Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 65 trang )

Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
MUÏC LUÏC
  
Chương 1: Lý thuyết về phá giá đồng nội tệ Trang
1.1./ Khái niệm .......................................................................................................4
1.2./ Những tác động...............................................................................................5
1.2.1./ Ngắn hạn.......................................................................................................5
1.2.2./ Trung hạn......................................................................................................6
1.2.3./ Dài hạn..........................................................................................................6
1.3./ Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ.....................................................................7
1.4./ Điều kiện để phá giá thành công ....................................................................7
1.4.1./ Phương pháp tính độ co giãn:.......................................................................7
1.4.2./ Phương pháp hấp thu:...................................................................................8
1.4.3./ Phương pháp tiền tệ :....................................................................................9
1.5./ Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ............................................................9
1.5.2./ Những mặt lợi mà Trung Quốc có được từ phá giá: ..................................10
1.5.1./ Cụ thể hành động của chính phủ: ..............................................................13
1.6./ So sánh độ mở nền kinh tế Việt Nam năm 2008 và Trung Quốc giai đoạn
1993-1994 .............................................................................................................18
Chương 2: Đề xuất giảm giá VND của nhóm nghiên cứu đại học Harvard
2.1./ Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam..............................................................19
2.1.1./ Thuận lợi để thực hiện đề xuất giảm giá VND...........................................19
2.1.1.1./ CPI tăng:..................................................................................................19
2.1.1.2./ Lạm phát ở mức cao:..............................................................................21
2.1.1.3./ Các biện pháp hành chính thời gian qua tỏ ra không có hiệu quả:..........23
2.1.1.4./ Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài:..............................................29
Trang 1
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
2.1.1.5./ Thu nhập quốc dân tăng cao:..................................................................33


2.1.1.6./ VND đang bị định giá cao: ....................................................................36
2.1.1.7./ Những yếu tố khác làm cho tỷ giá USD/VND tăng ..............................49
2.1.2./ Khó khăn khi thực hiện đề xuất giảm giá VND.........................................50
2.2./ Đánh giá tác động của việc giảm giá VND đối với Việt Nam......................52
2.2.1./ Những tác động tích cực của việc giảm giá VND......................................52
2.2.2./ Những tác động tiêu cực của việc giảm giá VND......................................54
2.2.2.1./Ảnh hưởng đến các ngành xuất khẩu.......................................................54
2.2.2.2./Tác động đến các ngành sản xuất trong nước...........................................57
2.2.2.3 ./Tác động đến thị trường ngoại tệ trong nước..........................................58
2.2.2.4./ Tác động tâm lý người dân và các doanh nghiệp...................................58
2.2.2.5./ Tác động đến các khoản nợ của chính phủ và DN trong nước................59
2.2.2.6./ Tỷ giá, lạm phát & lãi suất.......................................................................60
2.2.2.7./ Tác động đến cán cân tài khoản vãng lai.................................................61
Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ cho đề xuất giảm giá VND
3.1./ Giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu trước biến động tỷ giá: sử dụng các
công cụ phái sinh của ngân hàng thương mại .....................................................62
3.2./ Hiện nay, VND mang rủi ro lớn nhất chính là “mất niềm tin”...................62
3.3./ Điều chỉnh ưu tiên của đầu tư công.............................................................62
3.4./ Thành lập tổ công tác đặc biệt về đầu tư công............................................63
3.5./ Không được đánh mất sự kiểm soát đối với tăng trưởng cung tiền và tín
dụng.....................................................................................................................64
3.6./ Cần phải khuyến khích cạnh tranh..............................................................64
Trang 2
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Chương 1:
LÝ THUYẾT VỀ PHÁ GIÁ ĐỒNG NỘI TỆ
  
1.1./ Khái niệm:
Giảm giá tiền tệ là việc giảm giá trị của đồng nội tệ so với vàng hoặc ngoại tệ

của các quốc gia khác. Hai khái niệm phá giá và giảm giá thường được dùng lẫn lộn
nhưng giữa chúng vẫn có sự khác biệt. Điểm khác biệt lớn nhất: giảm giá là việc giá
trị đồng nội tệ được điều chỉnh theo quy luật cung cầu của thị trường hối đoái; còn
Phá giá thì việc giảm giá là kết quả từ quyết định chính sách của chính phủ.
Giai đoạn tiền kim loại, giá trị của tiền được xác định thông qua lượng kim loại
quý trong mỗi đồng. Do đó, một tiền tệ được đánh giá quá cao hay quá thấp khi
đồng tiền được đính trên hay dưới giá trị của kim loại trong lúc tính toán với các
tiền tệ khác trên thế giới. Chính phủ một nước, khi cần tiền, họ sẽ giảm lượng kim
loại trong mỗi đơn vị tiền mà không thông báo, hoặc ra một chỉ thị để buộc người
dân phải chấp nhận đồng tiền mới với giá trị như đồng tiền cũ. Từ đó dần tới phá
giá tiền tệ.
Ngày nay, tiền được phát hành và chỉ tồn tại đến chừng nào mà người tham gia
trên thị trường cho là tiền này vẫn còn một giá trị nhất định. Đối với những nước
theo chế độ tỷ giá thả nổi, giá trị của một đồng tiền được phép dao động trên thị
trường ngoại hối. Trong khi đó, tỷ giá cố định là nói đến việc một đồng tiền được
gắn với giá trị một đồng tiền khác hay với một rổ các đồng tiền khác hay với một
thước đo khác như vàng chẳng hạn. Khi đó, giá trị tham khảo tăng hoặc giảm thì giá
trị của đồng tiền neo vào cũng tăng hoặc giảm. Do mỗi chế độ tỷ giá đều có những
bất lợi và thuận lợi riêng, nên hiện nay phần lớn các quốc gia lựa chọn một chế độ ở
giữa, chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết. Theo đó, tỷ giá sẽ được xác định theo quan
hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối nhưng vẫn có sự can thiệp của chính phủ.
Giảm giá (phá giá) nay được sử dụng như một công cụ nhằm khắc phục sự thâm hụt
cán cân thanh toán. Một đồng nội tệ yếu sẽ gia tăng sản xuất, tạo công ăn việc làm
Trang 3
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
cho xã hội, tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu,cải thiện cán cân thanh toán. Nhưng
nếu không kiểm soát được mức độ giảm giá thì hậu quả sẽ khôn lường.
1.2./ Những tác động:
1.2.1./ Ngắn hạn:

Khi giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc thì ngay lập tức việc phá giá tiền
tệ sẽ làm cho tỷ giá hối đoái thực tế thay đổi theo, nâng cao sức cạnh tranh của quốc
gia và có xu hướng làm tăng xuất khẩu ròng vì hàng xuất khẩu rẻ đi một cách tương
đối trên thị trường quốc tế còn hàng nhập khẩu đắt lên tương đối tại thị trường nội
địa. Tuy vậy có những yếu tố làm cho xu hướng này không phát huy tức thì: các
hợp đồng đã thoả thuận trên cơ sở tỷ giá cũ, người mua cần có thời gian để điều
chỉnh hành vi trước mức giá mới và quan trọng hơn là việc dồn các nguồn lực vào
và tổ chức sản xuất không thể tiến hành nhanh chóng được. Như vậy trong ngắn hạn
thì số lượng hàng xuất khẩu không tăng mạnh và số lượng hàng nhập khẩu không
giảm mạnh. Nếu giá hàng xuất khẩu ở trong nước cứng nhắc thì kim ngạch xuất
khẩu chỉ tăng không nhiều đồng thời giá hàng nhập khẩu tính theo nội tệ sẽ tăng lên
do tỷ giá đã thay đổi dẫn đến cán cân thanh toán vãng lai có thể xấu đi.
Phá giá còn làm gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài. Khi phá giá, đồng nội tệ có
thể rớt giá hàng chục phần trăm so với USD, dẫn đến số nợ phải trả cũng theo đó
mà tăng vọt. Số nợ này bao phủ lên cả khu vực công lẫn khu vực tư. Những công
ty-ngân hàng bản địa có cơ cấu nợ nước ngoài cao sẽ đối mặt với nguy cơ phá sản
hoặc bị thâu tóm. Trên khía cạnh vĩ mô, investment grade đối với trái phiếu chính
phủ nước đó bị đánh tụt hạng hoặc không được xếp hạng, đồng nghĩa với việc nước
đó không thể huy động vốn từ các nhà đầu tư quốc tế. Điều này càng làm tăng khó
khăn cho việc huy động vốn để thực hiện công cuộc tái thiết. GDP và tài sản tính
theo USD bị thu hẹp hoặc giảm giá đáng kể, dẫn đến việc người dân cố sống cố
chết bán tài sản trước khi quá muộn, đồng thời một phần lớn tài sản quốc gia bị
nước ngoài thâu tóm.
Tác động của chính sách giảm giá tới chi phí và giá cả phụ thuộc vào tỷ lệ giữa
chi phí đầu vào bằng ngoại tệ và bằng nội tệ.
 Nếu chi phí bằng ngoại tệ gia tăng cùng một tốc độ với tổng chi phí ( chi phí
bằng ngoại tệ chiếm tỷ trong lớn hơn trong tổng chi phí) thì chính sách giảm giá sẽ
ít ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa đầu ra (đặc biệt là giá cả nội địa ).
Trang 4
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế

của nhóm nghiên cứu Harvard
 Ngược lại, nếu chi phí ngoại tệ chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi phí
thì tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá cả hàng hóa xuất khẩu và ít tác động
đến hàng hóa nội địa.
Cần lưu ý rằng tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái thay đổi còn phụ thuộc vào khả
năng và mức độ tự nguyện giảm giá bán của nhà cung cấp.
1.2.2./ Trung hạn:
GDP hay chính là tổng cầu gồm các thành tố chi cho tiêu dùng của dân cư, chi
cho đầu tư, chi cho mua hàng của chính phủ và xuất khẩu ròng. Việc phá giá làm
tăng cầu về xuất khẩu ròng và tổng cung sẽ điều chỉnh như sau:
 Nếu nền kinh tế đang ở dưới mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực
nhàn rỗi sẽ được huy động và làm tăng tổng cung.
 Nếu nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm năng thì các nguồn lực không thể
huy động thêm nhiều và do đó tổng cung cũng chỉ tăng lên rất ít dẫn đến việc tăng
tổng cầu kéo theo giá cả, tiền lương tăng theo và triệt tiêu lợi thế cạnh tranh của
việc phá giá. Vì thế trong trường hợp này, muốn duy trì lợi thế cạnh tranh và đạt
mục tiêu tăng xuất ròng thì chính phủ phải sử dụng chính sách tài chính thắt chặt
(tăng thuế hoặc giảm mua hàng của chính phủ) để tổng cầu không tăng nhằm ngăn
chặn sự tăng lên của giá cả trong nước.
1.2.3./ Dài hạn:
Nếu như trong trung hạn, phá giá tiền tệ kèm theo chính sách tài chính thắt chặt
có thể triệt tiêu được áp lực tăng giá trong nước thì trong dài hạn các yếu tố từ phía
cung sẽ tạo ra áp lực tăng giá. Hàng nhập khẩu trở nên đắt tương đối và các doanh
nghiệp sử dụng đầu vào nhập khẩu sẽ có chi phí sản xuất tăng lên dẫn đến phải tăng
giá; người dân tiêu dùng hàng nhập khẩu với giá cao hơn sẽ yêu cầu tăng lương và
gây áp lực làm cho tiền lương tăng. Cuối cùng việc tăng giá cả và tiền lương trong
nước vẫn triệt tiêu lợi thế cạnh tranh do phá giá. Các nghiên cứu thực nghiệm cho
thấy lợi thế cạnh tranh do phá giá bị triệt tiêu trong vòng từ 4 đến 5 năm.
1.3./ Tại sao chính phủ phá giá tiền tệ
Chính phủ sử dụng biện pháp phá giá tiền tệ để có thể nâng cao năng lực cạnh

tranh một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn so với cơ chế để nền kinh tế tự điều
Trang 5
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
chỉnh theo hướng suy thoái (vì khả năng cạnh tranh kém nên cầu xuất khẩu ròng
giảm dẫn đến tổng cầu giảm) đi kèm với mức lạm phát thấp kéo dài cho đến khi
năng lực cạnh tranh tăng lên (do tiền lương, giá cả giảm xuống đến mức có khả
năng cạnh tranh). Chính phủ các nước thường sử dụng chính sách phá giá tiền tệ khi
có một cú sốc mạnh và kéo dài đối với cán cân thương mại.
Trong thị trường cầu về nội tệ giảm thì chính phủ sẽ phải dùng ngoại tệ dữ trữ
để mua nội tệ vào nhằm duy trì tỷ giá hối đoái và đến khi ngoại tệ dự trữ cạn kiệt thì
không còn cách nào khác, chính phủ phải phá giá tiền tệ. Dùng dự trữ ngoại tệ để
khống chế tỷ giá là việc bán ra USD với giá rẻ hơn giá thị trường nhằm khống chế
tỷ giá cao hơn giá trị thực của nó, mà thực tế là lên giá tương đối bản tệ. Đến khi tỷ
giá danh nghĩa vượt quá xa tỷ giá thực tế mà nhà nước lại không đủ lượng dự trữ
ngoại hối để bán ra với giá rẻ thì sẽ phải thả nổi tỷ giá, tỷ giá danh nghĩa sẽ rơi tự
do xuống tỷ giá thực của nó. Đây là việc phá giá một cách bị động, ảnh hưởng rất
tiêu cực đối với nền kinh tế, mà điển hình là cuộc khủng hoảng của Mexico và
Thailand.
Ngoài ra, ngân hàng nhà nước có thể liên tục dùng 1 lượng VND nhất định để
mua USD trên thị trường, trực tiếp tác động tới cung cầu, qua đó điều tiết tỷ giá,
làm phá giá nhẹ VND, ưu tiên xuất khẩu, giảm nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh
toán. Đây là một cách phá giá chủ động nhằm hướng tới các mục tiêu vĩ mô.
1.4./ Điều kiện cần thiết đế phá giá thành công:
Một đợt phá giá muốn gọi là thành công thì nó phải cải thiện cán cân
thanh toán. Có ba phương pháp.
1.4.1./ Phương pháp tính độ co giãn:
Tác động của chính sách phá giá phụ thuộc vào tính co giãn theo giá của cầu
nội địa với hàng nhập khẩu và cầu nước ngoài đối với hàng xuất khẩu.Chỉ số này
cho thấy nhu cầu sẽ thao đổi bao nhiêu % khi giá cả tăng( giảm ) 1%. Nhu cầu càng

ít thay đổi theo giá thì tác động của chính sách càng giảm.
 Điều kiện Marshall- Lerner:
Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, để cho việc phá giá tiền tệ có tác
động tích cực tới cán cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co dãn theo
Trang 6
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
giá cả của xuất khẩu và độ co dãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1. Điều
kiện này đặt theo tên của hai học giả kinh tế đã phát hiện ra nó, đó là Alfred
Marshall và Abba Lerner.
Phá giá dẫn tới giảm giá hàng xuất khẩu định danh bằng ngoại tệ, do đó nhu cầu
đối với hàng xuất khẩu (ngoại nhu) tăng lên. Đồng thời, giá hàng nhập khẩu định
danh bằng nội tệ trở nên cao hơn, làm giảm nhu cầu đối với hàng nhập khẩu.
Hiệu quả ròng của phá giá đối với cán cân thanh toán tùy thuộc vào các độ co
dãn theo giá. Nếu hàng xuất khẩu co dãn theo giá, thì tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng
hóa sẽ lớn hơn tỷ lệ giảm giá; do đó, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng. Tương tự, nếu
hàng nhập khẩu co dãn theo giá, thì chi cho nhập khẩu hàng hóa sẽ giảm. Cả hai
điều này đều góp phần cải thiện cán cân thanh toán.
Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, hàng hóa thường không co dãn theo giá cả
trong ngắn hạn, bởi vì thói quên tiêu dùng của người ta không thể thay đổi dễ dàng.
Hơn nữa, giá cả trong ngắn hạn chưa chắc đã thay đổi do chi phí vận chuyển, hợp
đồng. Do đó, điều kiện Marshall-Lerner không được đáp ứng, dẫn tới việc phá giá
tiền tệ chỉ làm cho cán cân thanh toán trong ngắn hạn xấu đi. Trong dài hạn, khi
người tiêu dùng đã điều chỉnh thói quen tiêu dùng của mình theo giá mới, cán cân
thanh toán mới được cải thiện.
1.4.2./ Phương pháp hấp thu:
Phương pháp phân tích tác động của sự phá giá hoặc giảm tỷ giá hối đoái của
một nước đối với cán cân thương mại.
Ta có : Y = C + I + G + (X - M)
C + I + G : a

X – M : b
 b = Y – a
Công thức này giải thích những tác động trung hạn đã nói ở phần trên. Khi nền
kinh tế hoạt động dưới sản lượng tiềm năng, chính sách giảm giá sẽ bù đắp vào sản
lượng xuất khẩu và khuyến khích tiêu dùng hàng hóa thay thế hàng nhập khẩu.
Trang 7
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Nhưng chính sách này lại không phù hợp với nền kinh tế đã ở mức sản lượng tiềm
năng. Vì khi đó, tác động của nó chỉ có thể làm chậm nền kinh tế.
1.4.3./ Phương pháp tiền tệ :
Trong khi hai phương pháp trên chỉ áp dụng đối với cán cân thương mại thì
phương pháp này bao gồm cả tài khoản vốn. Phương pháp này giải thích tác động
dài hạn của chính sách.
1.5./ Trung Quốc phá giá đồng Nhân dân tệ:
Về chính sách tỷ giá hối đoái, quá trình chuyển đổi của Trung Quốc cũng có
những giai đoạn phát triển tương tự như Việt Nam. Bước đầu tiên của quá trình này
là giai đoạn để cho tỷ giá ấn định trước đây thả nổi theo sát với những diễn biến của
tỷ giá trên thị trường. Đây gần như là bước tất yếu để đưa yếu tố thị trường vào
trong cơ chế xác định tỷ giá đối với hầu hết các nước tiến hành chuyển đổi cơ chế
quản lý nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết
và định hướng của nhà nước.
Thực tế, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh liên tục tỷ giá hối đoái danh nghĩa
biến động theo hướng giảm giá trị của đồng nội tệ cho phù hợp với sức mua của
đồng Nhân dân tệ bị đánh giá cao trước đây. Cụ thể từ 1979 đến 1993 (14 năm),
Trung Quốc đã điều chỉnh mạnh tỷ giá hối đoái 7 lần. Xu hướng điều chỉnh là phá
giá mạnh đồng nhân dân tệ.
Nhóm thuyết trình sẽ tập trung vào giai đoạn từ năm 1990 – 2005. Những mốc
thời gian chủ yếu:
 Từ năm 1991, Trung Quốc hướng tới chuyển đổi chế độ tỷ giá cố định sang

chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên, tỷ giá chính thức vẫn ít được áp dụng
hơn tỷ giá thị trường.
 Từ năm 1993, thị trường ngoại hối giữa các doanh nghiệp phát triển mạnh
hơn và hơn 80% sử dụng tỷ giá của thị trường. Sự sai lệch giữa tỷ giá chính thức và
tỷ giá thị trường gây ra những tác động tiêu cực, lượng ngoại tệ do dân cư nắm giữ
rất lớn trong khi dự trữ ngoại hối của quốc gia còn hạn chế.
Trang 8
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
 Từ năm 1994, Trung Quốc có nhiều chuyển biến lớn trong việc điều hành
chính sách tỷ giá: đưa tỷ giá chính thức lên mức cân bằng với tỷ giá thị trường để
thống nhất hai tỷ giá và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, tạo điều kiện cho
việc chuyển đổi đồng Nhân dân tệ.
 Đến giữa tháng 7/2005 Trung Quốc đã bất ngờ tuyên bố tăng giá đồng nhân
dân tệ (NDT) từ 8,277 lên 8,11 NDT ăn 1 USD, tương đương 2,1%, chấm dứt một
thập niên duy trì tỷ giá cố định của đồng tiền này với đồng USD.
1.5.1./ Cụ thể hành động của chính phủ:
Đầu những năm 1990, 1 USD chỉ có thể đổi từ 5,8 đến 5,9 nhân dân tệ.
Biểu đồ 1.1: Diễn biến tình hình tỷ giá USD/RMB giai đoạn 1990 - 2005
Cho đến năm 1993, mặc dù phá giá liên tục và với biên độ lớn như vậy, tổn thất
xuất khẩu do tỷ giá (đánh giá cao đồng NDT) gây ra vẫn rất lớn. Lý do là vì tỷ giá
NDT/USD có mặt bằng xuất phát “phá giá” quá thấp nên dù phá giá mạnh như vậy,
mức tỷ giá vẫn chưa đạt đến điểm “hòa vốn” cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Bắc
Kinh cảm thấy phải có biện pháp hỗ trợ mạnh cho xuất khẩu, một đòn bẩy quan
trọng cho tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc đã quyết định định giá lại đồng bản tệ,
mà thực chất là làm cho nhân dân tệ trượt giá tới 50%. Biên độ phá giá lên tới 50%:
từ mức 5,8 NDT/1USD năm 1993 xuống 8,7 NDT/1USD kể từ ngày 1/1/1994. Năm
1995, tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã giảm xuống. Kể từ đây đến 2005, Trung Quốc
Trang 9
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế

của nhóm nghiên cứu Harvard
ấn định tỷ giá ngoại tệ ở mức 8,2-8,3 nhân dân tệ đổi 1 USD và coi đây là cơ chế tỷ
giá thả nổi có kiểm soát. Tuy nhiên, dưới con mắt của các chuyên gia tài chính quốc
tế, thực chất đây là một tỷ giá cố định.
Khi chính phủ bắt đầu chuyển đổi sang chế độ tỷ giá thả nổi, để giảm bớt những
tác động của chính sách tỷ giá lên thị trường tiền tệ, Trung Quốc đã ban hành một
loạt các quy định hỗ trợ như:
 Thực hiện chế độ ngân hàng kết hối.
 Xoá bỏ sự ghìm giá và tăng giá ngoại hối của các công ty.
 Xây dựng thị trường giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng.
 Cải tiến cơ chế hình thành tỷ giá hối đoái.
 Cải tiến và hoàn thiện quản lý thu chi.
 Kết toán ngoại hối.
 Xoá bỏ kế hoạch mang tính mệnh lệnh đối với thu chi ngoại hối…
Thực hiện đồng thời với việc kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng trung ương:
 Đối với các hoạt động ngoại hối ở các ngân hàng thương mại bằng cách quy
định ngân hàng nào được phép chuyển đổi và với số lượng là bao nhiêu. Các ngân
hàng này có toàn quyền hoạt động trong thị trường ngoại hối.
 Đối với các công ty nước ngoài, Trung Quốc yêu cầu phải có bảng cân đối
ngoại tệ hàng năm.
 Đối với các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài phải có giấy phép đổi
ngoại tệ mạnh sang Nhân dân tệ.
 Còn đối với doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước yêu cầu phải nộp 100% ngoại
tệ thu được thay vì 50% như trước đây...
Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện một sự phối hợp khá linh hoạt và mềm dẻo
giữa chính sách tỷ giá với chính sách tiền tệ, tài chính. Sau khi có nhiều biện pháp
Trang 10
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
quản lý chặt ngoại hối đầu những năm 90, từ năm 1994 - 1996 Trung Quốc đã có

những điều chỉnh quản lý ngoại hối lỏng hơn như :
 Cho phép các công ty xuất khẩu tăng tỷ lệ giữ ngoại tệ.
 Các công ty nước ngoài từng bước được giao dịch, mua bán các loại ngoại tệ
mạnh, tạo điều kiện để đồng Nhân dân tệ xâm nhập nhanh hơn vào thị trường tiền tệ
Thế giới…
Năm 1998, để bảo vệ đồng NDT trước tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
- tiền tệ khu vực, một lần nữa Trung Quốc lại quay lại kiểm soát chặt chẽ thị trường
ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và găm giữ giảm những dự kiến về phá giá đồng
NDT. Song song với việc quản lý chặt trên thị trường ngoại hối, để giảm bớt sức ép
đối với xuất khẩu và sự tăng trưởng của nền kinh tế, Chính phủ Trung Quốc đã phối
hợp với các chính sách tiền tệ nới lỏng và kích cầu.
Trong năm 1998, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất tiền cho vay và tiền
gửi bằng đồng NDT, lãi suất tái chiết khấu cũng giảm 1,91%, đồng thời với việc
giảm cả lãi suất với các tiền gửi bằng ngoại tệ. Kết hợp với chính sách lãi suất là
chính sách hạ thấp tỷ lệ dự bắt buộc, tăng hoạt động nghiệp, vụ thị trường mở của
ngân hàng trung ương, chính sách hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, kích thích tiêu
dùng của các tầng lớp dân cư….
Bảng 1.1: Tình hình lãi suất và một số chỉ số của thị trường tiền tệ 1998.
Chỉ tiêu 20/03/98 01/07/98 06/12/98
Lãi suất tiền cho vay giảm
(%)
1,6 0,49 0,27
Lãi suất tiền gửi giảm (%) 0,6 1,12 0,55
Lãi suất tiền gửi USD (%) 4,875 4,250 3,755
Nguồn: IMF
Tác động của một loạt những phối hợp trong chính sách để điều chỉnh này là
cách gián tiếp giảm giá đồng NDT, giảm sức ép phá giá đồng NDT đè nặng lên
chính sách tỷ giá của Trung Quốc.
Trang 11
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế

của nhóm nghiên cứu Harvard
1.5.2./ Những mặt lợi mà Trung Quốc có được từ phá giá:
 Hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc rẻ đi rất nhiều, có sức cạnh tranh mạnh
trên thị trường quốc tế. Nhờ vậy, trong nhiều năm qua, Trung Quốc liên tục thặng
dư thương mại.
Nguồn: IMF
Biểu đồ 1.2: T ình hình xuất nhập khẩu Trung Quốc giai đoạn 1990 – 2004
 Cũng nhờ câu chuyện định giá đồng nội tệ, Trung Quốc đã tăng được một
lượng lớn dự trữ ngoại tệ.
Trang 12
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard

Biểu đồ 1.3: Dự trữ ngoại hối của Trung Quốc từ năm 1996 - 2005
 Không chỉ nhanh chóng đẩy mạnh xuất khẩu, chiếm lĩnh nhiều thị phần quan
trọng trên thị trường quốc tế mà phá giá còn tạo cơ sở để Trung Quốc có thể trở lại
duy trì chính sách tỷ giá ổn định trong một thời gian dài, giảm thiểu những rủi ro
hối đoái và tạo môi trường hấp dẫn thu hút mạnh các nguồn đầu tư nước ngoài.
Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu các nước đang phát triển về mức độ thu hút đầu
tư nước ngoài cả trực tiếp và gián tiếp.
Trong thu hút đầu tư, Trung Quốc đã thay thế Mỹ trở thành nước thu hút FDI
(vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài) lớn nhất thế giới. Nếu như trước năm 2001, khi
Trung Quốc chưa gia nhập WTO, số vốn FDI đổ vào đất nước này mới là 6,5 tỷ
USD thì đến năm 2002 đã là 52 tỷ USD.
Trang 13
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Bảng 1.2: Tình hình tỷ giá và đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc 1994 – 1997
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Tỷ giá hối đoái trung bình năm NDT/USD 8,4462 8,3174 8,2982 8,2798

Đầu tư trực tiếp (triệu USD) 317897 33849 38066 41673
Vốn từ các công ty - thị trường (Triệu USD) 3543 789 1744 6804
Nguồn: IMF
 Cán cân thanh toán được cải thiện:
Bảng 1.3: Cán cân tài khoản vốn c ủa Trung Qu ốc giai đo ạn 1994 – 2003
Trang 14
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Biểu đồ 1.3: Cán cân thanh toán giai đoạn 1990 – 2005
 Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã phải chấp nhận trả giá bằng một mức
lạm phát cao không mong muốn năm 1994 là 24,24%, cao hơn năm 1993
Trang 15
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
24,24/ 14,58 = 66, 25%, lớn hơn mức ảnh hưởng thông thường của tỷ giá hối
đoái đến mức giá cả hàng hoá - dịch vụ của một nước (Theo thống kê của
các nhà kinh tế là <50%). Thực tế này có thể được giải thích do sự cộng
hưởng của các tác động của chính sách tiền tệ trước đó.
Bảng1.4: Tình hình kinh tế Trung Quốc những năm 1994 - 1997.
Chỉ tiêu 1994 1995 1996 1997
Lạm phát (% năm) 24,24 16,90 8,32 2,80
Tỷ giá hối đoái (trung b.nh NDT/USD) 8,6187 8,3514 8,3142 8,2898
Nguồn: IMF
Bảng 1.5 : Tình hình diễn biến của chính sách tiền tệ giai đoạn 1990 - 1997.
Năm 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Lãi suất
ngân hàng
(% năm)
7,92 7,20 7,20 10,08 10,98 10,44 9,00 8,55
Mức cung

tiền (M1)
701,0 898,8 1171,4 1676,1 2154 2597 3066,3 3834
Tỷ lệ tăng
trưởng của
M1(%)
20,15 28,22 30,33 43,08 28,51 20,57 18,07 25,00
Trang 16
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Bảng1.6: Tăng trưởng tiền tệ và tín dụng ở Trung Quốc, 2001 -2005
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Tăng trưởng M2 (%) 14.4 16.8 19.6 14.6 17.6
Tăng trưởng tín dụng (%) 6.4 30.7 19.6 10.9 13.6
Đơn vị: 100.000 RMB
1.6./ So sánh độ mở nền kinh tế Việt Nam năm 2008 và Trung Quốc
giai đoạn 1993-1994:
So sánh với nền kinh tế Việt Nam hiện nay:
Các số liệu xuất khẩu đã cho thấy hàng hóa Trung Quốc kém cạnh tranh. Trong
năm 1993, thâm hụt thương mại của Trung Quốc là 11.77 tỷ USD,khoảng 1,84 %
GDP. Trung Quốc thời điểm này là một nền kinh tế đóng với sản lượng xuất khẩu
chỉ chiếm 15% GDP. Phá giá đồng tiền đã giúp cải thiện tính cạnh tranh của hàng
xuất khẩu khi giá trị xuất khẩu đã tăng lên 32,9 % trong năm 1994 và tạo thặng dư
cán cân thương mại.
Năm 2007, thâm hụt thương mại khoảng 12,44 tỷ USD. Năm 2008, con số này
tăng lên khoảng 20 tỷ USD. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP khoảng 68%. Điều này
cho thấy Việt Nam 2008 có nền kinh tế “mở “ hơn Trung Quốc thời điểm 1994. Do
đó, viễn cảnh của việc tăng thâm hụt thương mại và xuất khẩu giảm dần sẽ ảnh
hưởng tới Việt Nam nhiều hơn đối với Trung Quốc trước kia.
Kết luận:
Trang 17

Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Với chính sách phá giá đồng nội tệ, Việt Nam cần phải rất thận trọng do tác
động của nó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế sâu sắc hơn đối với Trung Quốc giai
đoạn 1993-1994.
Chương 2:
ĐỀ XUẤT GIẢM GIÁ VND
CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU HARVARD
  
2.1./ Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam:
Đề xuất này được nhóm nghiên cứu đại học Harvard đưa ra vào ngày 01/01/2009.
Cho nên, toàn bộ phần 2.1./ sẽ hướng tới tổng hợp và phân tích các chỉ tiêu kinh tế -
xã hội Việt Nam từ tháng 1 năm 2009 trở về trước.
2.1.1./ Thuận lợi để thực hiện đề xuất giảm giá VND:
2.1.1.1./ CPI tăng:
Trang 18
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
 Trong khoảng 8 tháng đầu năm, biểu đồ CPI tạo thành những đường dốc
đứng, trồi lên, sụt xuống kế tiếp nhau. “Nhịp điệu” tăng CPI tạo thành những đợt
sóng, vượt lên một tháng lại giảm tốc hai tháng mà đỉnh của những “con sóng” CPI
rơi vào các tháng 2, 5 và 8.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ 2.1: CPI qua các năm
 Nếu tính sau một năm (tức là tháng 12 năm 2008 so với năm 2007), thì năm
2008 là năm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có tốc độ tăng cao nhất so với 16 năm trước
đó (năm 1992 tăng 17,5%, năm 1993 tăng 5,2%, năm 1994 tăng 14,4%, năm 1995
tăng 12,7%, năm 1996 tăng 4,5%, năm 1997 tăng 3,6%, năm 1998 tăng 9,2%, năm
1999 tăng 0,1%, năm 2000 giảm 0,6%, năm 2001 tăng 0,8%, năm 2002 tăng 4%,
năm 2003 tăng 3%, năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, năm 2006 tăng

6,6%, năm 2007 tăng 12,63%).
 Nếu tính bình quân năm (tức là bình quân năm nay so với bình quân năm
trước), thì CPI năm 2008 cũng là năm có tốc độ tăng cao nhất so với 15 năm trước
đó (năm 1993 tăng 8,5%, năm 1994 tăng 9,5%, năm 1995 tăng 17,8%, năm 1996
tăng 5,7%, năm 1997 tăng 3,2%, năm 1998 tăng 7,7%, năm 1999 tăng 4,4%, năm
2000 giảm 1,6%, năm 2001 giảm 0,3%, năm 2002 tăng 3,9%, năm 2003 tăng 3,1%,
năm 2004 tăng 7,8%, năm 2005 tăng 8,3%, năm 2006 tăng 7,5%, năm 2007 tăng
8,3%).
Tuy nhiên, chỉ số CPI lại giảm liên tục trong 3 tháng cuối năm. Tính chung
cả quý 4, CPI đã giảm 1,06% trong khi 3 tháng cùng kỳ năm trước tăng 4,95%.
Trang 19
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ 2.2: CPI qua các tháng năm 2008
Trước tình hình trên Chính phủ đã có những giải pháp vừa cơ bản, vừa linh hoạt
để xử lý. Việc chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ tăng trưởng kinh tế nhanh sang kiềm
chế lạm phát, với 8 nhóm giải pháp, trong đó giải pháp hàng đầu là thắt chặt tiền tệ
trong những tháng đầu năm, là đúng hướng, kịp thời và đã đạt được kết quả tích
cực. Sau đó, việc chuyển đổi mục tiêu ưu tiên từ kiềm chế lạm phát sang ngăn chặn
sự suy thoái kinh tế với 5 giải pháp cấp bách, trong đó có giải pháp hàng đầu là kích
cầu đầu tư, tiêu dùng, là đúng hướng và kịp thời.
2.1.1.2./ Lạm phát ở mức cao:
 Năm 2008, lạm phát của Việt Nam ước tính 21%, cao nhất kể từ năm 1992
trở lại đây. Để bình ổn nền kinh tế, Chính phủ đã sử dụng hàng loạt biện pháp mạnh
vào quý II/2008, trong đó có việc điều chỉnh mức tăng trưởng GDP năm 2008 từ
8,5% xuống 7% và thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Chỉ
số CPI bắt đầu giảm từ tháng 6/2008 và giữ mức tăng thấp, thậm chí giá trị âm đến
tận những tháng cuối năm.
 Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2004-2007 là 7-8%, đến tháng 5/2008 là 25,3%. Bên

cạnh đó, việc đầu cơ đã dẫn đến giá nhà, bất động sản hay chứng khoán liên tục
tăng giá, đặc biệt là trong năm 2007. Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam cũng cao hơn
Trang 20
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
nhiều so với Thái Lan trong cuộc khủng hoảng năm 1997 (trung bình ở mức
10%/năm).

Nguồn: GSO, BVSC
Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam hiện cao hơn nhiều so với Thái Lan trong
cuộc khủng hoảng năm 1997 - trung bình ở mức 10%/năm
 Có hai nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam:
 Neo tỷ giá cứng nhắc với USD dẫn đến cung tiền tăng mạnh:
 Kinh tế Việt Nam trẻ, được đánh giá có nhiều tiềm năng và triển vọng về
cơ hội đầu tư do vậy sau khi gia nhập WTO, lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam tăng đột biến (chỉ tính riêng năm 2007 đã tới 20 tỉ USD).
 Về nguyên tắc khi luồng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam tăng, Việt
Nam Đồng (VND) sẽ lên giá để tạo ra điểm cân bằng. Tuy nhiên, với chiến lược
phát triển dựa vào xuất khẩu, NHNN Việt Nam phát hành VND mua lại lượng
ngoại tệ này với mục đích kìm tỉ giá của VND với đồng Đô la Mỹ (USD) thấp hơn
điểm cân bằng nhằm nâng cao tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu về giá cả. Giữ
VND yếu có thể coi là một hình thức trợ giá cho hàng xuất khẩu và phát huy ở trong
những điều kiện kinh tế thế giới nhất định.
 Tuy nhiên, mặt trái thứ nhất của chính sách này là do phải tung VND ra
mua lại lượng ngoại tệ chảy vào, lượng cung tiền của Việt Nam từ năm 2005 đến
nay tăng tổng cộng 135%. Đây là mức tăng rất lớn mặc dù NHNN đã có nỗ lực hút
lại một phần cung tiền.
Trang 21
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard

 Neo tỷ giá với USD đang mất giá mạnh trên toàn cầu khiến chi phí cho sản
xuất trong nước tăng.
 Cũng trong vài năm gần đây, do thâm hụt thương mại khổng lồ đồng USD
của Mỹ đã mất giá so với những đồng ngoại tệ mạnh khác. Cộng thêm vào đó, cuộc
khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ vào cuối năm 2007 khiến nền kinh tế này
bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD mất giá nhiều hơn nữa, giá xăng dầu
tính theo đồng USD tăng mạnh.
 Biểu đồ 2.4 cho thấy chỉ tính từ năm 2006 đến nay đồng USD đã mất giá
trung bình khoảng 15% so với các đồng ngoại tệ mạnh khác như Euro, Yên Nhật,
Bảng Anh, và đồng Nhân dân tệ Trung Quốc.
Nguồn: Datastream
Biểu đồ 2.4: Tăng giá của các ngoại tệ mạnh so với USD từ năm 2006.
 Do đó qua việc neo tỉ giá, VND cũng giảm trung bình 15% so với các
ngoại tệ mạnh khác. Chính sách VND yếu mặc dù có thể thúc đẩy xuất khẩu nhưng
đồng thời lại góp phần “nhập khẩu lạm phát “vào Việt Nam.
 Lí do là sản xuất tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc rất lớn vào các nguyên
vật liệu nhập khẩu như xăng dầu, xi măng, sắt thép, máy móc… Sự mất giá của
USD hay nói cách khác là sự tăng giá thành của các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu
cho sản xuất tính bằng VND dưới chế độ tỷ giá neo là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
chi phí sản xuất trong nước tăng, kéo theo giá cả hàng hóa tăng theo.
Chi phí cho sản xuất tăng cao, lượng cung tiền lớn do vậy lạm phát phi mã
là không tránh khỏi. VND mất giá so với các ngoại tệ khác góp phần đáng kể vào
việc tăng giá thành của hàng nhập khẩu, khiến cán cân thương mại bị thâm hụt lớn.
Trang 22
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
2.1.1.3./ Các biện pháp hành chính thời gian qua tỏ ra không có hiệu
quả:

Lạm phát cao ở nước ta có nguyên nhân từ giá cả thế giới tăng cao, nhưng

chủ yếu là do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, chính sách tiền tệ, tài khoá chưa thật
phù hợp, kém hiệu quả; chất lượng và tính bền vững của nền kinh tế thấp; công tác
chỉ đạo điều hành, nhất là về kinh tế vĩ mô tuy đã có bước tiến bộ nhưng còn nhiều
bất cập.
 Chính sách nới lỏng tiền tệ trong nhiều năm, đặc biệt là năm 2007, làm
tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng tăng cao, gây áp lực trực tiếp
đến lạm phát.
Nguồn: Số liệu theo Báo cáo Chính phủ 6/5/2008
Biểu đồ 2.4: Dư nợ tín dụng qua các năm
 Sang quí III/2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ đã bắt đầu lan rộng, giá
cả trên toàn thế giới suy giảm, góp phần kiềm chế lạm phát những tháng cuối năm,
nhưng Ngân hàng nhà nước vẫn duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ, lãi suất ngân
vẫn duy trì quá cao, đến tận tháng 10/2008 lãi suất cơ bản vẫn ở mức 13%/năm và
lãi suất cho vay vẫn ở khoảng 19-21%/năm.
Trang 23
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
Biểu đồ 2.5: Diễn biến lãi suất năm 2008
 Chỉ đến khi nền kinh tế bộc lộ sự phát triển trì trệ, giá tiêu dùng giảm
phát vào tháng 10 và có dấu hiệu tiếp tục giảm phát CPI, chính phủ mới mạnh dạn
nới lỏng hơn chính sách tiền tệ mạnh tay giảm lãi suất cơ bản 4% xuống còn 10%
trong vòng 6 tuần.

Chính sách tiền tệ thắt chặt của Ngân hàng Nhà nước đã kiểm soát lạm
phát một cách thành công. Tuy nhiên, nó vẫn có điểm hạn chế.
 Điểm hạn chế thứ nhất của chính sách tiền tệ trong năm 2008 là ở thị trường
ngoại hối. Nếu giữ chính sách tỷ giá cố định trong hoàn cảnh nền kinh tế thế giới
bất ổn, dòng chu chuyển vốn phức tạp cùng với nền kinh tế “đô la hóa” cao của Việt
Nam thì sẽ rất khó cho chính sách kiểm soát tiền tệ.
 Trên thị trường tự do, dấu hiệu tăng tỷ giá bắt đầu xuất hiện từ cuối tháng

3/2008 khi chênh lệch với tỷ giá chính thức (do hệ thống ngân hàng công bố theo
điều chỉnh và giám sát của Ngân hàng Nhà nước) từ 150-250 VND/USD. Ngày
18/3/2008, phương án giao dịch với tỷ giá thỏa thuận tại các ngân hàng thương mại
đã được Vụ Quản lý ngoại hối cân nhắc.
Bảng 2.1: Thống kê biến động tỷ giá VND
Trang 24
Nghiên cứu đề xuất giảm giá từng bước VND để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard
 Không chịu sự kiểm soát của một mức cơ bản hay biên độ dao động, tỷ
giá áp dụng trên thị trường tự do liên tục tăng lên. Trong tháng Năm, tỷ giá đã tới
gần sát 18.000 VND/USD. Sang tháng 6, có thời điểm đô-la Mỹ bán ra với giá
19.700 VND/USD trước khi lùi dần về mức 18.000 VND/USD vào cuối tháng. Mức
thay đổi lớn trong khoảng thời gian ngắn tạo nên trạng thái khan hiếm và khó khăn
trong giao dịch chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô-la Mỹ. Tại các địa điểm giao
dịch tư nhân, tỷ giá được xác định theo từng lần giao dịch. Mức chênh lệch giữa
mua vào và bán ra tương đối lớn, từ 200 đến 300 đồng với một đô-la Mỹ. Cá biệt,
khảo sát vào ngày 19/6/2008 ghi nhận khoảng cách này lên tới 1.000 đồng.
 Trong nỗ lực bình ổn thị trường, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ
giá bình quân liên ngân hàng tăng 2%, từ 16.139 VND/USD lên 16.461 VND/USD
vào ngày 11/6/2008. Trước đó, ngày 6/6/2008, biện pháp giám sát hành chính chặt
chẽ được áp dụng nhằm chấm dứt các hoạt động trao đổi tự do đồng Việt Nam và
đô-la Mỹ- không tuân theo tỷ giá qui định và biên độ dao động ± 1%. Trước áp lực
tỷ giá tăng cao, ngày 27/6/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đồng ý nới rộng
biên độ giao dịch lên mức ± 2%.
Cùng với các kết quả cải thiện kinh tế vĩ mô trong tháng Sáu, các điều chỉnh
tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước đã phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức của hệ
thống ngân hàng và thị trường tự do đang dần hội tụ.
Trang 25

×