
cấp”[11. tr10].
Như vậy, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là giai cấp có quyền
lực nhất, đó là giai cấp thống trị về kinh tế. Nói cách khác, nhà nước được giai cấp thống
trị về kinh tế lập ra nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp
8
khác. Và thông qua nhà nước giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính
trị, do đó có thêm phương tiện mới để đàn áp, bóc lột giai cấp bị trị.
Tóm lại, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp không có và
không thể có nhà nước đứng trên giai cấp, hoặc nhà nước chung của nhiều giai cấp. Tuy
nhiên, cũng có trường hợp nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó với cả hai giai

cấp đối diện, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định; hoặc nhà nước
cũng có thể là sản phẩm của sự thoả hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để
chống lại một giai cấp khác. Những trường hợp trên là có tính ngoại lệ và tạm thời. Sự
phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế
cân bằng giữa các giai cấp thù địch nhau. Khi đó quyền lực nhà nước sẽ tập trung vào tay
một giai cấp.
Thực tế lịch sử mang lại nhiều bằng chứng nói lên rằng, dù được che dấu dưới hình
thức tinh vi như thế nào, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là
công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, cũng chỉ là bộ máy trấn áp của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác.
Nhà nước là quyền lực chính trị của một giai cấp. Nhưng giai cấp nắm chính quyền
nhà nước lại nhân danh xã hội để điều hành và quản lý xã hội. Do đó, nhà nước trong thực
tế tồn tại như một công quyền, như một quyền lực công cộng. Vì vậy, nhà nước không
những có tính giai cấp, mà còn mang tính xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt
nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã
hội bắt nguồn từ nhiệm vụ phải giải quyết những công việc chung của xã hội. Tuy nhiên ở
đây cần phân biệt những chức năng xã hội không có tính chất chính trị theo kiểu các cơ
quan thị tộc, bộ lạc đảm nhiệm với chức năng xã hội do nhà nước thực hiện. Nhà nước
thực hiện chức năng xã hội trong mối liên hệ mật thiết với chức năng giai cấp. Hơn nữa,
chức năng xã hội còn là cơ sở cho sự thống trị giai cấp. Khi nhà nước nằm trong tay “giai
cấp đại biểu cho toàn thể xã hội trong thời đại của mình”, nghĩa là trong tay giai cấp đang
đóng vai trò tiến bộ và cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội biểu hiện càng
rõ rệt.
1.1.3 Chức năng của nhà nước
9
Khi tiếp cận với nhà nước từ góc độ khác nhau, người ta có thể phân chia các chức
năng của nhà nước thành những loại khác nhau. Tất cả chức năng khác nhau đó đều là
những cái vốn có của nhà nước. Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực
chính trị, nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực hiện
chức năng xã hội mà giai cấp thống trị cần phải làm. Khi xem xét phạm vi tác động của

quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
Nói về mối quan hệ biện chứng giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội,
Ph.Ăngghen viết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự
thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài từng nào đó nó còn thực hiện chức năng xã hội của
nó”[2; tr.253].
1.1.3.1 Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng bất kì nhà nước nào cũng là
công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp
có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó.
Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ bất kì nhà nước nào cũng phải thực
hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của cả xã hội, phải thực hiện một số
công việc chung của toàn xã hội, trong một giới hạn nào đó nó phải thoả mãn một số nhu
cầu của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước đều
xuất phát từ nguồn gốc ra đời của nhà nước. Hai chức năng này có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng để giữ vững công cụ thống trị trong tay thì
giai cấp thống trị nào cũng phải nhân danh xã hội mà quản lý công việc chung. Việc giải
quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong
vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, việc thực
hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là phương thức
là điều kiện để nhà nước đó thực hiện được vai trò giai cấp thống trị của mình. Điều đó
được Ph. Ăngghen giải thích: “nhà nước là đại biểu chính thức của toàn xã hội chỉ trong
chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp đại diện cho toàn xã hội trong thời kì
tương ứng”.
10
Như vậy, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối phương hướng và mức độ
thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội
dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm; và khi đó chế độ tự quản của
nhân dân được xác lập.
1.1.3.2 Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại

Chức năng đối nội là những mặt hoạt động thể hiện quyền lực của nhà nước bên
trong lãnh thổ quốc gia nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác
hiện có trong xã hội theo lợi ích giai cấp cầm quyền dù lợi ích đó đã được luật hoá hay
chưa. Với chức năng này, nhà nước tiến hành các công việc như:
- Giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, trấn áp các thế lực chống đối.
- Quản lý về kinh tế, giáo dục, văn hoá…
- Thông tin, tuyên truyền hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động thể hiện quan hệ của một nhà nước
đối với các nhà nước khác trên trường quốc tế. Tuỳ thuộc vào bản chất của nhà nước, vào
tương quan lực lượng cũng như vị trí của quốc gia trên trường quốc tế, mà nội dung chức
năng này có thể là việc tổ chức phòng thủ đất nước, chống ngoại xâm, cũng có thể là việc
mở rộng lãnh thổ bằng cách phát động chiến tranh xâm lược, tìm kiếm thị trường, thuộc
địa. Ngày nay trong xu thế hoà bình, hợp tác, chức năng đối ngoại thể hiện ở việc tổ chức,
thực hiện các quan hệ hợp tác song phương hoặc đa phương về nhiều mặt (kinh tế, chính
trị, văn hóa ); sự gia nhập vào tổ chức quốc tế và khu vực. Hội nhập và toàn cầu hoá trở
thành những nhân tố chi phối đường lối đối nội lẫn đối ngoại của các nhà nước.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại về cơ bản luôn thể hiện tính giai cấp.
Nghĩa là hoạt động diễn ra trong hai lĩnh vực trên đều là hoạt động có tính định hướng,
phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là mọi hoạt
động của nhà nước đều chỉ đơn thuần phản ánh lợi ích giai cấp, khi nghiên cứu lịch sử
chúng ta có thể thấy, trong bất kì nhà nước nào, ngoài những chức năng mang tính giai
cấp ra, còn phải thực hiện những hoạt động mang tính xã hội khác: Chẳng hạn, duy trì trật
tự cộng đồng, phát triển giao thông, xây dựng nhà ở, mở mang các hệ thống thuỷ lợi, khai
hoang, phát triển giáo dục…Đây là những đòi hỏi khách quan của xã hội đối với nhà
nước, mà muốn đứng vững nhà nước nào cũng phải thực hiện.
11
Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thể thống nhất.
Chức năng đối nội là chủ yếu, bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại do cơ cấu giai cấp bên
trong của mỗi quốc gia quy định; sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trên địa bàn
mỗi quốc gia dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị trước hết và chủ yếu là duy trì địa vị

cai trị nhân dân trong nước. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của
chức năng đối ngoại, ngược lại, tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có
tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội của nhà nước.
Mối liên hệ nêu trên càng mật thiết hơn trong thời đại ngày nay, khi quá trình quốc
tế hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng tăng lên, việc mở rộng chức năng đối ngoại của
nhà nước ngày càng có vị trí quan trọng. Sức mạnh của một quốc gia, những điều kiện và
tiền đề để giải quyết những vấn đề nội tại của đất nước một phần đáng kể được hình thành
trong quan hệ với các quốc gia khác.
1.1.4 Các kiểu nhà nước trong lịch sử
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của
một nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại phát triển của nhà
nước, gắn liền với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Cơ sở để xác định các kiểu nhà nước là các yếu tố kinh tế - xã hội tồn tại trong một
giai đoạn nhất định. Tính quy luật của sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử là dựa
trên nguyên lý phát triển biện chứng của hình thái kinh tế - xã hội, còn phương thức thực
hiện sự thay đổi đó là cách mạng xã hội.
Kiểu tổ chức quyền lực nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nó; bởi
tính chất và trình độ phát triển của sản xuất, của kinh tế…Theo quan điểm biện chứng,
lịch sử xă hội loŕi người trải qua các kiểu nhà nước sau:
- Kiểu nhà nước chủ nô
- Kiểu nhà nước phong kiến
- Kiểu nhà nước tư sản
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.1.4.1 Kiểu nhà nước chủ nô
12
Đây là kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử, nhà nước chủ nô hình thành trên cơ sở
phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ mà đặc trưng là sự thống trị toàn diện, tuyệt đối
của thiểu số chủ nô với đa số nô lệ.
Xét trên bình diện lịch sử, sự ra đời của nhà nước chủ nô phản ánh một bước phát
triển của xã hội loài người về các mặt kinh tế, xã hội. Đó là việc phát triển công cụ sản

xuất từ đồ đá sang kim loại; việc đa dạng hoá sản xuất và phân công lao động; khả năng
tạo ra sản phẩm thặng dư trong sản xuất…Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đã làm xuất
hiện chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và từ đó cũng làm xuất hiện giai cấp và
đối kháng giai cấp – tiền đề của sự ra đời và tồn tại của nhà nước trong lịch sử.
Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau do hoàn cảnh lịch sử và địa lý chi phối,
song về bản chất, các nhà nước chủ nô đều là công cụ của giai cấp chủ nô dùng để áp bức,
bóc lột người nô lệ. Pháp luật do nhà nước chủ nô ban hành đã hợp pháp hoá quyền lực
tuyệt đối của chủ nô đối với nô lệ và không coi nô lệ là con người. Trong nhà nước cộng
hoà dân chủ chủ nô, pháp luật quy định mọi người đều tham gia bầu cử, nhưng đó chỉ là
quyền của chủ nô và một phần những người tự do. Trong nhà nước quân chủ chủ nô, mọi
quyền hành nằm trong tay vua - người đại diện cho quyền lực của giai cấp chủ nô. Tóm
lại, nô lệ là tài sản của chủ nô; việc chủ nô sở hữu ít hay nhiều nô lệ là tiêu chuẩn đánh giá
sự giàu có và quyền lực của chủ nô. Mua bán nô lệ được thừa nhận và khuyến khích.
Theo Lênin: “Nhà nước chủ nô bao giờ cũng là một bộ máy đem lại cho chủ nô quyền lực
và khả năng cai trị tất cả những người nô lệ…là một bộ máy để duy trì những người nô lệ
trong địa vị phụ thuộc và cho phép một bộ phận này của xã hội cưỡng bức và đàn áp bộ
phận kia”[11; tr.85]. Quyền lực của chủ nô mạnh đến nỗi, trong cuộc đấu tranh của mình,
người nô lệ không thể xuất hiện với tư cách là một giai cấp; mà từng cá nhân nô lệ chỉ đấu
tranh để thoát khỏi thân phận nô lệ và mong muốn trở thành người tự do. Mục đích của
cuộc đấu tranh không nhằm hướng đến xoá bỏ giai cấp áp bức mà chỉ nhằm thoát khỏi áp
bức của cá nhân.
1.1.4.2 Kiểu nhà nước phong kiến
Đây là kiểu nhà nước gắn liền với phương thức sản xuất phong kiến. Trong
phương thức này, quan hệ sản xuất phong kiến phản ánh chế độ sở hữu về đất đai của tầng
13
lớp địa chủ, quý tộc. Người nông nô tuy không còn được xem là công cụ như thời kì nô lệ,
song họ vẫn bị trói chặt vào ruộng đất của địa chủ và chịu nhiều lao dịch.
Về bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ để bảo vệ những đặc quyền của giai
cấp địa chủ quý tộc, đàn áp nông dân và những tầng lớp lao động khác. Nhà nước phong
kiến đặc biệt là phong kiến phương Đông được xây dựng một cách rất phức tạp với một

hệ thống các nguyên tắc vừa mang tính chất pháp lý vừa mang màu sắc đạo đức, ràng
buộc nhân dân theo hướng lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước phong kiến Trung Hoa,
Việt Nam luôn xem đạo Nho là những chuẩn mực quan trọng không chỉ trong hành xử
của từng cá nhân mà còn là chuẩn mực trong tổ chức bộ máy nhà nước. Quan hệ vua – tôi,
quan lại - thứ dân đều được chuẩn hoá theo những giáo điều của Nho giáo. Chế độ thi cử
để tuyển dụng người bổ sung cho bộ máy nhà nước phong kiến cũng dựa trên khả năng
nắm vững các giáo điều đó.
Nhà nước phong kiến ở phương Tây gắn liền với tình trạng cát cứ, lãnh địa. Các
lãnh chúa phong kiến đều thiết lập một hệ thống quyền lực và luật lệ riêng trên lãnh địa
riêng của mình. Đặc trưng của nhà nước phong kiến ở châu Âu là sự gắn bó mật thiết với
giáo hội Thiên chúa giáo. Giáo hội có một hệ thống tổ chức chặt chẽ và mang tính nhà
nước. Các phiên tòa của giáo hội xét xử những “kẻ tà đạo” – thuật ngữ thường được dùng
để chỉ những nhà khoa học có tư tưởng tiến bộ, ngược lại giáo lý hiện hữu như những
minh chứng cho quyền lực đặc thù này.
Quyền lực thuộc các nhà nước phong kiến thường tập trung vào người đứng đầu đó
là vua và mang tính chất cha truyền con nối. Ngoài ra trong xã hội phong kiến còn tồn tại
một hệ thống các đẳng cấp được nhà nước phong kiến duy trì, bảo vệ, tạo ra những tầng
lớp quyền lực với những đặc quyền, đặc lợi khác nhau về kinh tế và chính trị. Để duy trì
và bảo vệ quyền thống trị giai cấp, nhà nước phong kiến thiết kế một hệ thống quy phạm
pháp luật và sử dụng các biện pháp trừng phạt cực kì dã man nhằm răn đe những người
chống đối. Đặc biệt, nhà nước phong kiến coi hành vi chống chế độ (bất trung) là tội
phạm rất nặng, không chỉ cá nhân người phạm tội mà họ hàng gần xa cũng phải chịu tội
chết. Đây cũng là cách thức mà nhà nước phong kiến tự vệ, phòng ngừa hậu họa.
1.1.4.3 Kiểu nhà nước tư sản
14
Đây là kiểu nhà nước phát triển cao, rất phức tạp cả về nội dung và hình thức tồn
tại. Về lịch sử ra đời của nhà nước tư sản, không thể phủ nhận có nhiều yếu tố tiến bộ.
Trong cuộc đấu tranh chống lại sự hà khắc của nhà nước phong kiến, giai cấp tư sản cũng
là một lực lượng chịu nhiều ràng buộc đã giương cao ngọn cờ tự do, bình đẳng và chủ
trương xây dựng thể chế tư sản; ở đó con người được hưởng các quyền cơ bản vốn không

được thừa nhận trong xã hội phong kiến. Các thiết chế như nghị viện, chế độ phổ thông
đầu phiếu; hiến pháp và luật pháp với việc quản lý xã hội bằng pháp luật rõ ràng là một
bước tiến dài trong lịch sử nhân lọai. Tuy nhiên, nhà nước tư sản cũng không thể thoát
khỏi những hạn chế do chính cơ sở kinh tế - xã hội của nó. Đó là chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Do vậy, nhà
nước tư sản cũng nhanh chóng bỏ qua những tiến bộ của thời kì đầu và ngày càng bộc lộ
rõ là công cụ của giai cấp thống trị. Thậm chí, một khi quyền lợi giai cấp có nguy cơ bị
xâm hại, giai cấp thống trị sẵn sàng áp dụng các biện pháp bạo lực để tự vệ.
Về bản chất, nhà nước tư sản là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản đối với các
giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Tuy nhiên, trong điều kiện của thế giới đương đại,
nhà nước tư sản cũng có những thích nghi nhất định. Biểu hiện cụ thể ở chỗ nhà nước tư
sản quan tâm đến các chính sách xã hội nhằm hướng tới các phúc lợi về y tế, giáo dục, cải
thiện đời sống của người nghèo v.v…Các hoạt động này làm cho bản chất giai cấp của
nhà nước tư sản khó nhận diện hơn. Các phương thức quản lý của nhà nước tư sản cũng
có nhiều thay đổi so với trước nhờ sự trợ giúp của tiến bộ kỹ thuật. Sự chi phối của những
tập đoàn tư bản ngày càng tinh vi hơn. Tất cả những yếu tố đó làm cho việc nhận diện
đúng bản chất của nhà nước tư sản là một vấn đề khó khăn, đòi hỏi phải có bản lĩnh chính
trị và nhận thức khoa học lịch sử sâu sắc.
1.2 Nhà nước xã hội chủ nghĩa – một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử phát triển
của nhân loại
1.2.1 Tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và
xét địa vị kinh tế của giai cấp đó trong nền sản xuất hiện đại, C.Mác đã kết luận rằng: để
đi tới một xã hội không còn giai cấp, không còn sự bóc lột thì giai cấp vô sản phải trở
thành giai cấp thống trị và nắm lấy quyền lực chính trị để thực hiện sự thống trị chính trị
15
của mình. Nhưng giai cấp vô sản không thể chỉ chiếm lấy và sử dụng bộ máy nhà nước
sẵn có, trái lại phải đập tan “bộ máy quân phiệt quan liêu” của nhà nước cũ, thay thế nhà
nước của giai cấp bóc lột bằng một nhà nước kiểu mới, nhà nước của giai cấp vô sản.
C.Mác khẳng định, “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một

thời kì cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì ấy là một
thời kì quá độ chính trị, và nhà nước của thời kì ấy không thể là cái gì khác hơn nền
chuyên chính các mạng của giai cấp vô sản”[3; tr.47]. Tư tưởng của Mác cho thấy: giai
cấp vô sản cũng như giai cấp cách mạng khác là cũng cần có nhà nước. Công cụ mạnh mẽ
để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Mặt
khác, giai cấp vô sản còn sử dụng công cụ của bộ máy nhà nước để trấn áp lại sự phản
kháng của các giai cấp thống trị bóc lột cũ tuy đã bị đánh đổ nhưng chúng vẫn mưu toan
phục hồi lại địa vị kinh tế - xă hội mŕ chúng đã mất.
Bảo vệ và phát triển một cách sáng tạo học thuyết của Mác và Ăngghen về nhà
nước trong thời đại đế quốc và cách mạng vô sản, Lênin đã phê phán và vạch ra sai lầm
của những quan điểm cơ hội chủ nghĩa về nhà nước của phái Bécxtanh và Cauxki. Những
người này đã thần thánh hoá nền dân chủ tư sản, sùng bái chế độ đại nghị, tuyên truyền
“dân chủ thuần tuý”, đối lập một cách siêu hình với dân chủ chuyên chính. Về thực chất,
họ phủ nhận giai cấp vô sản thống trị xã hội thông qua việc nắm chính quyền nhà nước,
phủ nhận sự chuyên chính của giai cấp vô sản. V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Chỉ những người
đã hiểu rằng chuyên chính của một giai cấp là tất yếu không những cho mọi xã hội có giai
cấp nói chung, không những cho giai cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản, mà còn
cho suốt cả thời kì lịch sử từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp” đến
chế độ cộng sản chủ nghĩa chỉ những người đó mới thấm nhuần được thực chất của học
thuyết Mác về nhà nước”[10; tr.43 - 44].
Sự cần thiết xác lập chuyên chính vô sản để tiến tới chủ nghĩa cộng sản là do trong
xã hội của thời kì quá độ còn tồn tại các giai cấp bóc lột; chúng chống lại sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng
bằng bạo lực. Lênin xem dấu hiệu tất yếu, điều kiện bắt buộc của chuyên chính là trấn áp
bằng bạo lực những kẻ bóc lột với tính cách là một giai cấp. Hơn nữa, trong xã hội của
thời kì quá độ còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Do địa vị kinh tế - xã hội
16
của mình, họ dễ dàng dao động giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, họ không thể tự
mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp vô sản phải tìm mọi cách thu hút lực lượng đông
đảo này về phía mình. Ở đây, chuyên chính vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để

đảm bảo sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhân dân.
Trong thời kì quá độ còn tồn tại các giai cấp đối lập nhau, đấu tranh với nhau, do
đó chuyên chính vô sản là cần thiết để đưa xã hội đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Muốn vậy, quan điểm của giai cấp công nhân trên cơ sở phản ánh đúng đắn quy luật
khách quan của đời sống xã hội phải giữ vai trò chi phối. Học thuyết đấu tranh giai cấp
của Mác vận dụng vào vấn đề nhà nước và vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa, tất nhiên
phải đưa đến chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản, chuyên chính của
giai cấp đó. Trong ý nghĩa như vậy, chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân, do cách
mạng xã hội chủ nghĩa sinh ra và có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, sự ra đời và tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một tất yếu
khách quan. Tuy nhiên, đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự tồn tại chỉ là một quá độ.
Bởi vì giai cấp vô sản với mục tiêu cuối cùng của mình là xoá bỏ mọi giai cấp, xoá bỏ
mọi nhà nước thực hiện một chế độ không còn nhà nước, không còn giai cấp - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Ngày nay, trước những biến động lớn do sự tác động của cách mạng khoa học kỹ
thuật hiện đại nhất là trước tình hình khủng hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa, lý luận
về nhà nước vô sản và bản thân nhà nước vô sản trong hiện thực đang đứng trước những
thách thức sống còn. Do đó, bảo vệ học thuyết chuyên chính vô sản của chủ nghĩa Mác –
Lênin là một nhiệm vụ cấp bách. Nhiệm vụ đó đòi hỏi một mặt, phải khắc phục những sai
lầm trong nhận thức và vận dụng học thuyết đó trong thực tế, đồng thời phải nâng cao
cảnh giác đập tan những luận điệu xuyên tạc về chuyên chính vô sản của giai cấp tư sản,
cũng như chủ nghĩa xét lại, mặt khác, phải bổ sung một cách căn bản lý luận về nhà nước
vô sản và phát triển lý luận đó cho phù hợp với điều kiện mới.
1.2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một tất yếu lịch sử, gắn liền với nỗ lực giải
quyết xung đột giai cấp và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa.
17
Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới, bản chất của nhà nước đó là chính quyền
của nhân dân, là quyền lực của nhân dân. Đây là điểm khác nhau cơ bản của nhà nước vô
sản với các nhà nước của giai cấp bóc lột. Xét về phương diện giai cấp, cũng như nền tảng

kinh tế, nhà nước vô sản là nhà nước duy nhất có cơ sở khách quan và đòi hỏi sự thống
nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Không đảm bảo sự thống trị chính trị của giai cấp
vô sản thì nhân dân không có quyền lực thực sự, ngược lại có đảm bảo quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân thì giai cấp vô sản mới thực hiện được mục đích thống trị chính
trị của mình.
Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân cần có sự hỗ trợ,
cộng tác, liên minh vững chắc và ngày càng củng cố giữa nó với những người lao động
khác. Do vậy, chuyên chính vô sản là một loại liên minh đặc biệt giữa giai cấp công nhân
và quần chúng lao động không vô sản. Nhà nước vô sản là chính quyền của nhân dân; là
nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Do đó, chế độ dân chủ vô sản là chế độ
dân chủ theo nghĩa đầy đủ nhất của từ đó. Đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, lấy dân chủ trên lĩnh vực kinh tế làm cơ sở. Chủ nghĩa xã hội không
thể tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và mở
rộng không ngừng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của sự
phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn…”[10; tr.97] Được
Lênin coi là “một trong những nhiệm vụ cấu thành” của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là
một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện hệ thống vô sản.
Giai cấp công nhân không chỉ có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc đấu tranh để giải
phóng dân tộc mình, mà còn có vai trò lịch sử toàn thế giới. Do vậy, chuyên chính vô sản
còn phải làm nghĩa vụ quốc tế của mình, bằng việc giúp đỡ từ mọi phương diện có thể
đuợc cho cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Nhà nước chuyên chính vô sản là tổ chức, thông qua đó, Đảng của giai cấp công
nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, nhà nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình. Do
vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống
còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước không chỉ là yếu tố
18
bảo đảm bản chất vô sản của nhà nuớc, mà còn là điều kiện để giữ vững tính nhân dân của
nhà nước đó.

Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại cho nhà nuớc chuyên chính vô sản
nhiều hình thức mới. Tính đa dạng của nhà nuớc đó tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể
của thời điểm xác lập nhà nước ấy; tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các giai cấp
và khối liên minh giai cấp tạo thành cơ sở xã hội của nhà nước; tuỳ thuộc vào nhiệm vụ
kinh tế - chính trị - xã hội mà nhà nước đó phải thực hiện; tuỳ thuộc vào truyền thống
chính trị của dân tộc. Hình thức cụ thể của nhà nước trong thời kì quá độ có thể rất khác
nhau, nhưng bản chất chỉ là một: chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng nhà nước vô sản, như trên đã đề cập, là một
nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là nhà nước “nửa nhà nước”. Sau
khi những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại nhà nước mất đi thì nhà nước
sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước vô sản không phải bằng con đường “thủ tiêu”, “xoá
bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong”. Sự tiêu vong của nhà nước vô sản là một quá
trình rất lâu dài.
1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Mọi nhà nước đều có chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Giữa hai chức năng
này luôn có mối quan hệ biện chứng. Với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng xã hội là
thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều
kiện để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về phương
diện chính trị, đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân, xây dựng cơ sở để quyền làm chủ đó
được thực hiện trên thực tế. Những nhiệm vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội đó của nhà
nước ta hiện nay là: Thứ nhất, không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân; Thứ hai, tổ
chức và quản lý kinh tế; Thứ ba, tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học và giáo dục.
1.2.3.1 Chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chúng ta đều biết, chức năng của nhà nước vừa bị quy định, vừa là sự thể hiện bản
chất của nhà nước. Tuỳ theo các tiêu chí khác nhau mà chức năng của nhà nước được đề
cập, xem xét dưới nhiều góc độ. Ở đây, nhà nước được xem xét từ góc độ tính chất của
quyền lực chính trị mà theo đó, bất kỳ nhà nước nào cũng đều có chức năng thống trị
chính trị của giai cấp (chức năng giai cấp) và chức năng xã hội. Theo quan niệm chung,
19
chức năng giai cấp là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước bao giờ cũng là công cụ chuyên chính

của một giai cấp nhất định. Mọi nhà nước đều sẵn sàng sử dụng bất cứ công cụ, biện pháp
nào có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp mình. Còn chức năng xã hội của nhà
nước là cái chỉ ra rằng, mọi nhà nước đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động
chung của xã hội vì sự tồn tại của xã hội, đồng thời phải chăm lo một số công việc chung
của toàn xã hội. Trong một giới hạn xác định, nhà nước phải hoạt động để thoả mãn
những nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nó. Trong các xã
hội có giai cấp đối kháng trước đây, để giữ nhà nước trong tay mình giai cấp thống trị nào
cũng buộc phải nhân danh xã hội mà quản lý những công việc chung. Việc giải quyết có
hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật
tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Đề cập đến chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong khi chú trọng đến chức
năng giai cấp, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn coi chức năng xã hội là
thuộc tính cơ bản nhất và quan trọng nhất của nó. Nói về vấn đề này, V.I. Lênin cho rằng,
chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột và cũng không phải chủ
yếu là bạo lực, mà mặt cơ bản của nó là không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân
cùng với việc tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Ông viết: “Lần đầu tiên chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số đông, đi đôi với
sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột”. Như vậy, có thể nói, bản thân chuyên
chính vô sản, theo quan điểm mácxít, tự nó đã thể hiện sự thống nhất giữa chức năng giai
cấp và chức năng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, về thực chất, là chính quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân và vì thế, trong nhà nước này, nền dân chủ phải là nền dân chủ đầy đủ
nhất, rộng rãi nhất và thực chất nhất – đó là nền dân chủ bao quát toàn diện mọi lĩnh vực
đời sống xã hội và lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế làm nền tảng. Chủ nghĩa xã hội sẽ
không tồn tại và phát triển được nếu thiếu dân chủ, thiếu sự thực hiện một cách đầy đủ và
không ngừng mở rộng dân chủ. “Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
sự phát triển ấy, đem thí nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn…”[10; tr.97] đã được
V.I. Lênin coi là một trong những nhiệm vụ cấu thành cách mạng xã hội chủ nghĩa, là một
20

vấn đề có tính quy luật của sự phát triển và hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong
xã hội xã hội chủ nghĩa – xã hội không còn giai cấp đối kháng, nhà nước xã hội chủ nghĩa
vẫn thực hiện hai chức năng cơ bản, nhưng cơ chế và mục đích thực hiện hai chức năng
đó đã có sự thay đổi căn bản. Cũng như mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử,
nhà nước xã hội chủ nghĩa muốn thực hiện được chức năng giai cấp của mình, trước hết là
phải làm tốt chức năng xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân
dân, sử dụng sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và đảm bảo tuyệt đối các quyền tự
do dân chủ cho nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện tiên quyết
để nhà nước xã hội chủ nghĩa đảm bảo và giữ vững địa vị thống trị xã hội về mặt chính trị,
nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột và các thế
lực thù địch. Điều này có nghĩa là, chức năng giai cấp và chức năng xã hội luôn có mối
quan hệ biện chứng, cái nọ làm tiền đề và là cơ sở cho cái kia. Tuy nhiên, trong điều kiện
giai cấp vô sản đã giành được chính quyền và thiết lập được nhà nước của mình, thì chức
năng giai cấp là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài; còn chức năng xã hội (mà trong đó, việc
tổ chức xây dựng xã hội mới là chủ yếu) là nhiệm vụ cơ bản, quyết định trực tiếp sự thắng
lợi hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa việc
thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa và nhà nước tư bản chủ nghĩa
là ở chỗ, nhà nước tư bản chủ nghĩa thực hiện chức năng xã hội không phải với tư cách là
mục đích, mà là phương tiện để củng cố, đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của
thiểu số trong xã hội là giai cấp tư sản đối với đa số là giai cấp công nhân và những người
lao động khác. Theo đó, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư bản chủ nghĩa
luôn bị giới hạn trong một phạm vi chật hẹp và bị chi phối bởi quan niệm của giai cấp tư
sản, xuất phát từ những lợi ích kinh tế và chính trị ích kỷ của một thiểu số dân cư trong xã
hội. Ngược lại, việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa được xác
định là mục đích chứ không phải là phương tiện để nhà nước ấy đảm bảo sự thống trị
chính trị của nó. Chức năng xã hội của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhằm đảm bảo quyền
dân chủ cho đại đa số những người lao động, xây dựng những thiết chế, cơ sở để quyền
làm chủ đó được thực hiện một cách thực sự trong thực tế.
1.2.3.2 Một số nhiệm vụ cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa
21

Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa thể hiện tập trung ở việc
quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội chủ yếu bằng pháp luật, chính sách,
pháp chế xã hội chủ nghĩa và hệ thống cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa quán triệt và thể chế hoá quan điểm, đường lối cách mạng, chủ
trương của Đảng Cộng sản thành Hiến pháp, pháp luật, pháp chế, chính sách, kế hoạch,
biện pháp…để chỉ đạo thực hiện thông qua quá trình hoạt động của toàn hệ thống chính
trị và toàn xã hội trên mọi lĩnh vực. Nhìn chung, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa là tổ chức và xây dựng nhưng Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn thực hiện
chức năng chuyên chính đối với mọi tội phạm và mọi kẻ thù để bảo vệ độc lập, chủ quyền
đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ những thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời tạo ra những điều kiện cơ bản để ngày
càng mở rộng dân chủ trong nhân dân. Nhân dân ngày càng thể hiện được quyền lực, các
quyền dân chủ và những lợi ích của mình về mọi mặt. Gắn với các chức năng đó là những
nhiệm vụ cụ thể sau của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Thứ nhất, không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa là
chế độ do nhân dân làm chủ và do vậy, nhà nước của chế độ này có nhiệm vụ tạo điều
kiện để cho nhân dân tham gia một cách tích cực và rộng rãi vào tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Trong mọi hoạt động, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, đồng thời đấu tranh không khoan
nhượng, trừng trị kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Dân chủ là bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ là thực chất,
là mục tiêu, là động lực của việc xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây là nhiệm
vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách của thực tế xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa
hiện nay. Bởi lẽ, chỉ có như vậy mới có thể giữ vững và phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái đạo đức, tham nhũng,
lãng phí, quan liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa
sống còn đối với chế độ. Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu, ủng hộ thì mới
vững mạnh và có hiệu lực. Chỉ có dựa vào sức mạnh của nhân dân thì mới xây dựng được
chính quyền trong sạch, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, an ninh, quốc phòng để từ đó, tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã khẳng

22
định: “mở rộng dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với
nghĩa vụ và trách nhiệm, nghĩa vụ; dân chủ được thể chế hoá thành pháp luật; khắc phục
tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối”.
Ở nước ta hiện nay, các cơ quan quyền lực nhà nước đều do dân bầu ra, chính
quyền nhà nước đã trở thành công cụ sắc bén và có hiệu quả nhất để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà
nước, đó là dân chủ đại diện. Quyền làm chủ của nhân dân còn được thực hiện một cách
trực tiếp thông qua việc tham gia vào công việc tổ chức nhà nước, tham gia bộ máy nhà
nước, quyết định các chủ trương, chính sách của Nhà nước ở các cấp…Tuy nhiên, mức độ
thực hiện dân chủ trực tiếp con phụ thuộc vào phẩm chất, trình độ, năng lực của chính
quyền nhà nước; vào trình độ dân trí, trước hết là trình độ văn hoá chính trị, văn hoá pháp
luật; vào đặc điểm lịch sử và truyền thống chính trị của dân tộc…Như vậy, thực hiện dân
chủ phải là một quá trình lâu dài từ thấp đến cao. Không thể và không bao giờ có “dân
chủ tuyệt đối” hay “dân chủ nói chung”, đặc biệt là không thể có ngay và trên mọi mặt
dân chủ trực tiếp trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp, nhất
là về kinh tế. Chính vì vậy, ở nước ta hiện nay, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là nâng cao
chất lượng dân chủ đại diện, đồng thời thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết
thực, đúng hướng, có hiệu quả.
Thứ hai, tổ chức và quản lý kinh tế. Đây là chức năng cơ bản của mọi nhà nước
trên thế giới. Nhưng khác với nhà nước tư bản việc thực hiện nhiệm vụ này là để củng cố
đảm bảo sự thống trị chính trị và kinh tế của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và
nhân lao động, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiệm vụ này là để chăm lo phát
triển đời sống chung của toàn xã hội, làm cho xã hội ổn định, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho người dân. Đó là một biểu hiện khác biệt khá đặc trưng về bản chất của
nhà nước xã hội chủ nghĩa với nhà nước của giai cấp tư sản, điều đó chứng minh cho bản
chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ một nền kinh tế chậm phát triển, còn
phổ biến là sản xuất nhỏ, nên nhiệm vụ tổ chức, quản lý kinh tế của nhà nước là hết sức

khó khăn, phức tạp, chính vì thế mà nhiệm vụ phát triển kinh tế có tầm quan trọng đặc
23
biệt là một số nhiệm vụ khá mới mẻ. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, trình
độ lực lượng sản xuất còn thấp, song song với đó lại phải vừa thực hiện nhiệm vụ giữ gìn
an ninh, quốc phòng, trật tự, an toàn xã hội, vừa phải bảo đảm ổn định và cải thiện không
ngừng đời sống nhân dân về mọi mặt, nhiệm vụ tổ chức, xây dựng của Nhà nước ta trở
nên nặng nề.
Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi
mới, Đảng ta xác định là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh
tế trí thức; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững…Điều cho thấy rằng đường lối kinh tế của
Đảng ta đã thể hiện rõ nét nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước XHCN.
Thứ ba, tổ chức và quản lý văn hoá, khoa học, giáo dục. Đây cũng là một nhiệm vụ
cơ bản thể hiện chức năng xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng chế độ
cộng sản chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá
tiên tiến; con người được giải phóng khỏi áp bức bất công có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, được phát triển toàn diện thì việc thực hiện tốt nhiệm vụ này là điều hết sức
quan trọng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo
dục, văn hoá, phát triển khoa học và công nghệ - đó được coi là “quốc sách hàng đầu” để
phát huy nhân tố con người. Thực hiện nhiệm vụ này, cần phải xây dựng và phát triển nền
văn hoá mới, con người mới, nền khoa học và công nghệ hiện đại – đó cũng chính là động
lực quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ này được biểu hiện cụ thể ở một số
nội dung sau:
- Xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền
thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; thực hiện lối

sống cần kiệm, văn minh, bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác, chống lại mọi
biểu hiện của văn hoá ngoại lai không lành mạnh.
24
- Phát triển khoa học và công nghệ với bước đi và hình thức thích hợp, bảo đảm cơ
sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cơ quan lãnh đạo, quản lý coi đó là
công cụ chủ yếu để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi hoạt động kinh tế
- xã hội.
- Đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ cán bộ, trí thức và những người lao động có trí
thức, có tay nghề, có đạo đức cách mạng và tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời với đó là việc giáo dục thế giới quan Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho
toàn thể nhân dân; đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng, quan điểm xét lại,
cơ hội, những luận điệu xuyên tạc, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
nhân dân ta.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã
xác định phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo xây dựng nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong những lĩnh vực chủ yếu. Theo đó, việc tổ chức,
quản lý văn hoá, khoa học và giáo dục của Nhà nước ta vừa là để thực hiện những nhiệm
vụ kinh tế – xã hội trước mắt, vừa là để chuẩn bị cho đất nước bước vào giai đoạn phát
triển tiếp theo, hoà nhập (trên cơ sở giữ vững bản sắc riêng và tinh hoa văn hoá dân tộc)
với tiến trình phát triển chung của nền văn hoá, khoa học và giáo dục thế giới. Quan điểm
cơ bản của Đảng ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu đã thể hiện rõ ràng nhiệm vụ này của Nhà nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ta đã tiến hành xây
dựng hệ thống các cơ quan tổ chức, quản lý văn hoá, văn học, nghệ thuật, khoa học, giáo
dục, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đào tạo một đội ngũ cán bộ có phẩm chất
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật
tương xứng với yêu cầu và đáp ứng tốt nhu cầu thực tế của các lĩnh vực cụ thể.
Như vậy, xét một cách tổng thể, nhiệm vụ sáng tạo và xây dựng xã hội mới là

nhiệm vụ quan trọng nhất trong chức năng xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ
sở lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng, xét đến cùng, có thể nói, nhiệm vụ cơ
bản và quyết định của Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ tổ chức và quản lý kinh tế,
25

×