Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.62 KB, 18 trang )

Nhóm 02 – 1302FECO1611
Đề tài:
Việt Nam là một nước đang phát triển có lực lượng lao động dồi dào trong đó
chủ yếu là lao động trẻ Việt Nam luôn thoả mãn được nhu cầu lao động phong
phú, thậm trí đáp ứng cả nhu cầu tuyển dụng nước ngoài.
I.THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM
Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất nhanh nhạy
trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực này lại chưa được
khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực
và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam.
1.Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức; chưa
được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến nơi
đến chốn.
2. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất.
3. Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối
4.So sánh nguồn lao động của Việt Nam với các nước trong khu vực và rút ra
nhận xét
1
Nhóm 02 – 1302FECO1611
1.Nguồn nhân lực khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức;
chưa được quy hoạch, khai thác; chưa được nâng cấp; chưa được đào tạo đến
nơi đến chốn.
Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời kỳ
“dân số vàng” nên lực lượng trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn lực
vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện
thành công Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020 đã được Đại
hội Đảng XI thông qua ngày 16/2/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của
Việt Nam vẫn còn thấp và cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt.
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 12/2010, Việt Nam có gần 87 triệu người.
Điều này phản ánh nguồn nhân lực của Việt Nam đang phát triển dồi dào. Nguồn


nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công nhân, trí thức, doanh
nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó, nguồn nhân lực nông
dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn nhân lực công nhân là
9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí thức, tốt nghiệp từ đại học,
cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân
lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu người, trong đó, khối doanh nghiệp trung
ương gần 1 triệu người…. Sự xuất hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem như
một nhân tố mới trong nguồn nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt
sẽ giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
2. Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ thông và
nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số đông, trong khi
đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái thiếu của Việt Nam
hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực chất lượng cao. Theo số
iệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động đã qua đào tạo trên tổng số
48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4 triệu người có bằng cấp, chứng chỉ
do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước. Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo
nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện
2
Nhóm 02 – 1302FECO1611
còn bất hợp lý được thể hiện qua các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học
chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật là 0,92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ
này là 1-4-10. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất
thiếu lao động có trình độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng
nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang
điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12
nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là
5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94
3. Cơ cấu phân bổ lao động theo ngành nghề cũng mất cân đối

Các ngành kỹ thuật - công nghệ, nông - lâm - ngư nghiệp ít và chiếm tỉ trọng thấp,
trong khi đó các ngành xã hội luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Nhiều ngành
nghề, lĩnh vực có tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhân lực. Những lĩnh vực hiện
đang thiếu lao động như: Kinh doanh tài chính, ngân hàng, kiểm toán, công nghệ
thông tin, điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo
4.So sánh nguồn lao động của Việt Nam với các nước trong khu vực và rút ra
nhận xét
Việt Nam hiện có nguồn lao động rất dồi dào nhưng chất lượng lại rất thấp so với
các nước trong khu vực
Đánh giá về chất lượng lao động Việt Nam thông qua năng suất lao động, TS. Hồ
Đức Hùng (Đại học Kinh tế TPHCM) so sánh: năng suất lao động của lao động
Việt Nam hiện thấp hơn Indonesia 10 lần, Malaysia 20 lần, Thái Lan 30 lần, và
Nhật Bản tới 135 lần
Năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng khoảng 55% so với Trung Quốc, 35%
so với Thái Lan, 15% so với Mailaixia và khoảng 5-6% so với Hàn Quốc (Báo cáo
phát triển con người năm 2006 – UNDP).
3
Nhóm 02 – 1302FECO1611
Người tuyển dụng lao động không đáp ứng nhu cầu xã hội?
(GD&TĐ) - Lâu nay, chúng ta rất hay bàn đến chuyện nguồn nhân lực được
đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng, trường nghề không đáp ứng được
nguồn nhu cầu xã hội; nào là doanh nghiệp nọ, công ty kia than phiền về
người được tuyển dụng. Mới đây, tôi tình cờ đọc trên một trang báo có lời
phát biểu của chuyên gia kinh tế, Chủ tịch InvestConsult Group Nguyễn
Trần Bạt cho rằng “Xã hội đang chết vì những người tuyển dụng” bỗng giật
mình bởi lý lẽ xác đáng của câu nói này, khi đối chiếu với thực tại đã và đang
diễn ra.
Hãy bắt đầu bằng thực trạng về nạn thất nghiệp ở Việt Nam. Theo báo cáo được
Tổng cục Thống kê công bố tại Hà Nội ngày 18/12 mới đây với sự hỗ trợ của Tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO), tính đến thời điểm 1/10/2012, cả nước có 53,1

triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động. Trong đó, có 52,1 triệu
người có việc làm. Như vậy, có gần 1 triệu người thất nghiệp bởi nền kinh tế
không tạo đủ việc làm cho cả lao động mới gia nhập thị trường và bộ phận lao
động thất nghiệp cũ. Đối tượng thanh niên độ tuổi 15-24 đang chiếm 47% tổng
số người thất nghiệp.
(ảnh MH: internet)
4
Nhóm 02 – 1302FECO1611
So với nhiều nước trên thế giới, tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam như vậy là không
cao, nhưng điều đáng nói hiện tại, người lao động ở độ tuổi thanh niên 15-24
phần lớn đang phải chấp nhận những công việc trái sở trường nghề nghiệp, với
mức thu nhập thấp và bất ổn định.
Sẽ thật sự là vội vã nếu ai đó cho rằng, những người lao động đã được tuyển dụng
vào các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp có năng lực, trình độ hơn hẳn những
người đang còn trong diện không có việc làm. Thăm dò thực tế tuyển dụng lao
động của một trung tâm xúc tiến việc làm tại TP Đà Nẵng, giám đốc Trung tâm
này cho biết, có đến 60% hồ sơ xin được tuyển dụng lao động phổ thông thuộc
đối tượng SV tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ. Trong số đó, có những em đã từng
dự phỏng vấn tuyển dụng ở cơ quan nhà nước bị loại thải nhưng lại được doanh
nghiệp tư nhân đánh giá cao và tìm mọi cách để “giữ chân”. Và vị giám đốc cũng
rút ra kết luận: số phận nghề nghiệp của một con người nhiều khi do khả năng
nhìn nhận, đánh giá của người sử dụng lao động quyết định.
Sự tồn đọng lớn nhất có thể coi là “lưu niên” trong các nhà tuyển dụng lao động ở
các địa phương, đó là tâm lý dòng tộc, họ hàng thân thích, nói theo kiểu của dân
gian thì “một người làm quan, cả họ được nhờ”. Tồn đọng thứ hai nảy sinh những
năm gần đây và cả hiện tại, đó là tuyển dụng từ lợi nhuận tiền bạc trước mắt; hình
thành một đường dây chạy chọt, cứ có tiền nhiều là có việc. Sự tuyển dụng người
lao động “con ông, cháu cha” hay chạy tiền bạc vào cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước thường là rất dễ dãi, không phải qua một quy trình tuyển dụng nào. Còn kết
quả của sự non yếu, không đáp ứng được yêu cầu công việc của những đối tượng

lao động như vậy thì cả tập thể phải gánh chịu.
Khác hẳn với những năm trước, từ đầu năm 2013 tình hình lao động ở nước ta khá
ổn định. Tình trạng thiếu hụt, khan hiếm lao động trước và sau tết đã không còn,
người lao động (NLĐ) cũng không có xu hướng nhảy việc và doanh nghiệp (DN)
cũng không tuyển dụng lao động ồ ạt. Thay vào đó là ưu tiên những người có kinh
nghiệm, chuyên môn kỹ thuật có thể đáp ứng được yêu cầu công việc tại các DN
hiện nay.

Doanh nghiệp tuyển dụng khắt khe
5
Nhóm 02 – 1302FECO1611
Để đối phó với khó khăn và đảm bảo hoạt động sản xuất, đồng thời tăng cao chất
lượng công việc, các DN đã khắt khe hơn trong việc tuyển dụng lao động, kể cả lao
động phổ thông và thời vụ. Với sự thay đổi này, phần nào đã giúp DN ổn định
được tình hình sản xuất sau tết, không mất quá nhiều thời gian, công sức và kinh
phí cho công tác tuyển dụng.

Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và
Thông tin thị trường lao động TP.HCM: Thị trường lao động TP.HCM năm 2013
phát triển theo xu hướng nâng cao chất lượng; nếu không có tay nghề, kỹ thuật,
NLĐ sẽ phải đối diện với nguy cơ bị đào thải, bởi DN muốn có đội ngũ nhân lực
có tay nghề để phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao hơn .
Cũng theo số liệu khảo sát về tình hình thị trường lao động năm 2013, có tới 30%
DN không có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Chính vì vậy mà không khí tuyển
dụng ở các KCN – KCX năm nay khá trầm lắng, không có các hoạt động thu hút
NLĐ vẫn thường thấy sau mỗi kỳ nghỉ tết.

Một dấu hiệu cho thấy DN hạn chế tuyển dụng lao động trong năm 2013 nữa là: Tỷ
lệ lao động trở lại làm việc sau kỳ nghỉ tết đạt tới 95%, có DN đạt tới 98%. Với tỷ
lệ lao động trở lại làm việc cao nên các DN không còn bị thiếu hụt lao động như

mọi năm. Lỗ hổng ít, vì thế DN cũng không phải vội vàng tuyển lao động ồ ạt để
lấp chỗ trống. Hơn nữa, nhu cầu tuyển dụng lao động thời vụ trong năm nay cũng
giảm đi rất nhiều. Theo ông Nguyễn Tấn Định, Phó ban Quản lý các KCN – KCX
TP.HCM cho biết: những năm trước nhu cầu tuyển dụng lao động thời vụ rất lớn,
không phân biệt nam nữ. Nhiều lao động ở độ tuổi trên 30 vẫn tuyển. Nhưng năm
nay lao động phải mòn mỏi chờ việc, DN chủ yếu tuyển để thay thế số lao động
nghỉ việc do bệnh hay thai sản. Việc chọn lựa khi tuyển dụng lại rất kỹ: trình độ
văn hoá ít nhất hết PTTH, tuổi đời hạ xuống, tuyển nam hay nữ là theo yêu cầu
DN.

Như vậy có thể thấy rằng, từ đầu năm 2013 đến nay các DN vẫn có nhu cầu tuyển
dụng lao động. Tuy nhiên, điều kiện tuyển dụng không dễ dàng như mọi năm.
Không phải bất kỳ lao động nào có nhu cầu tìm việc đều được nhận vào làm, mà
chỉ những lao động đã có tay nghề, kinh nghiệm, trình độ chuyên môn kỹ thuật
mới có cơ hội được tuyển dụng.
6
Nhóm 02 – 1302FECO1611
Theo dự báo của trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao
động cho biết: trong những tháng tiếp theo năm 2013, nhu câu về nhân lực của các
DN vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, lao động có tay nghề, kinh nghiệm sẽ được ưu
tiên hàng đầu. Đặc biệt trong thời gian tới, nhu cầu về lao động có trình độ về
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp sẽ tăng cao. Đây là thông tin rất khả
quan cho thị trường lao động trong năm nay. Nhưng những thông tin này có thật sự
hữu ích đối với NLĐ và DN có thể tuyển dụng được lao động đủ khả năng, trình
độ đáp ứng yêu cầu của công việc hay không là phụ thuộc sự nhận thức của NLĐ.

Nhận định riêng về nhóm lao động có trình độ kỹ thuật cao, Tiến sỹ Nguyễn Thị
Hải Vân cho biết, theo dự báo năm 2013, kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao hơn so
với năm 2012 theo ba kịch bản (5%, 5,68% và 6,34%). Do vậy, thị trường lao động
tiếp tục ổn định và phát triển theo hướng tích cực. Cơ cấu lao động chuyển dịch từ

ngành nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp - xây dựng và dịch vụ - thương
mại. Kết quả dự báo thị trường lao động năm 2013 cho thấy có sự thay đổi trong
nhu cầu tuyển dụng lao động theo nghề so với năm trước. Những ngành có nhu cầu
tuyển nhiều lao động trong năm 2013 là: chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ,
tre, nứa. Nhóm ngành dịch vụ, thương mại cũng sẽ thu hút nhiều lao động ngành
bán buôn (trừ ngành ô tô). Những nghề có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhất trong
năm 2013 sẽ là: thợ xây, thợ mộc, thợ nề cùng nhóm nghề khai thác mỏ, xây dựng,
công nghiệp, giao thông vận tải. Ngoài ra, nhóm nghề kỹ thuật viên khoa học vật lý
và kỹ thuật bậc trung như kỹ thuật viên điện, xây dựng, cơ khí; kỹ sư kỹ thuật xây
dựng, cơ học cơ khí, công nghiệp chế biến, chế tạo… cũng được các nhà tuyển
dụng tìm kiếm nhiều. Bà Vân cũng lưu ý, một số nhóm nghề khó khăn trong tuyển
dụng chủ yếu là nhà chuyên môn bậc cao như kỹ sư khai thác mỏ, luyện kim và
các ngành liên quan, kỹ sư hóa học, kỹ sư về công nghiệp chế biến, chế tạo
Để bảo đảm NLĐ có việc làm, đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng, Cục việc
làm đề xuất, trong thời gian tới cần tăng cường công tác đào tạo nguồn lao động
chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hiện tại có sự mâu thuẫn giữa những
nhóm nghề có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhưng lại gặp khó khăn trong tuyển dụng
là: thợ vận hành máy móc, thiết bị, thợ may, lao động có kỹ năng thị trường trong
lâm nghiệp, thủy sản. Chính vì vậy, ngoài tăng cường và nâng cao chất lượng đào
tạo nghề cần đẩy mạnh kết nối cung - cầu giữa NLĐ và doanh nghiệp.
7
Nhóm 02 – 1302FECO1611
II. NGUYÊN NHÂN
1.Về phía đào tạo
a)Cơ cấu đào tạo
b) chất lượng đào tạo:
2. Trình độ khoa học công nghệ
3. Tác phong và ý thức làm việc
4.Về kinh tế xã hội
5. Về chính sách của nhà nước

8
Nhóm 02 – 1302FECO1611
1.Về phía đào tạo
Do chất lượng đào tạo còn quá cũ kĩ, lạc hậu từ nội dung đến giảng dạy và đôi khi
đi học là học chạy còn vào thực tiễn thì như mới hoàn toàn vì không có trang thiết
bị để thực hành phục vụ cho khả năng sáng tạo của sinh viên.
a)Cơ cấu đào tạo
- còn lạc hậu,chưa bám sát với thực tế xã hội.
- vì nước ta là một nước đang phát triển nên đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ sư về
kỹ thuật, công nghệ nhưng từ phía đào tạo thì chưa đáp ứng được nhu cầu đó.
- thực tế hiện nay thì có tới gần 90% sinh viên thất nghiệp là sinh viên kinh tế đó là
do bên đào tạo không nắm được nhu cầu về nguồn nhân lực, chưa thông tin cho
sinh viên về việc chọn trường chọn ngành phù hợp, nhiều sinh viên chỉ cọn theo
cảm tính mà không tính đến tương lai và khả năng xin việc sau này.
b) chất lượng đào tạo
- chất lượng đào tạo và thực tế còn cách nhau quá xa, những gì được học phần lớn
không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
- do học không đi đôi với hành, thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
giảng dạy và học tâp.
- do xã hội phát triển quá nhanh còn chất lượng đào tạo thì phát triển quá chậm
không bắt kịp được những thay đổi của xã hội vì thế nên không đưa ra những
phương phát và kiến thức phù hợp nên dễ bị tụt hậu.
2. Trình độ khoa học công nghệ
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung KH&CN nước
ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so với thế giới và khu vực,
chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội.
9
Nhóm 02 – 1302FECO1611
Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ KH&CN còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, các "tổng công trình sư",

đặc biệt là thiếu cán bộ KH&CN trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu nhân lực
KH&CN theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp lý.
Đầu tư của xã hội cho KH&CN còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh
nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại học nhìn chung còn rất
thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản xuất tiên tiến cùng ngành.
Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
KH&CN chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực KH&CN tiên tiến; chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển KH&CN cũng như sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Hệ thống dịch vụ KH&CN, bao gồm thông tin KH&CN, tư vấn chuyển giao công
nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở
vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực
và quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu KH&CN, giáo dục - đào tạo và sản xuất -
kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ chức nghiên cứu - phát triển, các
trường đại học và doanh nghiệp.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng cách rất lớn
về tiềm lực và kết quả hoạt động KH&CN: tỷ lệ cán bộ nghiên cứu KH&CN trong
dân số và mức đầu tư cho nghiên cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả
nghiên cứu - phát triển theo chuẩn mực quốc tế còn rất ít.
Nhìn chung, năng lực KH&CN nước ta còn yếu kém, chưa giải đáp được kịp thời
nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ và đáp ứng được yêu cầu
của phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực
như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi
măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc hậu
khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng này hạn
chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng tính

hành chính:
Quản lý hoạt động KH&CN còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố đầu vào, chưa
chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và ứng dụng kết quả
nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ KH&CN chưa thực sự gắn kết chặt chẽ
10
Nhóm 02 – 1302FECO1611
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công tác đánh giá nghiệm thu kết quả
nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực quốc tế.
Cơ chế quản lý các tổ chức KH&CN không phù hợp với đặc thù của lao động sáng
tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức
KH&CN chưa có được đầy đủ quyền tự chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và
hợp tác quốc tế để phát huy tính năng động, sáng tạo.
Việc quản lý cán bộ KH&CN theo chế độ công chức không phù hợp với hoạt động
KH&CN, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm
bảo để cán bộ KH&CN được tự do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu
trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo
động lực đối với cán bộ KH&CN và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế
độ tiền lương còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ KH&CN toàn tâm
với sự nghiệp KH&CN.
Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động KH&CN chưa tạo thuận lợi cho nhà khoa
học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; cơ chế tự
chủ về tài chính của các tổ chức KH&CN chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân
lực nên hiệu quả còn hạn chế.
Thị trường KH&CN chậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông
kết quả nghiên cứu KH&CN còn bị hạn chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi
giới, các quy định pháp lý cần thiết, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở
hữu trí tuệ.
Tóm lại, công tác quản lý nhà nước về KH&CN còn chưa đổi mới kịp so với yêu
cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
3. Tác phong và ý thức làm việc

Phong cách làm việc của người Việt Nam là không tôn trọng kỷ luật, xuề xòa , làm
việc đi không đúng giờ, đi trễ về trước, thường làm việc riêng trong khi làm việc
côn, văng tục trong ưng xử với đồng nghiệp, không tôn trọng nguyên tắc, tự làm
theo ý riêng, tinh thần tập thể làm việc theo nhóm chưa cao.
4.Về kinh tế xã hội
Do xã hội phát triển nên thời kì bao cấp ngày xưa đã không còn tồn tại nữa và các
doanh nghiệp phải tự lo cho mình, do đó yêu cầu tuyển dụng lao động cũng đòi hỏi
cao hơn trước về trình độ kĩ thuật và khả năng làm việc.(chỉ trừ trong các ngành
công an quân đội là được phân công công việc).
Ngoài ra lực lương lao động chủ yếu của nước ta hiên nay là lao động trẻ và phần
lớn trong số đó là sinh viên mới ra trường,và hầu hết trong số đó đều muốn trụ lại
11
Nhóm 02 – 1302FECO1611
thành phố để làm viêc cho dù là làm không đúng chuyên môn,miễn là có thu nhập
và không muốn về những tỉnh lẻ hay vùng sâu, vùng xa, hải đảo vì vậy nên tình
trạng thất nghiệp ở các thành phố lớn ngày càng tăng cao hơn.
5. Về chính sách của nhà nước
- chưa có chính sách hợp lí để khuyến khích đào tạo cũng như tạo điều kiện cho
sinh viên sau khi ra trường yên tâm công tác và phát huy khả năng của mình.
- các chính sách đối với những người công tác ở vùng sâu,vùng xa, hải đảo còn
chưa hợp lí nên không thu hút được lao động
12
Nhóm 02 – 1302FECO1611
III. GIẢI PHÁP
1. Chính sách nhà nước
2. Bản thân người lao động
3. Các doanh nghiệp
4. Các thể chế giáo dục
13
Nhóm 02 – 1302FECO1611

1. Chính sách nhà nước
- Cần có chính sách khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư vào
đào tạo nhân lực như chính sách cho vay vốn, chính sách miễn giảm thuế và
các loại khuyến khích ưu tiên khác, kể cả cho phép nước ngoài liên kết với
các thành phần kinh tế trong nước để mở các trường dạy nghề.
- Có ngững chính sách động viên nhân lực, kể cả những người đang sinh
sống ở nước ngoài.
- Nhà nước nên ưu tiên dành một nguồn kinh phí tương xứng cho công tác
đào tạo nghề đầu tư cả trang thiết bị máy móc,cơ sở thực tập đào tạo giáo
viên dạy nghề.
- Tạo mọi điều kiện có thể cho sự đào tạo,và tạo nhiều việc làm cho người
lao động
- Bên cạnh đó nhà nước cũng cần phải kiểm soát các nơi đào tạo xem chất
lượng ra sao để có biện pháp cải tao.
Nhà nước ta cũng đã thực hiên một số biện pháp như đã thành lập Ban Chỉ
đạo công tác đào tạo nghề quốc gia. Đặc biệt, ngày 27/11/2009, Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956). Với mục tiêu
Nhà nước chi ngân sách xấp xỉ 26.000 tỷ đồng để khi kết thúc vào năm
2020, sẽ đào tạo nghề cho gần 10 triệu lao động nông thôn làm việc ở khu
vực nông nghiệp và phi nông nghiệp, và bồi dưỡng đào tạo 1 triệu cán bộ
công chức cấp xã, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề, nhằm tạo
việc làm tăng thu nhập của lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ
cấu lao động và cơ cấu kinh tế, phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH nông nghiệp
nông thôn.
Bộ NN&PTNT đã phối hợp với Bộ LĐ-TB&XH thống nhất xây dựng danh
mục 180 nghề nông nghiệp trình độ sơ cấp để dạy nghề cho lao động nông
14
Nhóm 02 – 1302FECO1611
thôn, đồng thời triển khai xây dựng chương trình tài liệu học nghề năm 2010

đối với 25 loại nghề phổ biến ở 3 miền đất nước
2.Bản thân cung lao động
- Cần phải có ý thức học tập để nâng cao trình độ của bản thân.
- Phát huy tính sáng tạo, năng động, làm việc chăm chỉ cũng như trung thực
trong công việc.
- Biết giữ gìn của cải vật chất, bảo vệ của công.
- Giúp đỡ nhau trong công vệc, cũng như cạnh tranh nhau để phat triển hơn
nhưng trên tinh thần bình đẳng và trong sang
3.Các doanh nghiệp
- Trước hết về nhận thức, cần phải thấy hết tầm quan trọng và nhu cầu cấp
thiết của việc đào tạo nhân lực. Thực tế, nhiều cơ sở sử dụng lao động không
biết và không lo lắng và tất nhiên không có trách nhiệm gì về nhu cầu lao
động cũng như trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Tất cả cứ diễn ra theo lối
tự nhiên. Khi cần thì đăng thông báo tuyển dụng Như vậy, công tác giáo
dục, tuyên truyền về nhu cầu nhân lực, về trách nhiệm trong đào tạo nguồn
nhân lực cần phải được làm tốt hơn nữa, để mọi cơ quan, tổ chức, doanh
nghiệp đều nhận thấy được trách nhiệm của mình trong vấn đề này.
- Doanh nghiệp cần có thông tin về nhu cầu nhân lực của mình cho cơ sở
đào tạo, hỗ trợ tài chính và tham gia vào quá trình đào tạo,xây dựng đào
tạo nguồn nhân lực.
- Cần có những mức lương thỏa đáng, hấp dẫn
- Bên cạnh đó cũng cần phải thắt chặt quản lí công nhân cũng như giám sát
để nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm.
- Tổ chức công đoàn cũng cần phải linh hoạt luôn quan tâm và bảo vệ quyền
lợi của người lao động.
Cuộc khảo sát mới đây của Cty Grant Thornton tiến hành trên 34 quốc gia
và vùng lãnh thổ cho thấy, nhiều DN hiện xem nguồn lao động là một tài sản
quý báu. Họ chú trọng đến công tác đào tạo và bồi dưỡng cho nhân viên
nhiều hơn bao giờ hết. 69% DN ở VN nói rằng họ chi cho công tác đào tạo
với mức chi phí nhiều hơn so với trước đây, trong khi trung bình của thế giới

chỉ có 63% DN làm việc này.
15
Nhóm 02 – 1302FECO1611
Bản báo cáo về tình hình lao động, nguồn nhân lực mới đây của VCCI cũng
chỉ ra , cần tăng cường hơn nữa sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và
DN để thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu cầu xã hội mà Chính phủ và
Bộ GD - ĐT đề ra. Các hiệp hội DN và các DN cũng đã có những ký kết cụ
thể với cơ sở giáo dục đào tạo. Tức là DN đặt hàng ngành giáo dục đào tạo
trong việc cung ứng lao động chất lượng cao. Các DN không thể đứng ngoài
hệ thống giáo dục đào tạo, chỉ đòi hỏi, yêu cầu, đặt hàng, mà họ phải trở
thành một trong những chủ thể quan trọng nhất của đào tạo, chủ động tổ
chức đào tạo để đáp ứng nhu cầu của chính mình và của xã hội.
Để nâng cao trình độ người lao động, không còn cách nào khác, chính các
DN phải chủ động và có những giải pháp cụ thể. Chẳng hạn, các DN cần có
những chính sách ưu đãi riêng để “chiêu mộ” người lao động có trình độ
chuyên môn cao, tay nghề vững về làm việc trong đơn vị mình. Ngoài việc
chiêu mộ lao động có tay nghề cao, từng DN cần phối hợp với các trường kỹ
thuật tiến hành đào tạo, đào tạo lại để người lao động có điều kiện hoàn
thiện tay nghề và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của công việc. Các chuyên gia
cũng cảnh báo rằng: Nếu lãnh đạo DN không bắt tay vào việc phát triển
nhân tài cho chính DN của mình thì sẽ phải trông chờ vào nơi khác, hoặc
phải dùng lương cao và phúc lợi hấp dẫn hơn để thu hút những người mà
chưa chắc kiến thức và kỹ năng của họ khiến bạn hài lòng 100%.
Có thể thấy, nâng cao trình độ cho người lao động, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người lao động và thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần cho họ là một cách thiết thực, cụ thể và nó đang là những nhiệm vụ
hàng đầu của cộng đồng DN. Bởi ai cũng hiểu rằng, chăm lo tốt cho người
lao động chính là nghĩa vụ trước pháp luật, là tố chất nhân văn của chủ DN
đối với người lao động và là đạo đức kinh doanh, văn hóa - văn minh của
doanh nghiệp VN trong giai đoạn hiện nay.

4.Các thể chế giáo dục và đào tạo
- Các trường học từ cấp phổ thông cho đến các trường dạy nghề, cao đẳng
đại học cần phải có đầy đủ thiết bị, dụng cụ học tập để phục vụ cho học tập.
16
Nhóm 02 – 1302FECO1611
- Cơ sở đào tạo cần củng cố chất lượng đội ngũ giảng viên, đổi mới chương
trình đào tạo ,đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực không những về mặt kiến
thức mà cả về kỹ năng để làm chủ công nghệ. Vì vậy các giáo viên hiện nay
từ bậc tiểu học trở lên đều được học cách sử dụng máy vi tính, máy chiếu để
phục vụ cho việc dạy và học được tốt hơn.
- Ngoài ra phải tích cực đổi mới phương pháp, thực hiện học đi đôi với hành
để học sinh, sinh viên cũng như những người lao động có thể tiếp thu một
cách tốt nhất.
- Các trường phải có bộ phận quan hệ doanh nghiệp thuộc phòng đào tạo để
lắng nghe những phản hồi về đào tạo của mình tạo ra, cũng như yêu cầu từ
doanh nghiệp để hoàn chỉnh hơn.
- Việc đào tạo đáp ứng được nhu cầu xã hội, phải có sự phối hợp giữa “3
nhà”,phải gắn đào tạo với đòi hỏi thực tế xã hội, của thị trường lao động.:
Nhà nước, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Các cơ sở đào tạo cần đi sâu, đi
sát với doanh nghiệp để nắm bắt được những yêu cầu chung nhất của ngành
nghề. Rà soát để ngừng đào tạo những ngành nghề khó kiếm việc làm và mở
ra những ngành mới mà xã hội đang cần.
- Mặt khác các ngành chức năng sẽ phải làm tốt hơn công tác quản lí,kiểm
soát.
17
Nhóm 02 – 1302FECO1611
DANH SÁCH THÀNH VIÊN
NHÓM 02
ST
T

Họ tên Điểm nhóm đánh
giá
Ghi chú
1 Vũ Thị Thu Hà Nhóm trưởng
2 Bùi Thị Ngọc Giang
3 Hoàng Thị Giang
4 Bùi Thị Dung
5 Trịnh Thị Hương Giang
6 Nguyễn Trung Đức
7 Lê Văn Hải
8 Nguyễn Thị Hải
9 Nguyễn Thị Hà
10 Ngô Thanh Hà
18

×