Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Nghiên cứu đề xuất hạ giá từng bước Việt Nam đồng để kích thích kinh tế của nhóm nghiên cứu Harvard

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 113 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý điều
hành tỉ giá là một nội dung quan trọng mà ngân hàng nhà nước phải quan tâm
nhằm mục đích ổn định tỉ giá và đạt được mục tiêu cuối cùng là tăng trưởng
kinh tế.
Ở Việt Nam, tỉ giá đã bước đầu hình thành, phát triển trong một thời gian
và có vai trò lớn đối với nền kinh tế đặc biệt trong quá trình chuyển đổi từ cơ
chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Tỉ giá giúp so sánh sức mua,
giá trị giữa các đồng tiền tạo điều kiện cho các giao dịch quốc tế; tỉ giá cũng ảnh
hưởng tới tình hình xuất nhập khẩu của quốc gia và là một công cụ điều tiết vĩ
mô đầy hiệu quả. Với những tác động và vai trò to lớn của tỉ giá thì nhà nước
cần thiết phải điều hành quản lý tỉ giá để đảm bảo cho nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng, phát triển cao; đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu như hiện nay.
Nắm bắt được những yêu cầu đặt ra ở trên, chính phủ Việt Nam đã có
chương trình hợp tác nghiên cứu kinh tế Fulbright phối hợp với Trung tâm Châu
Á của Trường Harvard Kenedy School nhằm nghiên cứu và tìm ra được những
hướng đi cho chính sách tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Vậy bản cáo Harvard đã đề xuất những phương án như thế nào đối với
chính sách quản lý tỷ giá hiện nay, cũng như những đề xuất của nhóm nghiên
cứu Harvard có hoàn tòan phù hợp với tình hình hiện tại của Việt Nam hay
không? Xuất phát từ những quan điểm nêu trên, nhóm chúng em đã thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu đề xuất hạ giá từng bước Việt Nam đồng để kích thích kinh tế
của nhóm nghiên cứu Harvard” để hiểu biết thêm về tỉ giá, cũng như tình hình
chính sách quản lỳ tỉ giá của Việt Nam trong tình hình hiện tại. Vì thời gian làm
đề tài ngắn, kinh nghiệm và hiểu biết còn hạn chế; Do đó, quá trình thực hiện
chắc chắn còn có những sai sót, mong cô hiểu, thông cảm và đóng góp để đề tài
của nhóm chúng em hoàn thiện hơn.
Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn.
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
0.1 TỶ GIÁ
0.1.1 Khái Niệm:
Ngày nay trong quan hệ thanh toán quốc tế hầu hết các nước, các tổ chức,
cá nhân đều sử dụng ngoại tệ. Việc quy đổi đồng tiền nước này sang đồng tiền
nước khác được gọi là hối đoái quốc tế. Khi thực hiện quy đổi một đồng tiền
nước này ra đồng tiền nước khác phải theo một tỉ lệ nhất định, được gọi là tỉ giá
hối đoái.
Về hình thức, tỉ giá là giá cả của một đồng tiền của nước này được biểu
hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ biến đổi của nước khác.
Về bản chất, tỉ giá là quan hệ về mặt giá trị giữa các đồng tiền khác nhau
với nhau, phản ánh về sự so sánh về sức mua của các đồng tiền đó. Ví dụ:
o Tỉ giá giữa đồng đô la Mĩ với đồng Việt Nam như sau:
VNĐ=16 000 có nghĩa là 1 USD = 16 000 VNĐ.
o Tỉ giá giữa đồng đô la Mĩ với đồng mác Đức như sau:
USD/DEM=1.8125 có nghĩa là 1 USD = 1.8125 DEM.
Với các khái niệm nêu trên, tỷ giá hối đoái là phạm trù kinh tế tồn tại
khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường. Mọi sự biến động tỷ giá đều có
thể dẫn đến sự thay đổi chính sách ngoại thương, giá cả, lãi suất… từ đó tác
động trực tiếp đến tài sản và thu nhập… của các nước. Tỷ giá hối đoái ngày
càng đóng vai trò quan trọng không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của
quốc gia và kinh tế thế giới trước xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
0.1.2 Vai Trò Của Tỉ Giá:
Tỉ giá là một phạm trù kinh tế quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội
của mỗi nước, là công cụ để đo lường giá trị giữa các đồng tiền và do vậy có tác
động như một công cụ cạnh tranh trong thương mại quốc tế, một công cụ quản
lý kinh tế, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới giá cả, tới mọi hoạt động kinh tế - xã hội

GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của nước đó và các nước có liên quan. Cụ thể chúng ta có thể xác định vai trò
của tỉ giá như sau:
Thứ nhất, tỉ giá là đại lượng xác định quan hệ về mặt giá trị, so sánh sức
mua giữa các đồng tiền với nhau, hình thành nên tỉ lệ trao đổi giữa các đồng tiền
khác nhau với nhau để thuận tiên cho các giao dịch quốc tế.
Thứ hai, tỉ giá có tác động to lớn đến thương mại quốc tế, xuất-nhập khẩu
hàng hoá, dịch vụ của một nước với nước khác.
Thứ ba, chính phủ các nước đã lợi dụng các tác động của tỉ giá đến nền
kinh tế để điều tiết nền kinh tế hay nói cách khác tỉ giá được sủ dụng với vai trò
là một công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua các tác động sau đây:
 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với cán cân thương mại.
 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với lạm phát.
 Tác động của tỷ giá hối đoái đối với đầu tư quốc tế.
0.1.3 Quá Trình Hình Thành Của Tỉ Giá:
0.1.3.1 Tỉ Giá Ngang Giá Vàng Trong Chế Độ Bản Vị Vàng:
Từ năm 1880 cho đến đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914, chế độ tỉ
giá được áp dụng là chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này, vàng được sử dụng
làm nền tảng cơ sở của tiền tệ và một quốc gia sẽ xác định đơn vị tiền tệ của
mình bằng hàm lượng vàng chứa bên trong một đơn vị ấy. Ví dụ:
 . Hàm lượng vàng chứa trong 1 USD = 1.504g vàng (trước năm
1914).
 . Hàm lượng vàng chứa trong 1 GBP = 7.320g vàng (trước năm
1914).
Còn tỉ giá được xác định trên cơ sở ngang giá hàm lượng vàng tức đông
giá vàng. Ví dụ như tỉ giá giữa GBP và USD: 1 GBP/1 USD = 7.320/1.504 =
4.867, vậy 1GBP tương đương với 4.867 USD.
Tỉ giá giữa các đồng tiền được xác định một cách chính xác như vậy
nhưng trên thực tế tỉ giá không cố định và luôn biến động xung quanh đồng giá

vàng tuỳ theo quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường. Biến động của tỉ giá
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
luôn nằm trong giới hạn nhất định đó là chi phí vận chuyển vàng. Điểm thấp
nhất và điểm cao nhất của tỉ giá so với đồng giá vàng được gọi là điểm vàng.Vì
trong điều kiện tièn giấy được tự do chuyển đổi ra vàng, vàng được tự do luân
chuyển giữa các nước đã giữ cho tỉ giá biến động không vượt quá điểm vàng.
Phạm vi biến động của tỉ giá phụ thuộc vào chi phí vận chuyển vàng. Khi
tỉ giá tăng đến điểm vàng cao nhất, tại thời điểm này vàng ở trong nước chạy ra
nước ngoài nên được gọi là điểm xuất vàng. Ngược lại tỉ giá giảm đến điểm
vàng thấp nhất, tại thời điểm này vàng chạy từ nước nước ngoài vào trong nước
nên gọi là điểm nhập vàng. Điểm xuất vàng của nước này sẽ là điểm nhập vàng
của nước kia.
Lợi thế của tỷ giá hối đoái trong chế độ bản vị vàng là biên độ biến thiên
của tỷ giá nhỏ nên quan hệ mua bán quốc tế cũng như hoạch định đầu tư thuận
lợi dễ dàng giữa các nước.
0.1.3.2 Tỷ Giá Hối Đoái Trong Chế Độ Tiền Tệ Bretton Woods:
Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918), chế độ bản vị
vàng hoàn toàn sụp đổ, các nước tư bản chủ nghĩa chủ trương khôi phục lại chế
độ bản vị vàng không trọn vẹn, đó là chế độ bản vị hối đoái vàng thông qua
đồng Bảng Anh (1924), sau đó là đồng USD của Mỹ (1944).
Cụ thể vào tháng 7-1944, để tránh tình trạng kinh tế yếu kém như trước
chiến tranh, chính phủ các nước đồng minh vào cuối thế chiến thứ hai đã gặp
nhau tại một cuộc hội nghị của Liên Hợp Quốc về tiền tệ và tài chính. Hội nghị
được tổ chức tại Bretton Woods, New Hamphshire, Hoa Kì. Tại hội nghị hai tổ
chức đã được thiết lập, đó là:
• Quỹ tiền tệ quốc tế ( The International Monetary - IMF ).
• Ngân hàng quốc tế nhằm mục đích tái thiết và phát triển ( thường
gọi là ngân hàng thế giới - World Bank ).
Và cũng từ đó, đồng tiền USD của Mỹ được các nước chấp nhận sử dụng

trong quan hệ thanh toán quốc tế và được IMF xác định tiêu chuẩn giá cả với 1
USD = 0,888671 gam vàng. Chính vì vậy mà đã hình thành tỷ giá cố định giữa
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
USD với đồng tiền các nước trong IMF. Để giữ vững tỷ giá cố định với USD,
các nước trong IMF chỉ được mua bán ngoại tệ theo tỷ giá trong phạm vi biên độ
± 1% so với tỷ giá chính thức. Để giữ vững tỷ giá vàng IMF còn quy định giá
vàng là 35 USD/ounce vàng. Như vậy trong trường hợp nếu giá vàng trên thị
trường vượt qua 35 ounce vàng thì Mỹ tung vàng ra bán với giá 35 USD/ounce
vàng và ngược lại, khi giá vàng dưới 35 USD/ounce vàng thì Mỹ tung USD ra
và mua vàng về.
Với chế độ tiền tệ này, các nước đã duy trì được tỷ giá cố định trong thời
gian tương đối dài cho đến năm 1960. Bắt đầu từ sau năm 1960, nền kinh tế Tây
Âu và Nhật được phục hồi và có khả năng cạnh tranh với Mỹ, hơn nữa đồng
USD của Mỹ đã bị khủng hoảng và suy yếu, các nước dự trữ USD ngày càng
nhiều, đã lần lượt tấn công vào kho vàng của Mỹ, buộc Mỹ chuyển đổi USD ra
vàng. Sau hai lần phá giá USD hàm lượng vàng của 1 USD là 0.736662 g vàng.
Tình hình này làm cho kho dự trữ vàng của Mỹ tụt xuống thấp nhất và chính
thức ngày 13. 2.1973 Mỹ đơn phương tuyên bố chế độ tiền tệ Bretton Woods
sụp đổ và hầu hết các nước tư bản đều thi hành chính sách thả nổi của đồng tiền
nước mình.
0.1.3.3 Tỉ Giá Hối Đoái Sau Chế Độ Tiền Tệ Bretton Woods:
Sau khi chế độ tiền tệ Bretton Woods sụp đổ đến nay, các nước trên thế
giới chủ yếu lưu thông tiền giấy không chuyển đổi ra vàng trong lưu thông, hàm
lượng vàng chỉ mang tính chất tượng trưng, giá trị tiền tệ luôn thay đổi, tỷ giá
biến động không ngừng nên việc xác định tỷ giá không dựa trên đồng giá vàng
mà trên cơ sở so sánh sức mua của hai đồng tiền, bao gồm sức mua trong nước
và sức mua quốc tế gọi là ngang giá sức mua.
Trên thực tế tỉ giá được hoàn toàn xác định do quan hệ cung cầu ngoại hối
trên thị trường, tại mỗi thời điểm nhất định ở mỗi thị trường khác nhau trên thế

giới, tỉ giá biến động liên lục trong ngày, còn gọi là cơ chế tỉ giá thả nổi.
Tuy nhiên để tránh sự biến động thăng trầm quá mức của tỉ giá gây ảnh
hưởng không tốt đến mọi hoạt động trong nền kinh tế như gây ra lạm phát hay
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
suy thoái kinh tế, cần thiết phải có sự can thiệp quản lý của nhà nước. Thông
qua các công cụ quản lý vĩ mô, nhà nước chủ động điều chỉnh tỉ giá hối đoái
theo hướng có lợi cho nền kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và phát triển,
còn gọi là cơ chế tỉ giá thả nổi có quản lý.
0.1.4 Các Chế Độ Tỷ Giá Hối Đoái:
0.1.4.1 Chế Độ Tỷ Giá Hối Đoái Cố Định.
Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động thường xuyên, không phụ thuộc
vào quy luật cung – cầu, phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Chính phủ. Trong
một hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, tỷ giá hối đóai hoặc được giữ không đổi
hoặc chỉ được cho phép dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá hối đoái
bắt đầu dao động quá nhiều, các Chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ giá hối
đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này.
Trong hệ thống tỷ giá hối đoái cố định, các nhiệm vụ quản lý của một
công ty đa quốc gia ít khó khăn hơn. Tuy nhiên, vẫn có rủi ro là chính phủ sẽ
thay đổi giá trị của một đồng tiền nào đó. Việc giảm giá đồng tiền có thể khuyến
khích xuất khẩu, và qua đó tăng năng suất (và việc làm) của một nước, bởi vì nó
khuyến khích người tiêu thụ và các công ty nước ngoài mua hàng hóa tính bằng
đồng tiền bị giảm đó. Việc tăng giá (tăng giá trị) của một đồng tiền có thể làm
tăng cạnh tranh của các công ty nước ngoài đối với các công ty địa phương, do
đồng ngoại tệ có thể được mua với giá rẻ.
0.1.4.2 Chế Độ Tỷ Giá Hối Đoái Thả Nổi Tự Do.
Trong một hệ thống tỷ giá thả nổi tự do, tỷ giá sẽ được các lực thị trường
ấn định mà không có sự can thiệp của Chính phủ. Cơ sở cơ bản được sử dụng
làm căn cứ xác định tỷ giá hối đoái thả nổi là quan hệ cân bằng cung cầu ngoại
tệ trên thị trường ngoại hối.

Chế độ tỷ giá thả nổi cho phép xác định một tỷ giá danh nghĩa gần với sức
mua thực tế của đồng tiền các nước. Nó phản ánh tương đối xác thực những biến
đổi kinh tế của mỗi nước và sự thay đổi trong tương quan kinh tế giữa các nước
với nhau.
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một lợi điểm khác của tỷ giá thả nổi tự do là các ngân hàng trung ương
không bị đòi hỏi phải liên tục duy trì tỷ giá hối đóai trong biên độ đã định. Vì
vậy họ không bị bắt buộc phải thực hiện một chính sách can thiệp có thể tạo nên
những tác động không thuận lợi đối với nền kinh tế chỉ để kiểm sóat tỷ giá. Hơn
nữa, các chính phủ có thể thực thi những chính sách mà không cần bận tâm là
các chính sách này sẽ duy trì được tỷ giá trong các biên độ quy định hay không.
Cuối cùng, nếu tỷ giá không được phép thả nổi, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn của
mình vào bất cứ nước nào có lải suất thấp, hạn chế vốn của các nhà đầu tư đem
ra khỏi nuớc mình. Như vậy, sẽ có nhiều hạn chế dòng vốn và hiệu quả của thị
trường tài chính sẽ giảm sút
Nhưng, bên cạnh đó, khi phản ánh được sự thay đổi trong sức mua thực tế
của của đồng tiền, các khả năng thích ứng với các biến động lớn của nền kinh tế
và tạo khả năng thực thi chính sách tiền tệ chủ động của các chính phủ thì tỷ giá
hối đoái thả nổi lại gây ra những biến động tỷ giá hết sức thất thường, làm cho
sự lên giá – xuống giá của các đồng tiền không sao dự đoán được (làm tăng tính
rủi ro của tỷ giá hối đoái). Điều này làm tăng thêm những yếu tố gây mất ổn
định của các nền kinh tế, cản trở khả năng kiểm soát quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế của các chính phủ.
0.1.4.3 Chế Độ Tỷ Giá Hối Đoái Hỗn Hợp Giữa Cố Định Và Thả
Nổi.
Tỷ giá hỗn hợp giữa cố định và thả nổi là tỷ giá thả nổi nhưng có sự can
thiệp của Chính phủ để tác động đến tỷ giá hối đoái phục vụ chiến lược chung
của nước mình. Đó là một chế độ tỷ giá trung gian giữa tỷ giá cố định với tỷ giá
thả nổi, trong đó tỷ giá hối đoái cần phải có khả năng phản ảnh được những biến

động thường xuyên và đột ngột của các nhân tố ngắn hạn để duy trì được khả
năng ổn định trong dài hạn.
Một tỷ giá hối đoái như thế cần phải được điều chỉnh để duy trì ổn định
xung quanh một vùng mục tiêu nhất định. Vùng mục tiêu này được xác định
thay đổi ở những mức khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và trạng thái nền kinh
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tế trong những thời kỳ khác nhau. Việc vận dụng chế độ tỷ giá hỗn hợp hiện nay
ở các nước không chỉ khác nhau về mức độ của vùng mục tiêu mà còn khác
nhau về sự lựa chọn các cực và cơ sở để xác định tỷ giá. Khi các nước sử dụng
một hệ thống các công cụ để tác động vào thị trường ngoại hối nhằm đạt được
các mục tiêu về tỷ giá hối đoái, chính là quá trình điều hành chính sách tỷ giá
hối đoái của mỗi quốc gia trong giai đoạn hiện nay.
0.1.4.3.1 Hệ Thống Dãi Băng Tỷ Giá .
Một trong những sắp xếp tỷ giá hối đoái cố định nổi tiếng được Cộng
Đồng Kinh tế Âu Châu (EEC) lập tháng 4 năm 1972, khi các nước thành viên
cộng đồng ấn định rằng các đồng tiền của họ sẽ được duy trì trong vòng các giới
hạn được thiết lập đối với nhau. Sắp xếp này được gọi là dải băng tỷ giá.
Theo thể thức EMS, tỷ giá hối đoái của các nước thành viên cũng được
duy trì trong các giới hạn cụ thể quy định và cũng ràng buộc với Đơn Vị Tiền Tệ
Châu Âu (đồng ECU). Đồng ECU không phải là một đồng tiền, mà chỉ là đơn vị
tính toán . Đó là bình quân gia quyền của tỷ giá hối đoái của các nước thành
viên ,mỗi quyền số được ấn định bởi tổng sản phẩm quốc dân và hoạt động mậu
dịch nội bộ Châu Âu tương ứng của nước thành viên. Các đồng tiền của các
nước thành viên này có thể dao động không quá 2,25% (6%cho Ý) từ mức
ngang giá được lập ban đầu. Để tránh việc giá trị đồng tiền biến động vượt khỏi
biên độ đã quy định, các ngân hàng Trung ương can thiệp trong các thị trường
ngoại hối. Các nước thành viên hoàn toàn của EMS là Bỉ, Đan Mạch, Pháp ,Đức
,Ý, Luxembourg và Hà Lan. Hy Lạp , Tây Ban Nha và Anh cũng ký hiệp định
EMS nhưng lúc đầu quyết định không tham gia hệ thống tỷ giá hối đoái này.

Tháng 10/1990 Anh đồng ý gia nhập thể thức tỷ giá hối đoái của EMS .
Theo thể thức này , đồng bảng sẽ được phép giao động +_ 6% so với tỷ giá 2,95
mark Đức mỗi bảng.
Các tỷ giá trung tâm của vài đồng tiền ràng buộc với đồng ECU đã được
điều chỉnh nhiều lần giữa năm 1986 và 1991.
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mỗi đồng tiền ràng buộc với đồng ECU được phân bổ một tỷ giá gọi là tỷ
giá hối đoái trung tâm tương ứng với đồng ECU. Các tỷ giá được giao này ta có
thể xác định tỷ giá trung tâm giữa hai đồng tiền bất kỳ nào đó .Với tỷ giá trung
tâm của hai đồng tiền này, có thể xác định các giới hạn trên và dưới bằng cách
áp dụng biên độ +_ 2,25%.
Một vài chính phủ có thể không đồng ý về các tỷ giá hối đóai trung tâm
thích hợp. Ngòai ra, một vài chính phủ có thể thích một vùng mục tiêu rộng hơn
các chính phủ khác
Nếu các vùng mục tiêu được thực hiện ,các chính phủ sẽ chịu trách nhiệm
can thiệp để giữ cho các đồng tiền của mình nằm trong các vùng này. Nếu các
vùng vừa đủ rộng ,ít khi cần đến sự can thiệp của chính phủ . Tuy nhiên, các
vùng rộng như vậy về cơ bản sẽ gần giống như hệ thống tỷ giá thả nổi tự do. Các
chính phủ thường can thiệp khi giá trị của một đồng tiền biến động vượt khỏi
một vùng ẩn có thể chấp nhận được nào đó
Nếu các vùng mục tiêu hẹp, các chính phủ sẽ bị buộc phải can thiệp liên
tục, mà trong vòng một vài trường hợp sẽ làm trở ngại các chính sách kinh tế
khác
Nếu các chính phủ không thể duy trì giá trị của một đồng tiền trong phạm
vi mục tiêu, hệ thống này không thể tạo nên sự ổn định trong các thị trường quốc
tế. Một quốc gia đang chịu một thâm hụt cán cân mâu dịch lớn có thể cố ý cho
phép đồng tiền của mình thả nổi thấp hơn biên độ dưới để kích thích mức cầu
của nước ngoài đối với xuất khẩu của mình. Kết quả là có thể có các thay đổi
lớn trong các mẫu mực mậu dịch quốc tế. Hơn nữa , giá cả ở thị trường tài chính

sẽ biến động nhiều hơn vì những người tham gia thị trường tài chính sẽ kỳ vọng
một vài đồng tiền biến động vượt khỏi các vùng mục tiêu của chúng .Kết quả sẽ
là một hệ thống không khác biệt gì với hệ thống tỷ giá thả nổi tự do
0.1.4.3.2 Hệ Thống Tỷ Giá Con Rắn Tiền Tệ .
Hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ còn được gọi là neo tỷ giá có thể điều
chỉnh hay là các ngang giá trượt. Trong hệ thống này , một quốc gia ấn định một
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngang giá cho đồng tiền của mình và cho phép một thay đổi nhỏ xoay quanh
ngang giá chẳng hạn như cộng trừ 1% so với ngang giá. Lưu ý trong hệ thống
này là các giá trị danh nghĩa sẽ được thay đổi với số lượng nhỏ và thường là có
thông báo trước với khoảng thời gian thật cụ thể, chẳng hạn như mỗi tháng một
lần cho đến khi nào đạt đến tỷ giá cân bằng.
Các ngang giá này sẽ được điều chỉnh dần với số lượng nhỏ tuân theo
những chỉ dẫn trong hành vi các biến số của nền kinh tế như vị thế dự trữ ngoại
hối quốc gia, những thay đổi gần đây trong cung tiền hoặc giá cả hoặc những
thay đổi gần đây của tỷ giá xoay quanh ngang giá. Khi những biến số này tạo ra
những sức ép tiềm ẩn lên quốc gia chẳng han như dự trữ ngoại hối quốc gia suy
yếu, giá trị ngang giá của đồng tiền sẽ được phá giá một cách chính thức với một
tỷ lệ phần trăm rất nhỏ. Tất nhiên khi giá trị ngang giá thay đổi thì biên độ 1% sẽ
áp dụng cho ngang giá mới .
Để ngăn chặn khả năng đầu cơ gây mất ổn định trong tỷ giá hối đoái,
chính phủ có thể điều chỉnh lãi suất ngắn hạn để cách ly bất kỳ khoản lợi nhuận
nào có thể có do những thay đổi trong tỷ giá đã được thông báo trước hay nhà
đầu cơ có thể dự đoán được từ bản chất của hệ thống tỷ giá này. Chẳng hạn một
thông báo phá giá tiền tệ 2% phải đi kèm theo 2% tăng lên trong lãi suất ngắn
hạn , mặc dù điều này có thể ảnh hưởng đến việc điều hành chính sách tiền tệ
của chính phủ
Những người ủng hộ hệ thống tỷ giá con rắn tiền tệ cho rằng ít nhất về
mặt lý thuyết sự hiện hữu của mức trần và sàn tỷ giá có thể tạo ra tính kỷ luật

trong chính sách tiền tệ . Ngoài ra , tỷ giá thay đổi một cách định kỳ cũng có
nghĩa là vai trò của chính sách tỷ giá đối với việc điều chỉnh cán cân thanh toán
sẽ được duy trì . Cuối cùng , bởi vì chỉ có mỗi thay đổi với tỷ lệ nhỏ cho nên ít
có nguy cơ dẫn đến đầu cơ tiền tệ. Vào tháng 09/1996 ChiLê và Nicaragua đã
áp dụng thành công chế độ tỷ giá con rắn tiền tệ
Những tranh luận chống lại hệ thống này là một thay đổi lớn trong vị thế
cán cân thanh toán của một quốc gia do các cú sốc bên trong và bên ngoài sẽ cần
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có một thay dổi lớn để tái lập thế cân bằng cán cân thanh toán . Nếu cứ duy trì
liên tục hệ thống con rắn tiền tệ một cách nghiêm ngặt thì quốc gia đó có thể hy
sinh các mục tiêu bên trong như công ăn việc làm ,sức cạnh tranh hàng xuất
khẩu … Ngoài ra , nếu những thay đổi ngang giá nhỏ xảy ra định kỳ và nếu như
không dự đoán được sẽ làm phát sinh thêm những rủi ro trong đầu tư và thương
mại quốc tế . Cuối cùng trong điều kiện nền kinh tế không ổn định và có lạm
phát cao thì hệ thống này có thể chuyển sang giống như hệ thống tỷ giá thả nổi .
Columbia là một điển hình về thất bại trong việc áp dụng hệ thống tỷ giá neo
theo đồng đô la giai đoạn 1980-1990
0.1.4.3.3 Hệ Thống Tỷ Giá Thả Nổi Có Quản Lý .
Hệ thống tỷ giá hối đoái hiện hữu ngày nay đối với một vài đồng tiền nằm
đâu đó giữa cố định và thả nổi tự do . Nó giống hệ thống thả nổi tự do ở điểm
các tỷ giá được cho phép dao động hàng ngày và không có các biên độ chính
thức . Nhưng nó lại giống hệ thống cố định ở điểm các chính phủ có thể và đôi
khi can thiệp để tránh đồng tiền nước họ không đi quá xa theo một hướng nào
đó. Loại hệ thống này được gọi là thả nổi có quản lý , hay thả nổi “không hoàn
toàn” ( để đối lại với thả nổi “hoành toàn” khi tỷ giá thả nổi tự do không có sự
can thiệp của chính phủ )
0.1.4.3.4 Chế Độ Tỷ Giá Chuẩn Tiền Tệ:
Đây là một hệ thống tỷ giá hối đoái đặc biệt đã và đang áp dụng ở các
nước như Achentina, Hongkong, Estonia, Bungari và Lithuania để tạo niềm tin

cho các nhà đầu tư và chống lại những chi tiêu quá mức làm thâm hụt ngân sách
dẫn đến lạm phát cao.
0.1.5 Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tỉ Giá
0.1.5.1 Cung Cầu Về Ngoại Tệ:
Như chúng ta đã biết, đối với cung của một loại hàng hoá bất kỳ nào thì
sự thay đổi cung của hàng hoá đó luôn chịu giới hạn nhất định nhưng cung của
tiền có thể tăng đến vô hạn. Ngược lại cầu hàng hoá phụ thuộc vào nhu cầu sử
dụng, tích trữ, đầu cơ nên chúng ta có thể lượng ước được và tính toán được
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lượng cầu hàng hoá nhưng đối với tiền thì không, cầu tiền là vô hạn. Vì lẽ đó
cung cầu ngoại tệ thường xuyên thay đổi và không có giới hạn cho sự thay đổi
đó. Khi cung ngoại tệ vượt quá cầu ngoại tệ ngay lập tức giá ngoại tệ sẽ giảm
xuống ngược lại khi cầu ngoại tệ vượt quá cung ngoại tệ thì giá ngoại tệ sẽ tăng
lên và dẫn đến tỉ giá sẽ thay đổi. Như vậy mọi sự biến đổi của cung ngoại tệ
khác với sự biến đổi của cầu ngoại tệ đều tác động mạnh đến tỷ giá.
0.1.5.2 Tỷ Lệ Lạm Phát Tương Đối:
Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối có thể ảnh hưởng đến các hoạt
động thương mại, đến lượt những hoạt động thương mại này tác động đến cầu
tiền và cung tiền, và vì thế tác động đến tỷ giá hối đoái.
0.1.5.3 Lãi Suất Tương Đối:
Thay đổi trong lãi suất tương đối tác động đến đầu tư chứng khoán nước
ngoài, đến lượt nó đầu tư chứng khoán nước ngoài lại ảnh hưởng đến cung và
cầu tiền và vì thế ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái.
0.1.5.4 Lãi Suất Thực:
Trong khi lãi suất cao tương đối có thể thu hút dòng vốn nước ngoài (để
đầu tư vào các chứng khoán có lãi suất cao) thì lãi suất cao này có thể phản ánh
dự kiến lạm phát cao. Vì lạm phát cao có thể đặt áp lực giảm giá lên đồng tiền
của nước đó nên không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu
tư vào các chứng khoán định danh bằng đồng tiền này. Vì lý do đó, cần thiết

phải xem xét lãi suất thực, là lãi suất danh nghĩa đã điều chỉnh theo tỷ lệ lạm
phát. Theo hiệu ứng Fisher:
“Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lạm phát”
Chúng ta thường so sánh lãi suất thực giữa các quốc gia để đánh giá
những biến đông của tỷ giá hối đoái bởi lẽ nó kết hợp giữa lãi suất danh nghĩa
và tỷ lệ lạm phát mà cả hai nhân tố này đều ảnh hưởng đến tỷ giá. Khi các nhân
tố khác không đổi, sẽ có một tương quan cao giữa chênh lệch lãi suất thực của
hai quốc gia với tỷ giá của hai đồng tiền của hai nước đó.
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
0.1.5.5 Thu Nhập Tương Đối:
Nhân tố thứ ba tác động đến tỷ giá hối đoái là mức thu nhập tương đối.
Thu nhập của quốc gia 1 tăng trong khi thu nhập của quốc 2 lại không đổi thì tác
động : làm cho cầu đồng quốc gia 2 tăng do nhu cầu về hàng hóa quốc gia 2 của
người dân quốc gia 1 tăng, trong khi cung đồng quốc gia 2 không đổi và vì thế,
tỷ giá tăng lên.
0.1.5.6 Kiểm Soát Của Chính Phủ:
Chính phủ có thể tác động đến tỷ giá cân bằng qua nhiều cách khác nhau:
 Áp đặt những hàng rào cản về ngoại hối
 Áp đặt những rào cản về ngoại thương
 Can thiệp thị trường ngoại hối
 Tác động đến những biến động vĩ mô như lạm phát, lãi suất và thu
nhập quốc dân.
Các chính sách chính phủ thường áp dụng để tác động đến tỷ giá hối đoái:
 Chính sách chiết khấu: Đây là chính sách mà ngân hàng Trung
Ương bằng cách thay đổi lãi suất cho vay chiết khấu của mình để điều chỉnh tỷ
giá hối đoái trên thị trường.
 Chính sách hối đoái: Đây là chính sách mà Ngân hàng trung ương
can thiệp vào thị trường ngoại hối bằng cách mua bán ngoại hối trên thị trường.
 Phá giá tiền tệ: Đây là sự nâng cao một cách chính thức tỷ giá hối

đoái hay nói khác đi đó là việc nhà nước chính thức hạ thấp sức mua đồng tiền
nước mình so với ngoại tệ.
 Nâng giá tiền tệ: Đây là việc nhà nước chính thức nâng giá đơn vị
tiền tệ nước mình so với ngoại tệ, làm cho tỉ giá hối đoái giảm xuống. Ảnh
hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược
lại với phá giá tiền tệ, nghĩa là, nó có tác dụng hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh
nhập khẩu do đó nó góp phần duy trì sự ổn định của tỉ giá đảm bảo tỉ giá không
tụt xuống
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
0.1.5.7 Kỳ Vọng:
Giống như các thị trường tài chính khác, thị trường ngoại hối phản ứng lại
với các thông tin tương lai có liên quan đến tỷ giá.
Nhiều nhà đầu tư định chế (như các ngân hàng thương mại và các công ty
bảo hiểm) thực hiện vị thế tiền tệ dựa trên biến động lãi suất dự kiến ở các nước
khác nhau. Đương nhiên là có rủi ro xảy ra vì kỳ vọng có thể sai nhưng vấn đề ở
đây là kỳ vọng có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái vì chúng thúc đẩy các nhà
đầu tư định chế thực hiện các vị thế ngoại tệ.
Những giao dịch trong các thị trường ngoại hối làm cho hoặc là dòng
thương mại hoặc là dòng tài chính lưu chuyển dễ dàng hơn. Các giao dịch ngoại
hối có liên quan đến thương mại nhìn chung ít nhạy cảm với các tin tức hơn. Các
giao dịch tài chính rất nhạy cảm với các tin tức bởi lẽ việc quyết định nắm giữ
chứng khoán định danh bằng một loại tiền cụ thể phụ thuộc vào những thay đổi
dự kiến trong giá trị đồng tiền đó. Khi mà những tin tức ảnh hưởng đến biến
động dự kiến của tiền tệ, thì nó sẽ ảnh hưởng đến cung và cầu tiền. Vì những
giao dịch mang tính đầu cơ như thế nên tỷ giá hối đoái có thể rất bất ổn
Đầu cơ hàng ngày trên biến động tỷ giá tương lai chủ yếu bị tác động bởi
biến động lãi suất tương lai nhưng hành động đầu cơ này cũng có thể bị dẫn dắt
bởi các nhân tố khác.
Vì các dấu hiệu về các điều kiện kinh tế tương lai ảnh hưởng đến tỷ giá

hối đoái có thể thay đổi một cách nhanh chóng nên các vị thế đầu cơ tiền tệ điều
chỉnh ngay lập tức, tạo ra những mẫu hình khó xác định trong tỷ giá hối đoái.
Phản ứng quá mức xảy ra bởi lẽ các nhà đầu cơ thường thực hiện các vị thế dựa
vào các dấu hiệu của các hành động tương lai chứ không phải là khẳng định của
những hành động và những dấu hiệu này có thể bị dẫn dắt sai bởi các lực của thị
trường.
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN II. QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA LÃI SUẤT Ở VIỆT
NAM:
Quá trình tư do hóa lãi suất ở VN, chính là quá trình điều hành cơ chế lãi
suất qua các thời kỳ phát triển của nền kinh tế, quá trình đó được thể hiện như
sau:
0.2 Lãi Suất ở Thời Kỳ Thực Thi Cơ Chế Quản Lý Nền Kinh Tế
Theo Phương Thức Quản Lý Kế Hoạch Hóa Tập Trung (Trước Năm
1988):
 Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao
cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới.
 Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ
thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao
và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
0.2.1 Lãi Suất Thời Kỳ Nền Kinh Tế Bắt Đầu Chuyển Sang Nền Kinh
Tế Thị Trường Phát Triển Theo Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Có Sự Quản
Lý Của Nhà Nước (Từ Năm 1988 Đến Nay).
 Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh
vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội đồng
bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định
53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của
Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai pháp

lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và
công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước.
 Hai pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu:
Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp
phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại,
các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức
tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
và ngân hàng trong nền kinh tế.
 Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày 1.10.1998 Luật
ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có hiệu lực cho đến
nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động kinh doanh của hệ
thống ngân hàng trong nền kinh tế.
 Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta
thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền
kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của nước ta được thể hiện tổng quát như
sau:
0.2.1.1 Cơ Chế Thực Thi Chính Sách Lãi Suất Cố Định (1989-
5.1992):
 Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo
nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp
dụng ở các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế.
 Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc
biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ
quốc tế.
 Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời
kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm

sang cơ chế lãi suất thực dương.
0.2.1.2 Cơ Chế Điều Hành Khung Lãi Suất (6.1992-1995):
 Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi
suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay
đối với nền kinh tế.
 Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất
của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương,
đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có
hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở nước
ta.
0.2.1.3 Cơ Chế Điều Hành Lãi Suất Trần (1996-7.2000):
 Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà
nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã
thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương
mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra).
 Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát
lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền
trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam
Á.
0.2.1.4 Cơ Chế Điều Hành Lãi Suất Cơ Bản Kèm Biên Độ
(8.2000-5.2002):
 Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân
hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho
cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng
tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp
thời.
 Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương

mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ.
 Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết
tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất
trong nước vào thị trường khu vực và thế giới.
0.2.1.5 Cơ Chế Lãi Suất Thỏa Thuận (6.2002 – Nay):
 Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi
từng bước bắt đầu từ tháng 5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
theo 5.2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong
nước.
 Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở
VN bước đầu đã có kết quả nhất định.
0.3 THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI
ĐOÁI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
0.3.1 Thời Kỳ Từ Sau Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính – Tiền Tệ Khu
Vực Đến Trước Khi Việt Nam Gia Nhập WTO ( 1999 -2006):
0.3.1.1 Diễn Biến Tỷ Giá USD/VND Trong Giai Đoạn Này:
 Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, Chính phủ
đã có những điều chỉnh có tính chủ động hơn để chống đỡ tác động của cuộc
khủng hoảng và khắc phục tình trạng đánh giá cao VND.
 Từ ngày 26 tháng 2 năm 1999, tỷ giá hối đoái chính thức được
Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày, được xác định trên cơ sở tỷ giá bình
quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch
gần nhất trước đó. Đây là một sự thay đổi về cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá
cho phù hợp với quy luật thị trường vì tỷ giá chính thức theo cách xác định mới
có “căn cứ” là mức tỷ giá bình quân thực tế của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng, một thị trường chiếm đến khoảng 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị
trường.

 Những ưu điểm nổi bật của cách thức xác định tỷ giá mới này
có thể phân tích theo một số khía cạnh sau:
o Thứ nhất: Việc thay đổi về cơ chế quản lý điều hành tỷ giá đã tạo
quyền chủ động cho các NHTM trong việc tự qui định tỷ giá giữa đồng Việt
Nam với các ngoại tệ khác (không phải là USD)
o Thứ hai: Tỷ giá NHNN công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình
quân trên thị trường liên Ngân hàng, điều này phản ánh tỷ giá của đồng Việt
Nam được hình thành trên cơ sở giao dịch trên thị trường và phản ánh tương đối
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp chủ động hơn trong kinh doanh đồng thời vẫn đảm bảo được vai
trò kiểm soát của Nhà nước.
o Thứ ba: Trước đây, do tỷ giá NHNN công bố cứng nhắc không thực sự
phản ánh quan hệ cung cầu nên nếu thấy giá mua ngoại tệ của các ngân hàng
thấp thì các doanh nghiệp mang ngoại tệ ra thị trường tự do bán, ngược lại, nếu
mua ngoại tệ của các ngân hàng quá khó khăn thì mua trên thị trường tự do. Vì
thế, chỉ cần có những biến động nhỏ trong nền kinh tế cũng đủ tác động để mở
ra một khoảng cách rộng giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá các NHTM. Hiện
nay với cơ chế điều hành tỷ giá mới xuất phát từ cung cầu ngoại tệ giữa các
ngân hàng, nên nó sẽ gần gũi hơn với tỷ giá thị trường tự do và như vậy những
biến động để có thể tạo ra khoảng cách giữa tỷ giá thị trường tự do và tỷ giá của
các NHTM sẽ khó có thể xảy ra.
o Thứ tư: Với cơ chế điều hành tỷ giá trước đây, vì NHNN muốn ổn
định, không thay đổi, trong khi đó khả năng cung ứng ngoại tệ của NHNN cũng
như các NHTM thấp nên nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp cũng thường
xuyên không được đáp ứng điều này đã làm cho nhiều doanh nghiệp phải lao
đao khi phải đối mặt với các nhu cầu thanh toán đến hạn mức ngoài. Còn với cơ
chế điều hành tỷ giá như hiện nay thì bản thân tỷ giá tự do nó đã được điều
chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay nói cách khác chính nhu cầu của các doanh

nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung và cầu đều được thỏa mãn.
o Thứ năm: Khi tỷ giá không xuất phát từ quan hệ cung cầu thì mỗi lần
Nhà nước điều chỉnh tỷ giá đều tạo sức ép tâm lý nặng nề, nhất là khi tỷ giá
không được điều chỉnh sẽ tạo ra một bước nhảy đột ngột, người ta bắt đầu nghi
ngờ về một chủ trương nào đó, lòng tin vào đồng tiền có thể vì thế mà bị dao
động, tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ sẽ có cơ hội phát triển. Nhưng với cơ
chế mới, tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu, để giữ tỷ giá ổn định
hoặc điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu nào đó, NHNN chỉ việc điều chỉnh cung
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoặc cầu bằng cách bán ngoại tệ ra hoặc mua ngoại tệ vào và như vậy tất cả đều
hết sức tự nhiên, giảm bớt tâm lý hoang mang dao động.
o Thứ sáu: Trong cơ chế mới, tỷ giá hối đoái không phải đ ược điều
chỉnh mà là được hình thành trên thị trường, rõ ràng là nó mềm dẻo hơn, linh
hoạt hơn và vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hòa
nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới.
 Từ những điểm nêu trên cho thấy cơ chế điều hành tỷ giá mới
của NHNN không chỉ khắc phục được những hạn chế của cơ chế cũ mà còn phù
hợp với một nền kinh tế mở như điều kiện của nước ta hiện nay.
 Bên cạnh đó, biên độ quy định tỷ giá các NHTM được phép giao
dịch cũng không ngừng được đổi mới. Nếu như trong thời gian đầu 1999-2000,
khi mới thực hiện cơ chế này, NHNN còn qui định quá chi tiết các mức biên độ
và biên độ quá hẹp, được coi là vẫn can thiệp quá sâu vào công việc kinh doanh
của các NHTM, thì về sau cũng dần dần được chỉnh sửa theo hướng nới rộng
hơn.
 Trong năm 2001, cơ chế điều hành tỷ giá mặc dù vẫn thực hiện
theo nguyên tắc giá trung bình thị trường cộng thêm biên độ x% như đã quyết
định từ tháng 2/2000, nhưng các can thiệp kỹ thuật của NHNN đã được giảm
thiểu, vì vậy tỷ giá vận động khá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường
(chỉ số tăng giá USD so với VND cả năm đạt 3,8%). Điều này cho phép giảm

thiểu sức ép phá giá VND so với ngoại tệ khác.
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bảng 2.1: Tỷ giá hối đoái 1999-2006
N
ăm
Tháng 1 Tháng 6 Tháng
12
Bình
quân
C
hính
thức
T
ự do
C
hính
thức
T
ự do
C
hính
thức
T
ự do
C
hính
thức
T
ự do

1
999
1
3885
1
3896
1
3916
1
3948
1
4019
1
4104
1
3940
1
3972
2
000
1
4037
1
4168
1
4086
1
4206
1
4507

1
4617
1
4159
1
4265
2
001
1
4510
1
4620
1
4746
1
4853
1
5050
1
5120
1
4796
1
4825
2
002
1
5065
1
5135

1
5247
1
5317
1
5366
1
5438
1
5235
1
5305
2
003
1
5391
1
5421
1
5484
1
5469
1
5602
1
5750
1
5492
1
5575

2
004
1
5603
1
5695
1
5717
1
5672
2
005
1
5750
1
5818
1
5863
1
5809
2
006
1
5902
1
5996
1
6055
1
5984

Nguồn: Tổng hợp từ Bộ tài chính, NHNN, niên giám thống kê
Hình 2.1: Tỷ giá việt nam trong giai đoạn 1999-2006
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
 Một sự kiện quan trọng khác là từ ngày 02/6/2001, NHNN chính
thức chuyển sang thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất ngoại tệ. Các NHTM được
chủ động qui định các mức lãi suất USD trên cơ sở lãi suất giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng Singapore – SIBOR. NHNN chỉ qui định lãi suất tiền gởi
ngoại tệ của các NHTM và kho bạc Nhà nước tại NHNN.
 Trong giai đoạn 06 tháng cuối năm 2002, NHNN qui định 5 kỳ
hạn với biên độ tiếp tục được nới rộng:
o Tăng lên +/-0,25% so với mức +/-0,1% đối với nghiệp vụ giao ngay
o Tăng lên +/-0,5% so với mức +/-0,4% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn
30 ngày
o Tăng lên +/-2,5% so với mức 2,35% của nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn
trên 90 ngày...
o Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của các NHTM cũng
như các Doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng không bị
gò bó trong khuôn khổ chật hẹp trước đây.
 Năm 2003, tỷ giá USD/VND ở nước ta khá ổn định, mặc dù USD
mất giá mạnh so với các ngoại tệ chủ chốt khác và có diễn biến phức tạp trên thị
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trường ngoại hối quốc tế. Tại thị trường ngoại hối Việt Nam, USD giảm giá nhẹ
vào tháng 02/2003 (khoảng 0,05% so với tháng 01/2003) nhưng sau đó tăng giá
trở lại. Đầu tháng 12/2003, tỷ giá biến động cao do tin đồn thất thiệt về việc
NHNN phát hành 5 loại tiền mới ra lưu thông. Trên thị trường tự do có lúc đạt
16.000 USD/VND, sau đó lại giảm xuống. Tính bình quân cả năm 2003 tỷ giá
chỉ tăng 1,7%.
 Trong năm 2004, tỷ giá tương đối ổn định. Xét riêng trong 9 tháng

đầu năm 2004, tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá giao dịch USD/VND của
các NHTM và tỷ giá mua bán USD trên thị trường tự do chỉ tăng khoảng 100
-110 USD/VND, tương đương 0,69-0,7%, thấp hơn nhiều so với mức tăng
0,99% của cùng kỳ năm ngoái.
 Với mục tiêu bám sát cung - cầu ngoại tệ trên thị trường và
biến động tỷ giá giữa các ngoại tệ chủ chốt trên thị trường quốc tế, đồng
thời hạn chế bớt ảnh hưởng tiêu cực của sự biến động về giá trên thế giới và
trong nước, công tác điều hành tỷ giá trong 9 tháng đầu năm 2004 đã được
NHNN tiến hành thận trọng, linh hoạt, do đó về cơ bản đã duy trì được sự cân
bằng về cung – cầu ngoại tệ.
 Tính đến thời điểm cuối tháng 9/2004, tỷ giá mua bán USD/VND
của các NHTM dao động quanh mức 15.750/15.760 USD/VND, tỷ giá mua bán
USD/VND trên thị trường tự do dao động quanh mức 15.750/15.770
USD/VND. Như vậy, chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường
tự do đã thu hẹp đến mức hầu như không đáng kể (khoảng 10 USD/VND).
 Trong năm 2005, việc điều hành tỷ giá USD/VND đã đạt được sự
ổn định tương đối, cả năm chỉ tăng 0,86%, không tạo ra những bất lợi cho sự
phát triển kinh tế, khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu. Việc điều
hành tỷ giá đã gắn với quan hệ cung – cầu trên thị trường. Tỷ giá trên thị trường
tự do và trên thị trường liên ngân hàng không có sự chênh lệch đáng kể.
 Trong 6 tháng đầu năm 2006, tỷ giá USD/VND ổn định trong quí
I, tăng cao trong tháng 6 do ảnh hưởng của việc tăng giá dầu, giá vàng và do tâm
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lý của một bộ phận dân cư. Tỷ giá USD/VND trong tháng 6 có tăng nhưng giảm
0,3% so với tháng 5; tăng 0,6% so với tháng 12/2005 và giảm 1,1% so với cùng
kỳ năm trước. 06 tháng cuối năm 2006, NHNN tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá
thả nổi có quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục
tiêu chính sách kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất
khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.

 So với thời điểm đầu năm tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ tăng 1,38%, tỷ giá mua bán
trên thị trường tự do cũng luôn tăng, giảm theo biến động của tỷ giá bình quân
trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Doanh số mua bán ngoại tệ của các
NHTM trong năm cũng tăng mạnh theo mức độ của tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu cũng như mức tăng trưởng của nền kinh tế.
 Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO). Đối với nước ta, sự kiện này có một ý nghĩa đặc biệt.
 Đây là kết quả của quá trình đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng
nền kinh tế thị trường XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Gia nhập WTO
với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập kinh tế
quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức đó, lựa chọn những bước đi
đúng đắn và phù hợp trong cơ chế điều hành tỷ giá là điều trăn trở của các
nhà hoạch định chính sách.
0.3.1.2 Tác Động Của Tỷ Giá Đến Phát Triển Kinh Tế Việt
Nam:
 Trong giai đoạn này, kết quả tích cực do việc điều chỉnh tỷ giá
mang lại là nó đã hạn chế được phần nào nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách
rõ rệt. Nhưng đồng thời, việc điều chỉnh tỷ giá đã làm tăng gánh nặng nợ nước
ngoài.
o Tính đến tháng 10/1998, so với mức nợ nước ngoài 22 tỷ USD, sự thay
đổi của tỷ giá hối đoái đã làm cho nó tăng thêm 42,86 triệu USD, cộng với 17,86
triệu USD tiền lãi, tổng cộng là 60,72 triệu USD đã gây khó khăn rất lớn cho các
GVHD: Ñinh Thò Thu Hoàng Trang 25

×