Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Tiểu luận môn CON NGƯỜI VÀ MÔI TRƯỜNG_Thực trạng tài nguyên rừng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 41 trang )

1
ĐẾN PHO TÔ HẢO HẢO
ĐỐI DIỆN TRƯỜNG ĐH THỦ DẦU
MỘT192 TRAN VĂN ƠN.
ĐỂ ĐƯỢC CHỈNH SỮA ĐẸP HƠN-
IN MÀU GIÁ RẺ 2.000Đ/TỜ A4.
2
MỤC LỤC
A.ĐẶT VẤN ĐỀ:
B.NỘI DUNG:
I.Khái niệm
II.Thực trạng tài nguyên rửng ở việt nam
1.Sự giảm sút độ che phủ và chất lượng rừng là một vấn đề đáng lo ngại
1.1. Mất rừng xảy ra phổ biến ở nhiều nơi.
1.2.Tình trạng vi phạm pháp luật còn nghiêm trọng.
1.3 .Tình hình phòng cháy, chữa cháy rừng.
1.4. Phòng trừ sinh vật hại rừng.
2.Ngyên nhân:
2.1.Khuyển mục đích sử dụng đất
2.2.Khai thác nguồn lâm sản quá mức
2.3.Cháy rừng
2.4.Sức ép dân số.
2.5.Đói nghèo
2.6.Hậu quả do chất độc hóa học do chiến tranh để lại
2.7.Tập quán du canh ,du cư.
2.8. Hiệu lực pháp luật và chính sách
3.Tác động và hậu quả
3.1.Tác động lên môi trường
3.2.Tác động lên con người.
3
3.3. Ảnh hưởng với môi trường tự nhiên :


Đối với tự nhiên:
Đối với môi trường:
3.4. Ảnh hưởng của suy giảm tài nguyên rừng đến môi trường sống.
Môi trường đất
Môi trường nước
Môi trường không khí
4.Khắc phục
4.1. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về quản lý bảo vệ rừng.
4.2. Quy hoạch, xác định lâm phận các loại rừng ổn định
4.3. Hoàn thiện thể chế, chính sách và pháp luật
4.4. Nâng cao trách nhiệm của chủ rừng, chính quyền các cấp và sự tham gia của
các ngành, các tổ chức xã hội vào bảo vệ rừng
4.5. Củng cố tổ chức, nâng cao năng lực của lực lượng kiểm lâm
4.6. Hỗ trợ nâng cao đời sống người dân.
4.7. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng.
4.8. Ứng dụng khoa học công nghệ.
4.9. Tài chính.
4.10. Hợp tác quốc tế.
4.11. Phòng cháy chữa cháy rừng.
4
Kết luận:
A.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Vốn được mệnh danh là "lá phổi " của trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong việc
duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta. Bởi vậy, bảo vệ
rừng và nguồn tài nguyên rừng luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không thể trì
hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới trong cuộc chiến đầy gian khó hiện nay
nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân chủ yếu
là do chính hoạt động của con người gây ra.
Đất nước Việt Nam trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đa dạng, hơn
2/3 lãnh thổ là đồi núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam, đến á nhiệt đới ở

vùng cao phía Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các
loài sinh vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều loại rừng như rừng cây lá rộng
thường xanh, rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng
và lá kim, rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước
ngọt, Rừng là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với chúng ta. Rừng là hệ
sinh thái có độ đa dạng sinh học cao nhất ở trên cạn, nhất là rừng nhiệt đới ẩm. Ngoài ý
nghĩa về tài nguyên động thực vật, rừng còn là môt yếu tố địa lý không thể thiếu được
trong tự nhiên, có vai trò cực kì quan trọng trong việc taọ cảnh quan và tác động mạnh
mẽ đến các yếu tố khí hậu, đất đai. Chính vì vậy, rừng không chỉ có chức năng trong phát
triển kinh tế- xã hội mà còn có ý nghĩa đặc biệt trong bảo vệ môi trường.
Rừng không những là cơ sở phát triển kinh tế - xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực
kỳ quan trọng: rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxy và
các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định và độ màu mỡ của đất, hạn
chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các
thiên tai, bảo tồn nguồn nước mặt và nước ngầm và làm giảm mức ô nhiễm không khí và
nước.
B.NỘI DUNG:
I.KHÁI NIỆM:
-Suy giảm tài nguyên rừng là hiện tượng suy giảm,do con người gây ra làm giảm trữ
lượng lâm sản tại các vùng rừng trong một thời gian nhất định.
5
II.THỰC TRẠNG:
1. Hiện trạng ở Việt Nam
1.1 Mất rừng xảy ra phổ biến ở nhiều nơi.
Mặc dù tổng diện tích rừng toàn quốc tăng trong những năm qua, nhưng diện tích
rừng bị mất còn ở mức cao. Thống kê từ năm 1991 đến tháng 10/2008, tổng diện tích
rừng bị mất là 399.118ha, bình quân 57.019ha/năm. Trong đó, diện tích được Nhà nước
cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất có rừng là 168.634ha; khai thác trắng rừng
(chủ yếu là rừng trồng) theo kế hoạch hàng năm được duyệt là 135.175ha; rừng bị chặt
phá trái phép là 68.662ha; thiệt hại do cháy rừng 25.393ha; thiệt hại do sinh vật hại rừng

gây thiệt hại 828ha
Như vậy, diện tích mất chủ yếu do được phép chuyển đổi mục đích sử dụng và khai
thác theo kế hoạch chiếm 76%; diện tích rừng bị thiệt hại do các hành vi vi phạm các quy
định của Nhà nước về quản lý bảo vệ rừng tuy có giảm, nhưng vẫn ở mức cao làm mất
94.055ha rừng, chiếm 23,5% trong tổng diện tích rừng mất trong 7 năm qua, bình quân
thiệt hại 13.436ha/năm
1.2Tình trạng vi phạm pháp luật còn nghiêm trọng.
Từ năm 1999 đến tháng 10 năm 2008, cả nước đã phát hiện, xử lý 494.875 vụ vi
phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Mặc dù
tình trạng vi phạm giảm qua các năm, nhưng số vụ vi phạm còn lớn, diễn ra phổ biến ở
nhiều nơi, những cố gắng trong ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật chưa tạo được
chuyển biến căn bản.
Tình hình chống người thi hành công vụ diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt, hung
hãn. Hành vi chống đối có tổ chức (có nơi bầu người lãnh đạo, tổ chức canh gác, đặt bẫy
chông, đá, đập phá phương tiện, tài sản…), dùng các thủ đoạn trắng trợn và côn đồ, như:
đập phá phương tiện của các cơ quan và cán bộ có thẩm quyền, đe doạ xâm hại tính
mạng, sức khỏe, tài sản của người thi hành công vụ và thân nhân, gia đình họ, khi bị phát
6
hiện hành vi vi phạm, chúng dùng nhiều phương tiện tấn công, kể cả việc đâm xe vào lực
lượng kiểm tra, dùng kim tiêm có máu nhiễm HIV để tấn công
Do lợi nhuận cao từ buôn bán gỗ và động vật hoang dã trái phép, nên tình hình diễn
ra phức tạp ở hầu khắp các địa phương. Đầu nậu thường giấu mặt, thuê người nghèo vận
chuyển, thu gom, tập kết gỗ, động vật hoang dã tại những điểm bí mật rồi tổ chức vận
chuyển đến nơi tiêu thụ. Nhiều thủ đoạn tinh vi được chúng sử dụng để vận chuyển, tiêu
thụ gỗ trái phép, động vật hoang dã trái phép như: dùng xe khách, xe chuyên dùng, xe cải
hoán (hai đáy, hai mui, dùng biển số giả…), giấu gỗ dưới hàng hóa khác, kết gỗ chìm
dưới bè, sử dụng giấy tờ quay vòng nhiều lần Gần đây xuất hiện một số đường dây
buôn bán gỗ, động vật hoang dã xuyên biên giới, quá cảnh qua nước ta sang nước thứ ba.
1.3 Tình hình phòng cháy, chữa cháy rừng.
Từ năm 1995 đến tháng10/2008, cả nước xảy ra 10.444 vụ cháy rừng, gây thiệt hại

75.318 ha rừng, bình quân mỗi năm bị cháy 5.380 ha.
Rừng bị cháy trong những năm gần đây chủ yếu là rừng trồng, với các loài cây
chính là thông, tràm, bạch đàn, keo; đối với rừng tự nhiên, chủ yếu là cháy rừng nghèo
kiệt, rừng khoanh nuôi tái sinh mới được phục hồi. Nguyên chủ yếu trực tiếp gây ra cháy
rừng là: Do đốt dọn thực bì làm nương rẫy, đốt dọn đồng ruộng gây cháy, chiếm 41,80%;
do người vào rừng dùng lửa để săn bắt chim thú, đốt đìa bắt cá, trăn, rùa, rắn…, hun khói
lấy mật ong, chiếm 30,9%; đốt dọn thực bì tìm phế liệu 6,1%; cháy lân tinh 5,5%; hút
thuốc 3%; đốt nhang 2%; cố ý 5%; nguyên nhân khác 5,7%.
1.4 Phòng trừ sinh vật hại rừng.
Những năm qua, trên diện tích rừng cả nước chưa xảy ra dịch bệnh làm mất rừng
với quy mô lớn. ở một số địa phương như: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng trị, Thừa Thiên Huế có xảy ra hiện tượng dịch sâu róm hại rừng trồng loài cây
thông, có năm diện tích rừng thông bị nhiễm bệnh lên đến hàng chục ngàn hécta, đã ảnh
hưởng đến sinh trưởng, phát triển và năng xuất nhựa. Ngành lâm nghiệp đã sử dụng
7
nhiều biện pháp kỹ thuật phòng, trừ, như phun thuốc sâu, biện pháp sinh học Tuy nhiên,
công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật về phòng trừ sinh vật hại rừng còn rất
hạn chế, chủ yếu mới thực hiện các giải pháp ứng phó khi dịch xảy ra, các biện pháp
phòng sinh vật hại rừng chưa được quan tâm đúng mức, do vậy, sẽ rất lúng túng nếu dịch
xảy ra trên quy mô lớn. Theo quy định hiện hành của pháp luật, công tác quản lý về
phòng trừ sinh vật hại rừng được giao cho hệ thống cơ quan bảo vệ thực vật. Tuy nhiên,
hiện nay hệ thống các cơ quan này mới chủ yếu tập trung vào việc bảo vệ cây trồng nông
nghiệp, chưa có đầy đủ năng lực để thực hiện các biện pháp phòng trừ sinh vật hại rừng.
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá của đất nước ta
Rừng nước ta ngày càng suy giảm về diện
tích và chất lượng, tỉ lệ che phủ thục vật dưới
ngưỡng cho phép về mặt sinh thái, ¾ diện tích
đất đai của nước ta(so với diện tích dất tự
nhiên) là đồi núi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
nên rừng rất quan trọng trong việc cân bằng

sinh thái. Đất có rừng phải được duy trì tối thiểu
50-60%, vùng đồi núi phải là 80-90%, vùng đầu
nguồn sông suối phải là 100%.
Rừng ngập mặn với diện tích 450 nghìn ha có tác dụng cung cấp gỗ và than. Đồng
thời có tác dụng giữ và cải tạo đất, là nơi cư trú và sinh sản của các loài thuỷ
/>%2520man%2520copy.jpg&imgrefurl= />%26task%3Dview%26id%3D50%26Itemid
%3D50&h=252&w=380&sz=75&tbnid=5dm_tslH2RNLOM:&tbnh=82&tbnw=123&prev=/images%3Fq
%3Dh%25C3%25ACnh%2B%25E1%25BA%25A3nh%2Br%25E1%25BB%25ABng%2Bng%25E1%25BA
%25ADp%2Bm%25E1%25BA
%25B7n&hl=vi&usg=__fx2of4iV8EKYFBVxP1jzxhaErBI=&ei=8Jv_S_HMFpDRceDD5IUK&sa=X&oi=image_r
esult&resnum=5&ct=image&ved=0CCAQ9QEwBAsinh. Đất lâm nghiệp chiếm 30% diện tích đất
8
tự nhiên(rừng tự nhiên 26%, rừng trồng 4%). Tỉ
lệ che phủ còn dưới tiêu chuẩn cho phép do uỷ
ban Môi trường quốc tế đưa ra và áp dụng cho
toàn cầu là 33%. Tỉ lệ che phủ ở tây bắc chỉ còn
13,5%, đông bắc còn 16,8%.Theo điều tra của
năm 1993 , nước ta còn khoản 8,631 triệu ha
rừng (trong đó có 5.169 ngàn ha rừng sản xuất
kinh doanh, 2.800 ngàn ha rừng phòng hộ , 663.000 ha rừng đặc dụng). Rừng phân bố
không đồng đều , tập trung cao nhất ở khu vực tây nguyên (dăk lăk 1.253 ngàn ha , gia
lai 838.6000 ha ), kế là miền trung du phía bắc ( Lai châu 229.000 ha) và thấp nhất ở
đồng bằng sông cửu long ( an giang 100 ha).
Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại
thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha rừng, trong khi mức bình quân của thế
giới là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống kê cho thấy, đến năm 2000 nước ta có khoảng
gần 11 triệu hecta rừng, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 9,4 triệu hecta và
khoảng 1,6 triệu hecta rừng trồng; độ che phủ của rừng chỉ đạt 33% so với 45% của
thời kì giữa những năm 40 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, nhờ có những nỗ lực trong việc
thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước về bảo vệ và phát triển tài nguyên

rừng, "phủ xanh đất trống đồi núi trọc" nên nhiều năm gần đây diện tích rừng ở nước
ta đã tăng 1,6 triệu hecta />imgurl= />%2520copy.jpg&imgrefurl= />%26id%3D50%26Itemid
%3D50&h=252&w=380&sz=75&tbnid=5dm_tslH2RNLOM:&tbnh=82&tbnw=123&prev=/images%3Fq
%3Dh%25C3%25ACnh%2B%25E1%25BA%25A3nh%2Br%25E1%25BB%25ABng%2Bng%25E1%25BA
%25ADp%2Bm%25E1%25BA
%25B7n&hl=vi&usg=__fx2of4iV8EKYFBVxP1jzxhaErBI=&ei=8Jv_S_HMFpDRceDD5IUK&sa=X&oi=image_r
esult&resnum=5&ct=image&ved=0CCAQ9QEwBA so với năm 1995, trong đó rừng tự nhiên tăng
9
1,2 triệu hecta, rừng trồng tăng 0,4 triệu hecta.
Ở nhiều tỉnh, rừng tự nhiên giàu còn lại rất
thấp, như Lai Châu còn 7,88%, Sơn La 11,95%,
và Lào Cai 5,38%. Sự suy giảm về độ che phủ
rừng ở các vùng này là do mức tăng dân số đã
tạo nhu cầu lớn về lâm sản và đất trồng trọt.
Kết quả đã dẫn tới việc biến nhiều vùng rừng
thành đất hoang cằn cỗi. Những khu rừng còn
lại ở vùng núi phía Bắc đã xuống cấp, trữ
lượng gỗ thấp và bị chia cắt thành những đám rừng nhỏ phân tán.
2.Nguyên nhân:
2.1. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất:
Chuyển đổi mục đích sử dụng đất chính là sự mở rộng đất nông nghiệp, đất sản
xuất, là mở rộng đất canh tác nông nghiệp bằng cách lấn sâu vào đất rừng, là nguyên
nhân quan trọng nhất làm suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đa dạng sinh học. Phá rừng
ngập mặn để nuôi tôm là hậu quả làm suy thoái rừng. Do chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt
của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là
nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên rừng ngập mặn Việt Nam đã bị suy thoái nghiêm
trọng. Hậu quả của việc phá rừng ngập mặn lấy đất nuôi tôm một cách bừa bãi như hiện
nay là huỷ hoại môi trường, làm suy giảm mức sống của nhiều người dân nghèo ven biển,
ảnh hưởng xấu đến chủ trương xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững của Chính
phủ.Nhiều cơ quan quản lý ở Trung ương và địa phương chưa đánh giá đúng vai trò to

lớn của hệ sinh thái rừng ngập mặn; buông lỏng quản lý trong việc sử dụng tài nguyên
vùng ven biển có rừng ngập mặn; không kiên quyết xử lý việc phá rừng để nuôi tôm.
10
Nhiều địa phương chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt là tôm xuất khẩu mà chưa tính đến
hậu quả lâu dài do thiên tai và suy giảm tài nguyên khi không còn rừng, nên rừng bị tàn
phá khắp nơi. Phần lớn các dự án nuôi tôm không thực hiện việc đánh giá tác động môi
trường mà hình như các cơ quan hữu quan cũng không lưu ý nhắc nhở thực hiện luật
pháp. Ngành lâm nghiệp cũng chưa quan tâm đến việc tuyên truyền giáo dục về lợi ích
lâu dài của rừng ngập mặn nên việc đấu tranh để bảo vệ rừng của cộng đồng còn yếu. Vì
mất nguồn sinh sống, một số người có thể biết là sai nhưng vẫn phải làm để nuôi gia
đình, đó là dùng lưới mắt nhỏ, đăng bắt hết tôm tép hoặc dùng chất nổ, xung điện để huỷ
diệt nguồn lợi.
Ngoài khai phá rừng để làm đầm tôm
người dân còn phá rừng để trồng cà phê.
Mặt khác, do thiếu sự phối hợp chặt chẽ
giữa các ngành thuỷ sản và lâm nghiệp nên
không những mất rừng, mà sự cân bằng sinh
thái suy giảm và cuộc sống của cộng đồng
ven biển bị xáo trộn. Có thể khẳng định, việc
nuôi tôm và trồng cà phê không có quy hoạch là mối đe doạ lớn nhất đối với hệ sinh thái
rừng ngập mặn và làm giảm diện tích rừng.
11
2.2. Khai thác nguồn lâm sản quá mức cho phép:
Khai thác nguồn lâm sản đang là tình trạng đáng lo ngại hiện nay đối với tài nguyên
rừng Việt Nam. Đây là nguyên nhân quan trọng trực tiếp dẫn đến rừng bị suy thoái một
cách nghiêm trọng làm cho sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên, sự phong phú về các loài
sinh vật, độ che phủ và chất lượng rừng bị giảm sút gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng
cho sinh vật và cây trồng trên toàn cầu. Khai thác rừng là hành động do chính con người
tạo ra là phần lớn, vì rất nhiều mục đích khác nhau mà con người đã sử dụng dưới nhiều
hình thức để tác động và tàn phá tài nguyên rừng. Với các mục đích khác nhau cho nên

hoạt động khai thác nguồn lâm sản ở đây được chia thành 3 hoạt động: khai thác gỗ, khai
thác củi, khai thác lâm sản ngoài gỗ.
Khai thác gỗ: Ngày nay, khi giá gỗ tăng cao, con người đã không ngừng tiến hành
khai thác các loài nhóm gỗ trên theo các mục đích của mình. Họ khai phá để phục vụ cho
các công trình xây dựng như làm giàn giáo, cốppha. Đối với loài gỗ bền chắc thì họ khai
thác để xây dựng nhà ở, đối với loài gỗ quý hiếm thì họ khai thác nhằm để bán và xuất
khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xa xỉ của con người. Việc khai thác các loài gỗ quý hiếm
để phục vụ mục đích kinh doanh xuất khẩu hiện nay đang là một nguồn lợi tức đáng kể
cho quốc gia có trữ lượng lớn gỗ quý như Việt Nam.Với tốc độ đáng lo ngại nạn khai
thác rừng chủ yếu diễn ra ở các khu rừng nhiệt đới đang dần đưa đến nguy cơ mất rừng.
Như rừng Amazône là khu rừng nguyên sinh lớn nhất hành tinh hiện nay cũng đang bị
khai phá nghiêm trọng cũng với tốc độ khai phá này thì chỉ trong vài mươi năm nữa thì
khu rừng sẽ bị huỷ diệt hoàn toàn và lúc đó con người sẽ nhận những hậu quả khó lường
xẩy ra do sự biến đổi khí hậu trên trái đất.
Khai thác củi : Đối với các loại gỗ ngoài giá trị xây dựng công trình, xây dựng nhà
ở, phục vụ kinh doanh xuất khẩu thì những loại thực vật kém giá trị khác lại được con
người khai thác với mục đích là làm củi đốt. Nhiều người dân ở vùng miền núi và nông
thôn chiếm một phần dân số đông so với cả nước, đã theo thói quen trong sinh hoạt họ
chỉ dùng củi để làm nguyên liệu đốt và dùng với lượng củi khá cao. Những hộ gia đình
12
nghèo không có đất sản xuất, vốn đầu tư đã vào rừng khai thác củi bán đều có thêm thu
nhập. Với dân số 84 triệu người hiện nay, thì nhu cầu về lượng củi đốt như hiện nay cũng
tăng theo. Đây là vấn đề đáng lo ngại cho việc tàn phá rừng tiếp tục tiếp diễn.
Khai thác lâm sản ngoài gỗ: Ngoài khai thác gỗ quý hiếm còn khai thác củi thì khai
thác lâm sản ngoài gỗ cũng là một sự tàn phá đến tài nguyên rừng. Đây có thể xem là
nguyên nhân tác động làm suy kiệt tài nguyên rừng nhanh nhất. Lâm sản ngoài gỗ bao
gồm các loài động vật quý, động vật hoang dã… và các loại thực vật mà cho các sản
phẩm ngoài gỗ như: song, mây, tre, nứa, lá các loại cây thuốc, dầu… Tất cả các loài trên
có thể được sử dụng trong gia đình, bán và xuất khẩu cho nên tình trạng khai thác, buôn
bán trái phép, xuất khẩu các loài động vật thực vật đang được diễn ra mạnh mẽ. Giá trị

xuất khẩu cao của các loài nói trên cùng với sự kém hiểu biết, hám lợi nhuận đã thúc đẩy
con người tìm cách săn bắt chúng ở khắp mọi nơi. Cùng xuất phát từ sự nghèo đói mà
người dân đổ xô vào rừng khai thác các nguồn lâm sản ngoài gỗ. Chỉ vì khai thác quá
mức để bán ra các tỉnh và cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất đũa, chiếu và
làn giàn giáo cho các công trình xây dựng mà dẫn đến suy thoái các rừng luồng nghiêm
trọng. Và đang còn rất nhiều hoạt động khai thác các loài động vật thực vật khác theo
từng mục đích riêng ảnh hưởng tới môi trường. Các hoạt động khai phá trái phép này kéo
dài âm ỉ, liên tục, tốc độ của sự phục hồi rừng không kịp với tốc độ phá rứng cho nên
rừng đang bị suy thoái. Cần có các biện pháp tích cực để ngăn chặn và làm giảm các hoạt
động trái phép này.
13
2.3. Cháy rừng
Cháy rừng cũng là một nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tài nguyên rừng một
cách rất nhanh gây ảnh hưởng tới các hoạt động sống của sinh vật trên một diện tích rộng
lớn và gây ra hậu quả xấu như xói mòn, lũ lụt, hạn hán đến cuộc sống con người. Ngày
nay cháy rừng cũng do nhiều nguyên nhân gây ra, chúng ta có thể kể đến một số nguyên
nhân như: hiện tượng elnino gây ra, do các hoạt động khai thác của con người như đốt
lửa tìm mật ong, tìm mật gấu hay đốt hương tìm mộ liệt sĩ trong chiến tranh, do hoạt
động đốt nưong làm rẫy của người dân tộc miền núi… những nguyên nhân này đều có
thể khiến rừng bị cháy. Và hầu hết các diện tích rừng bị cháy đều nằm trong những vùng
14
nhạy cảm như rừng đầu nguồn, đất dốc, vùng
sinh thái đất ngập nước, rừng tràm, vùng rừng
chống cát di động nên dễ gây lũ quét, xói lở,
đất dễ bị khô hạn và thoái hoá. Cháy rừng sẽ
nhanh chóng lan ra trên một diện tích rộng lớn
và rất khó dập tắt cho nên thiệt hại cũng rất
nghiêm trọng. Sự phục hồi và tái tạo lại rừng
trong điều kiện này là rất chậm vì thế mà tài nguyên rừng đang cạn kiệt dần đi.
2.4. Sức ép dân số

Tăng dân số nhanh là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái đa dạng
sinh học, suy thoái môi trường. Sự gia tăng dân số đòi hỏi tăng nhu cầu trong sinh hoạt và
các nhu cầu thiết yếu khác, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Sự gia tăng
về mật độ dân đã dẫn đến nạn phá rừng và sự suy thoái nghiêm trọng về các hệ sinh thái
và tài nguyên thiên nhiên. Khi chưa có sự xuất hiện của con người, rừng che phủ hầu hết
đất đai của các lục địa, trong lịch sử phát triển của loài người vào thời kì đồ đá cũ, con
người sống hoàn toàn phụ thuộc vào rừng bằng các hoạt động săn bắt và hái lượm, các
hoạt động này không gây thiệt hại gì cho rừng. Đến khi con người bắt đầu biết chăn nuôi
và trồng trọt thì con người có những hoạt động tác hại đến rừng, mặc dù các tác động này
có phần nào hạn chế sự phát triển của rừng nhưng cũng chưa đáng kể lắm. Từ thế kỷ thứ
3 trước công nguyên trở về sau thì rừng mới thực sự bị con người tấn công khai phá. Sự
15
tấn công khai phá rừng ngày càng được thấy rõ nét hơn, khi dân số đông dần lên, nông
nghiệp ngày càng mở rộng đồng thời nghề luyện kim xuất hiện. Con người đốt rừng để
trồng tỉa, lấy gỗ để làm nhiên liệu, đồ gỗ làm thuyền làm bè… Cứ như thế rừng bị thu
hẹp dần. Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, đời sống của con người dần được
nâng lên, nhu cầu trong đời sống của họ cũng dần tăng cùng theo đó. Và dần dần, dân cư
ngày càng tập trung ở các đô thị để dễ dàng trao đổi buôn bán… thoã mãn nhu cầu của
họ, gây nên tình trạng mất cân đối giữa dân cư ở nông thôn và thành thị. Người dân ồ ạt
ra thành thị kiếm sống dẫn đến tình trạng đô thị hoá, đòi hoỉ nền kinh tế ở khu vực này
phải phát triển tương đồng để đáp ứng đầy đủ việc làm cho người dân. Và khi nhu cầu
con người trong tất cả các lĩnh vực tăng cao, nhu cầu việc làm cũng tăng thì các nhà máy,
xí nghiệp, các công ty, cơ sở chế biến… bắt đầu được hình thành. Nhưng diện tích đất
thành thị chỉ chiếm một phần rất nhỏ cho nên tất cả các hoạt động tiêu dùng và sản xuất,
khai thác chế biến không thể diễn ra ở đây, chẳng hạn như xây dựng nhà máy xi măng,
nhà máy gạch, các nhà máy chế biến nguyên liệu mía, sắn… thì không thể xây dựng
trong địa bàn thành thị vì lí do đảm bảo đầu vào nguyên liệu dễ dàng, đảm bảo môi
trườmh không bị ô nhiễm ở thành thị thì buộc họ phải chuyển đến một nơi cách xa thành
thị, cách xa nơi sinh sống, chuyển đến một địa bàn nào đó để xây dựng cở sở sản xuất
cho mình. Và dần họ lấn chiếm vào rừng, nơi có diện tích khá rộng và tiến hành khai thác

tàn phá rừng để xây dựng các nhà máy xí nghiệp. Và tại các vùng nông thôn thì dân số
tăng thì buộc người dân phải mở rộng diện tích đất canh tác để sản xuất đủ lương thực
đảm bảo cho cuộc sống. Điều tất nhiên là người dân không thể mở rộng diện tích đất sản
xuất xuống cac vùng đô thị, diện tích đất đồng bằng chiếm phần rất ít thì buộc họ phải
tiến sâu vào rừng, bất đầu chặt phá rừng để lấy đất tiến hành sản xuất. Ban đầu chỉ khai
thác một phần diện tích nhỏ và sau một thời gian dài, ngoài nhu cầu mở rộng đất canh tác
mà nhu cầu về nhà ở của con người cũng tăng lên. Do nền kinh tế phat triển, giá cả đất tại
các đô thị rất cao nhưng người dân họ không đủ khả năng để mua nhà tại các vùng đồng
bằng và đương nhiên họ sẽ chuyển lên địa bàn mà nơi họ có khả năng mua nhà ở và rừng
được xem là địa bàn sinh sống tiềm năng. Khi dân số tăng nhanh không những nhu cầu
về việc làm, nhà ở tăng mà bên cạnh đó nhu cầu giả trí ăn uống du lịch… của con người
16
cũng tăng nhiều hơn khi đời sống người dân được nâng lên họ muốn được ăn những thứ
ngon, những thứ lạ, dùng những sản phẩm độc đào từ thên nhiên, muốn có nguồn vật liệu
xây dựng như sản phẩm từ gỗ quý hiếm như: giáng hương (Pterocarpus macrocarpus), gụ
(Sindora siamensis), sao đen (Hopea odaratu). Có cầu ắt sẽ có cung và con người lại tiếp
tục vào rừng tìm kiềm các loài động thực vật quý hiếm để săn bắt, khai thác với mục đích
bán cái trên thị trường cần để có thêm thu nhập. Tài nguyên rừng thì có hạn mà nhu cầu
con người thì ngày càng tăng và chỉ trong một thời gian ngắn các loài động vật, thực vật
quý hiếm đã bị khai thác cạn kiệt, thậm chí có nguy cở bị tiêu diệt làm cho số lượng và
chủng loài sinh vật ngày càng giảm đi. Vậy có thể nói sức ép dân số cũng tác động mãnh
mẽ đến sự suy thoái tài nguyên rừng, con người cần có sự khai thác hợp lý có kế hoạch
để hạn chế tình trạng kahi thác rừng bừa bài làm giảm tài nguyên rừng một cách đáng kể.
2.5. Nghèo đói
Suy thoái môi trường có nhiều nguyên nhân trong đó một phần là do sự đói nghèo
tác động nên. Đói nghèo luôn đi đôi với sự khan hiếm tài nguyên sản xuất đã dẫn đến tình
trạng khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức làm tăng sự khan hiếm và suy thoái. Với
khoảng 80% dân số sống ở nông thôn, Việt Nam là một nước nông nghiệp phụ thuộc vào
tài nguyên thiên nhiên. Đất nông nghiệp ở nhiều nơi thiếu nghiêm trọng và nhiều người
phải sống dựa vào rừng, đời sống rất thấp khoảng 50% gia đình thuộc vào diện đói

nghèo. Vì thiếu ruộng, thiếu vốn đầu tư những người nghèo đói thường phải đến sinh
sống tạo những nơi có điều kiện không thuận lợi mà cần ít vốn đầu tư phải bóc lột đất và
tài nguyên thiên nhiên để duy trì cuộc sống làm cho các loại tài nguyên nay dần bị suy
thoái nhanh chóng. Nhưng cũng phải chứng tỏ một điều là: nghèo đói không đồng nghĩa
với việc được tàn phá rừng như hoạt động khai thác gỗ, củi, đặc sản rừng… để đem đi
bán. Nhưng vì nghèo, không có đất sản xuất, không có vốn đầu tư, buộc họ phải tàn phá
để nuôi sống bản thân và gia đình họ, có thể số củi, gôx mà họ khai thác được chỉ bản ra
với giá là 50.000 đồng nhưng số tiền đó lại nuôi được gia đình họ trong một tuần. nếu thu
nhập một người/ ngày mà thấp hơn 15.000 thì được xét là hộ nghèo thì những hộ gia đình
ố lại có cuộc sống khó khăn hơn. Các hoạt động khai phá của họ cũng một phần đáp ứng
17
nhu cầu tiêu dùng cho những người giàu có, phục vụ mục đích kinh doanh cho những con
người có tiền bạc. Tuy hoạt độngấnỳ mang tính nhỏ lẻ, manh múm, không ồ ạt nhưng lại
được lặp đi lặp lại trong một thời gian khá dài nên rất khó quản lý và gây nên tình trạng
cạn kiệt dần của tài nguyên rừng. Khi rừng ngày càng giảm về số lượng cây trồng, vật
nuôi hay diện tích rưùng bị thu hẹp đã dẫn đến hiện tượng hạn hán lũ lụt, khả năng ngăn
chặn xói mòn đất là rất kém. Cho nên mỗi lần thiên tai ập đến lại chính những người
nghèo tiếp tục gánh chịu tổn thất nặng nề hơn do phải sống gần rừng. Vốn dĩ họ đã nghèo
nay lại càng nghèo hơn, sự nghèo đói luôn xây quanh cuộc sống của họ, dường như họ
khó có thể thoát ra được cuộc sống tiếp tục phá rừng lấy gỗ,củi, đặc sản rừng bán để có
thu nhập. Vì mục đích là có thu nhập nuôi sống gia đình mình mà các hộ dân nghèo đói
đang dần dần làm suy giảm nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vậy cần có các chính sách hỗ
trợ giải quyết việc làm cho hộ nghèo đói như các chương trình phát triển ngành nghệ
phụ… để giảm bớt hiện tượng khai thác rừng.
2.6. Hậu quả của cuộc chiến tranh hóa
học để lại:
Cuộc chiến tranh hoá học chính là những
cuộc chiến tranh bằng chất độc da cam/đioxin
mà quân đội Hoa Kỳ đã sử dụng và rải lên đất nước Việt Nam trong các cuộc chiến tranh.
Với số lượng rất lớn chát độc hoá học đã rải, lặp đi lặp lại nhiều lần trong một quãng thời

gian dài với nồng đọ cao, chúng ngấm và dần phân huỷ trong đất, không những đã làm
chết cây cối mà còn gây ô nhiễm môi trường trong một thời gian dài và làm đảo lộn các
hệ sinh thái tự nhiên. Những hậu quả tức thời và lâu dài của chất độc hoá học đối với tài
nguyên và môi trường rừng là rất rõ ràng. Trong quá trình bị tác động, hàng trăm loài cây
đã bị trút lá, đáng quan tâm nhất là những cây gỗ lớn thuộc tầng nhô và tầng ưu thế sinh
thái thuộc họ dầu ( Dipterocarpaceae), họ đậu ( Fabaceae). Nhiều loài cây gỗ quý hiếm
như giáng hương ( Pterocarpus macrocarpus), gụ ( Sindora siamensis), sao đen ( Hopea
18
odorata)… và một số cây họ dầu
thuộc tầng cao trong rừng đã bị chết
dẫn đến khan hiếm nguồn hạt giống
củamột số loài cây quý. Tán rừng bị
phá vỡ, môi trường rừng bị thay đổi
nhanh chóng, những loài cây của
rừng thứ sinh như tre, nứa, các loài
cây gỗ ưa ánh sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế thì chúng xuất hiện và lấn át cây gỗ
bản địa. Nhiều khu rừng đã bị phá huỷ nặng nề do quy mô phá hoại rộng lớn và lặp đi lặp
lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, kèm theo với các tác động khác của bom đạn…
Hậu quả là cây rừng bị chết đi, các loài cây cỏ dại như cỏ Mỹ ( Pennisetum
polystachyon), cỏ tranh(Imperate cylindrica), lau lách xâm lấn và đến nay rừng vẫn chưa
được phục hồi. Ngoài ra, chất độc hoá học rải lên rừng còn gây thiệt hại nhiều cho các
loại tài nguyên khác ngoài gỗ chưa được tính đến như dầu nhựa, cây thuốc, song mây và
các loài động vật rừng. Và hậu quả của cuộc chiến tranh hoá học của Mỹ rải xuống còn
dẫn đến nhiều thiệt hại khác về môi trường và tính đa dnạg sinh học làm cho quá trình
trút lá ồ ạt đã dẫn đến hiện tượng ứ đọng dinh dưỡng và có 10-15 triệ hố bom chiếm
khoảng 1% diện tích rừng Nam Việt Nam làm cho lớp đất mặt bị đảo lộn và thúc đẩy quá
trình rửa trôi đất. hậu quả trên cản trở trực tiếp đến diễn thế phục hồi rừng và tác động
xấu đến rừng phòng hộ đầu nguồn. Tuy những năm gần đây, cây rừng cũng đã được chăm
sóc, được đầu tư phát triển thêm nhưng chất lượng và số lượng vẫn không được cao. Qua
phân tích trên chúng ta thấy rằng hậu quả mà cuộc chiến tranh hoá học để lại là giảm diện

tích rừng, làm cho tài nguyên rừng Việt Nam bị tổn thương rất nặng nề. Mặc dù, đã trải
qua trên 30 năm nhưng vết thương đó vẫn chưa lành, diện tích rừng thì có nhiều biến đổi
theo xu hướng suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chiến tranh hoá học của
Mỹ đã để lại một hậu quả tàn khốc tài lên nguyên rừng Việt Nam.
19
2.7. Tập quán du canh, du cư.
Du canh du cư là tập quán sản xuất nông nghiệp lâu đời của nhiều dân tộc ít người ở
Việt Nam mà thường xuất hiện tại các vùng đồi núi và cao nguyên. nơi nhằm ổn định sản
xuất và đời sống trong một phạm vi lãnh thổ cố định. Vào mùa khô và thường là cuối
mùa đông( miền Bắc Việt Nam), người dân thường vào sâu trong rừng tìm một khoảnh
đất rừng phù hợp, đốt cháy mảnh diện tích đủ rộng theo ý muốn( thường là không thể
điều khiển theo mục đích người đốt vì lửa rừng bị tác động của gió và độ ẩm, nhiệt độ tại
khoảnh rừng). Và đến đầu mùa mưa, người ta đi tra hạt( chủ yếu là ngô), hoặc ươm sắn,
lợi dụng lượng nước ẩm do mưa, hạt giống sẽ nảy mầm, cây sinh trưởng rất tốt do đất
dưới tán rừng có hàm lượng dinh dưỡng rất cao và cũng nhờ than tro của việc đốt rừng
tiến hành. Nhưng người dân canh tác ở đây lại ít có tác động tới cây trồng mà chủ yếu là
thoái mặc chúng cho tự nhiên và tới mùa thì thu hoạch. Thông thường chỉ sau 3-4 mùa
rẫy, do nước mưa rửa trôi và xói mòn, mặt khác lại không được bổ sung các chất dinh
dưỡng nên đất rẫy sẽ nghèo dinh dưỡng, cây trồng phát triển kém. Lúc này, người dân sẽ
bỏ rẫy cũ, tìm đến một khoảnh rừng mới và lại đốt rừng thành rẫy. Cuộc sống của họ
thường gắn bó với rẫy nên cả gia đình, bản làng cùng di cư theo rẫy. Và đây chính là tập
quán du canh du cư, là một tập tục cũ, lạc hậu, năng suất cây trồng thấp, cuộc sống người
dân bấp bênh gây thoái hoá đất, mất rừng. Vì tập tục này thường xuất hiện ở các vùng
miền núi nên cũng có thể hiểu rằng, họ không có đất để sản xuất và trình độ hiểu biết của
người dân miền núi vẫn đang còn hạn chế, chỉ vì mưu sinh cuộc sống qua ngày nên họ
chỉ tập trung sản xuất trong một thời gian rất ngắn đáp ứng nhu cầu hiện tại của họ, người
dân phó mặc thiên nhiên mà không có đầu tư, chưa có hiểu biết kỹ thuật canh tác để có
năng suất cao hơn và chưa nắm rõ hậu quả của việc đốt nương làm rẫy của họ có thể tàn
phá cả một diện tích rừng rông lớn. Sinh sống tại miền núi thì tiến hành sản xuất tại nơi
sinh sống, nhưng địa hình miền núi phức tạp, khó sản xuất trên phần diện tích này nên

người dân càng không quan tâm tới những hoạt động sản xuất của mình. Mặt khác, cùng
với việc gia tăng dân số mà tập quán du canh du cư trở thành một nguyên nhân quan
trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là đã tạo nên cả một vùng đất trrống đồi núi
20
trọc như hiện nay. Tăng dân số đồng nghĩa
với việc mở rộng sản xuất để sản xuất thêm
lương thực phẩm đáp ứng với cuộc sống của
con người. Và điều tất nhiên là những người
dân sinh sống ở miền núi họ không thể mở
rông diện tích dất canh tác xuống vùng đồng
bằng được vì theo thói quen sinh sống của
họ, thói quen trong sản xuất, hơn nữa diện
tích đồng bằng chỉ chiếm một phần rất nhỏ không đủ để họ tiến hành canh tác. Cho nên
người dân phải lấn sâu vào rừng để mở rộng đất sản xuất và họ tiếp tục đốt nương rừng
tạo rẫy canh tác. Diện tích rừng cứ thế được đốt cháy nhưng lại không có sự đầu tư cũng
không có sự tái tạo thì chắc chắn diện tích rừng sẽ dần bị co hẹp lại theo thời gian. Ngày
nay, thủ tướng Chính phủ cũng đã banh hành Quyết Định về chính sách hỗ trợ định canh
định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010 trên phạm vi cả nước để có
thể dần khôi phục diện tích rừng và với 70% số điểm định canh, định cư tập trung có đủ
các công trình cõ sở hạn tầng thiết yếu, phù hợp với quy hoạch chung, bao gồm: ðýờng
giao thông, ðiện thuỷ lợi nhỏ, lớp học, nhà mẫu giáo, nhà sinh hoạt cộng ðồng và một số
công trình thiết yếu khác; 100% số hộ đồng bào dân tộc thiểu số du canh du cư được tổ
chức định canh định cư theo quy hoạch, có nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt…để
dần không còn hộ đói, mỗi năm giảm 2-3% số hộ nghèo. Tuy đã có chính sách hỗ trợ
nhưng theo thói quen trong sản xuất, trong sinh hoạt, bước đầu họ khó thích nghi với
cuộc sống mới nên tình trạng khai thác rừng vẫn diễn ra. Cùng với sự gia tăng dân số,
cùng với sự hiểu biết ít của mình thì tập quán du canh du cư của những người dân sinh
sống tại miền núi cũng đang là nguyên nhân trực tiếp gây nên hiện tượng suy thoái rừng,
làm giảm sự đa dạng của rừng.
21

Với diện tích rừng Việt Nam là 14 triệu ha vào năm 1945 đến hiện nay chỉ còn lại
6,5 triệu ha, như vậy trung ình mỗi năm rừng Việt Nam bị thu hẹp tù 160-200 ngàn ha….
Nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút nghiêm trọng về diện tích là do khai hoang trong chiến
tranh, do tập quán sống du canh của một số dân tộc ở vùng cao, do cháy rừng, do sự khai
phá bừa bãi lấy gỗ lấy đất canh tác…, nguồn tài nguyên động vật đa dạng của rừng Việt
Nam cũng bị giảm sút nghiêm trọng là do sự săm bắt thú bừa bãi để lấy lông, da, thịt,
sừng và các sản phẩm khác để làm thuốc, còn do việc buôn lậu thú quý hiếm ra nước
ngoài… Trong 4 thập kỷ qua theo ước tính sơ bộ đã có 200 loài chim đã bị tuyệt chủng và
120 loài thú đã bị diệt vong. Tất cả hậu quả trên đều do con người trực tiếp gây ra. Và
qua phân tích ở trên chúng ta thấy cả 7 nguyên nhân đều có mói liên hệ mật thiết với
nhau, cùng tác động và chi phối lẫn nhau, đều tác động trực tiếp làm ảnh hưởng tài
nguyên rừng, làm suy thoái tài nguyên rừng rất nhanh. Vấn đề đặt ra cho các ban ngành
kiểm lâm cần có những chính sách tác động để bảo vệ tài nguyên rừng, có sự kiểm soát
chặt chẽ với những hành động khai thác trộm bừa bãi các động thực vật quý hiếm. Cần
tuyên truyền cho người dân biết tác hại của vấn đề tàn phá rừng để tăng ý thức bảo vệ
cộng đồng làm cho rừng Việt Nam ngày càng đa dạng hơn về chủng loại và số lượng
Nh ậ n th ứ c
22
Kết quả điều tra nhận thức của cộng đồng o Yok Don (vung o Tay nguyen) về vai trò
và tầm quan trọng của Vườn quốc gia Yok Đôn tại 3 xã vùng đệm (Krông Na, Ea Huar,
Ea Wer) cho thấy 51% nhận biết được vai trò và tầm quan trọng, 21% biết nhưng không
rõ, 18% không rõ ranh giới, còn lại 10% không biết Vườn quốc gia Yok Đôn ở đâu. Điều
này là do công tác tuyên truyền chưa thực hiện tốt. Nguyên nhân là do trình độ dân trí
thấp. Số lượng học sinh các cấp trong toàn vùng con thap. Nhiều người cho rằng tài
nguyên rừng là vô tận nên luôn luôn muốn tìm cách khai thác và khai thác một cách cạn
kiệt khi có cơ hội. Nhiều trẻ em không thích đến trường, thậm chí chúng cũng không
được bố mẹ khuyến khích đến trường mà lại thích vào rừng thu hái lâm sản và chăn thả
gia súc.
2.8. Hiệu lực pháp luật và chính sách
Hiệu lực thi hành pháp luật trong cộng đồng và cán bộ địa phương còn hạn chế,

hành lang pháp lý chưa đủ mạnh. Các vụ vượt quá thẩm quyền chuyển cấp trên thời gian
xử còn kéo dài chưa có tác dụng giáo dục cho cộng đồng. Chính sách đãi ngộ, quan tâm
của Nhà nước đối với lực lượng kiểm lâm chưa thỏa đáng. Kiểm lâm thường xuyên bị đe
dọa bởi những đối tượng có hành vi khai thác trộm lâm sản. Họ chưa yên tâm với công
tác. Hiện biên chế kiểm lâm còn thiếu nhiều (theo quy định với diện tích 115.545ha, biên
chế cần là 231 người, nhưng tới năm 2008 mới chỉ có 72 người o Yok Don). Đây là một
khó khăn trong công tác quản lý bảo vệ rừng Vườn quốc gia . Việc nâng cao năng lực kỹ
năng về bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi pháp luật cho kiểm lâm chưa ngang tầm
nhiệm vụ.
3. Tác động :
3. 1.Tác động của rừng lên môi trường:
-Rừng được xem là lá phổi xanh của thế giới giúp:
+Điều hoà khí hậu
23
+Cân bằng sinh thái cho môi trường.
+Rừng còn bổ sung khí cho không khí và ổn định khí hậu toàn cầu bằng cách đồng hoá
cacbon và cung cấp oxi.
+ Rừng phòng hộ ngăn chặn tình trạng cát bay, sự xâm lấn của biển. Rừng hạn chế xói
mòn và lũ lụt,…
-Trước hết, rừng có ảnh hưởng đến nhiệt độ, độ ẩm không khí, thành phần khí quyển và
có ý nghĩa điều hoà khí hậu. Rừng là vật cản trên đường di chuyển của gió và có ảnh
hưởng đến tốc độ cũng như sự thay đổi hướng gió. Rừng không chỉ chắn gió mà còn làm
sạch không khí và có ảnh hưởng đến vòng tuần hoàn trong tự nhiên
+. Bên cạnh đó, rừng cong làm giảm tiếng ồn.
+Rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng làm cân bằng lượng O2 và CO2 trong khí quyển.
+Rừng làm giảm nhiệt độ và tăng độ ẩm không khí.
+Rừng có vai trò bảo vệ nguồn nước bảo vệ đất chống xói mòn. Thảm thực vật có chức
năng quan trọng trong việc ngân cản một phần nước muă rơi xuống đất và có vai trò phân
phối lại lượng nước này. Tán rừng có khả năng giảm sức công phá của nước mưa đối với
lớp đất bề mặt.

-Thảm mục rừng là kho chứa các chất dinh dưỡng khoáng, mùn và ảnh hưởng lớn đến độ
phì nhiêu của đất. Đay cũng là nơi cư trú và cugn cấp chất dinh dưỡng cho vi sinh vật,
nhiều loại côn trùng và động vật đất.Rừng còn có khả năng giữ nước ngầm.
3.2 Tác động của rừng lên cuộc sống:
+Rừng cung cấp một lượng lớn gỗ không lồ, phục vụ nhu cầu xây dụng nhà cửa và các
công trình phục vụ cuộc sống.
+ Cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến như: sản xuất giấy, sản xuất gỗ
gia dụng, đồ mĩ nghệ thủ công để xuất khẩu
+Rừng có mối quan hệ mật thiết đối với thế giới, là nơi cư trú cho khoảng 70% các loại
động vật và thực vật.
+Đây là nơi cung cấp nhiều đặc sản quý hiếm, là kkho thuốc khổng lồ giúp con
người chữa bệnh, cung cấp lương thực và tạo việc làm cho con người, phát triển du lịch
sinh thái,….
24
3.3. Ảnh hưởng với môi trường nhiên tự:
Sự suy giảm tài nguyên rừng có ảnh hưởng như thế nào đối với tự nhiên và môi
trường?
Đối với tự nhiên:
- Đối với tài nguyên nước: mất rừng gây biến động thủy chế sông ngòi, giảm sự điều
hòa của dòng chảy, dẫn đến lũ lụt khô hạn, làm tăng quá trình bốc hơi giảm lượng nước
ngầm.
- Đối với tài nguyên đất: Làm tăng qúa trình xói mòn, rửa trôi, đá ong hóa mạnh mẽ
làm tăng diện tích đất bị thoái hóa.
- Đối với tài nguyên sinh vật: Mất rừng làm suy giảm tính đa dạng sinh học, số
lượng loài động thực vật bị tuyệt chủng ngày càng tăng
Đối với môi trường:
- Đối với môi trường không khí: Rừng bị chặt phá làm tăng lượng CO2, tăng nhiệt
độ không khí, thủng tầng Ôzôn, ô nhiểm khí quyển.
- Đối với sinh thái: nhiệt độ không khí tăng làm thay đổi vùng phân bố và cấu trúc
quần thể của nhiều hệ sinh thái, ranh giới các hệ sinh thái có xu hướng chuyển dich lên

cao hơn. Nhiệt độ tăng làm tăng khă năng cháy rừng.
3.4. Ảnh hưởng của suy giảm tài nguyên rừng đến môi trường sống.
Suy giảm tài nguyên rừng gây thiên tai ở nhiều nơi
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và chịu tác động trực tiếp của ổ bão châu Á -Thái
Bình Dương - một trong 5 ổ bão lớn của thế giới, Việt Nam thường xuyên phải đối mặt
với các loại hình thiên tai. Nước ta còn nằm trong số 10 nước hàng đầu về tần suất bị
thiên tai trên thế giới, với những loại thiên tai phổ biến là bão, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn
hán.
25

×