Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Luận văn Quản lý môi trường tại làng nghề Đồng Kỵ, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.39 KB, 85 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trải qua bao nhiêu đời nay, các làng nghề thủ công truyền thống từ
lâu đã là một nét đẹp rất riêng của vùng nông thôn Việt Nam. Trong nhiều
năm vừa qua, cùng với sư phát triển không ngừng của kinh tế - xã hội nói
chung thì nhiều ngành nghề thủ công truyền thống đã được khôi phục và
cũng đạt được những bước tiến khá mạnh tạo thành phong trào rộng khắp
trong cả nước, góp phần cải thiện đáng kể cho đời sống nhân dân trong
vùng. Tuy nhiên, sự phát triển ấy còn mạng nặng tính tự phát, tùy tiện, chưa
có quy hoạch định hướng cụ thể cũng như quy mô sản xuất còn nhỏ, quy
trình sản xuất và trang thiết bị còn lạc hậu. Tất cả những mặt hạn chế trên
không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của các làng nghề truyền thống mà
còn gây ra những tác động không nhỏ đến chất lượng môi trường làng nghề,
đặc biệt là đối với sức khỏe cộng đồng tại địa bàn và cả các vùng lân cận. Vì
vậy, lồng ghép sự phát triển để duy trì vững chắc hoạt động của các làng
nghề với việc bảo đảm BVMT là việc cần thường xuyên được chú trọng
quan tâm của các cấp chính quyền, cơ quan chức năng, thống nhất từ Trung
Ương đến địa phương.
Tỉnh Bắc Ninh tính đến nay có 62 làng nghề truyền thống chiếm 10%
lượng làng nghề truyền thống trong cả nước, chủ yếu trong trong các lĩnh
vực sản xuất sản xuất giấy, đồ gỗ mỹ nghệ đem xuất khẩu, gốm, sắt thép tái
chế, đúc đồng. Trong đó, thị xã Từ Sơn của tỉnh Bắc Ninh từ lâu đã nổi tiếng
với sự phát triển của làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ. Làng nghề Đồng
Kỵ với chuyên môn là sản xuất đồ gỗ gồm nhiều chủng loại sản phẩm, nhiều
năm qua đã đem lại thu nhập đáng kể cho người dân, không những là trong
vùng mà còn cả những vùng miền lân cận, góp phần cho sự phát triển kinh tế
của làng nghề, của thị xã Từ Sơn nói riêng và cả tỉnh Bắc Ninh nói chung.
Nhưng cũng không nằm ngoài thực trang chung, việc hoạt động sản xuất của
làng đang gây ra một vấn nạn về sự ô nhiễm môi trường. Do đó, yêu cầu
hiện nay là đòi hỏi công tác quản lý môi trường cho làng nghề Đồng Kỵ cần
được các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng, các nhà chuyên môn


quan tâm sát sao để có định hướng, quy hoạch giải quyết.
Những năm qua, công tác quản lý môi trường cho làng nghề Đồng Kỵ
cũng đã đạt được những kết quả nhất định nhưng bên cạnh đó vẫn không
tránh khỏi nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ý thức được vấn
đề trên, bản thân tôi là một sinh viên chuyên ngành Kinh tế và quản lý môi
trường rất muốn nghiên cứu sâu hơn để có thể tìm ra những giải pháp cho
vấn đề môi trường nơi đây. Vậy nên, tôi quyết định xin lựa chọn đề tài :
“Quản lý môi trường tại làng nghề Đồng Kỵ - Thị xã Từ Sơn – Tỉnh Bắc
Ninh” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
II. Mục tiêu
Đề tài nghiên cứu của đề tài nhằm đi đến 2 mục tiêu:
Thứ nhất, phân tích thực trạng môi trường và tình hình thực hiện công
tác quản lý môi trường được quan tâm, tiến hành ra sao tại làng nghề Đồng
Kỵ - Từ Sơn - Bắc Ninh. Sau đó, rút ra những điểm tốt cần phát huy đồng
thời nhìn ra những hạn chế phải khắc phục kịp thời.
Thứ hai, từ những điểm mạnh điểm yếu đó chính là những căn cứ đưa
ra được nhiều giải pháp, kiến nghị cần thiết nhất góp phần đẩy mạnh công
tác quản lý môi trường tại làng nghề Đồng Kỵ được tốt hơn cho những năm
sau này.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến công tác QLMT làng
nghề Đồng Kỵ - thị xã Từ Sơn – Tỉnh Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến công tác QLMT tại
làng nghề Đồng Kỵ - thị xã Từ Sơn – Bắc Ninh
Thời gian: từ 2005 đến nay.
Địa điểm : làng nghề đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ - thị xã Từ Sơn – Tỉnh
Bắc Ninh.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp kế thừa, tổng hợp có chọn lọc.
Tiến hành thu thập tài liệu, số liệu quan trắc có liên quan từ các cơ

quan, Sở ban ngành như các Báo cáo hiện trạng môi trường có các số liệu
thống kê, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Phương pháp so sánh, đánh giá.
Tiến hành điều tra thực địa bằng các bảng hỏi cụ thể, rõ ràng.
Căn cứ vào các đánh giá thu được qua bảng hỏi cộng với các số liệu
nói chung có liên quan và các số liệu có tiêu chí đánh giá, để từ đó phân tích
được sự hiệu quả cũng như chưa đạt yêu cầu qua các thời kỳ khác nhau của
hiện trạng môi trường và công tác quản lý môi trường.
Phương pháp đánh giá tác động môi trường.
Từ những số liệu có sẵn và có sự so sánh với các tiêu chí đánh giá để
phân tích những ảnh hưởng đến các mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp.
Tiến hành điều tra thực địa bằng các bảng hỏi cụ thể, rõ ràng với 14
câu hỏi để đánh giá hiệu quả công tác quản lý môi trường qua ý kiến người
dân.
V. Nội dung
Chuyên đề có nội dung được chia thành 3 chương lớn:
Chương I: Cở sở lý luận của Quản lý môi trường làng nghề.
Chương II: Thực trạng Quản lý môi trường tại làng nghề Đồng Kỵ -
Từ Sơn – Bắc Ninh
Chương III: Giải pháp và kiến nghị cho công tác Quản lý môi trường
tại làng nghề Đồng Kỵ - Từ Sơn – Bắc Ninh.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVMT : Bảo vệ môi trường
QLMT : Quản lý môi trường
PTBV : Phát triển bền vững
CTR : Chất thải rắn
KT – XH : Kinh tế - xã hội.
VSMT: Vệ sinh môi trường
CCN: Cụm công nghiệp

TN&MT: Tài nguyên và Môi trường
UBND: Ủy ban nhân dân
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QLMT LÀNG NGHỀ
1. Tổng quan về QLMT
Khái niệm chung về QLMT
Ngày nay, song hành với sự phát triển kinh tế là chất lượng môi
trường sống đang bị đe dọa nghiêm trọng, nguy cơ mất cân bằng sinh thái,
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên là những vấn đề đang ngày càng hiện
hữu. Phát triển kinh tế là cần thiết nhưng không thể xem nhẹ môi trường
sống, như vậy mới đảm bảo mục tiêu PTBVcủa mỗi quốc gia và của toàn
cầu. Do đó, công tác QLMT ra đời là một yêu cầu tất yếu, để cân bằng giữa
lợi ích kinh tế và BVMT nhằm đảm bảo mục tiêu PTBV.
Theo những quan điểm phương pháp luận của lý thuyết hệ thống thì
quản lý ở đây là sự tác động chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách
thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi
trường ngoài. Quản lý phải bao gồm: chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các
tác động, một đối tượng bị quản lý phải tiếp nhận các tác động đó và mục
tiêu và quỹ đạo đặt ra cho cả chủ thể quản lý lẫn đối tượng quản lý.
Từ cách tiếp cận vấn đề quản lý nói chung như trên thì QLMT được
hiểu như sau: QLMT là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của
chủ thể quản lý môi trường lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành
các hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý
môi trường, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt
được mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra, phù hợp với luật pháp và
thông lệ tiến hành.(theo Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Đặng Như Toàn – Giáo
trình Quản lý môi trường)
QLMT được triển khai để tạo ra hiệu quả hoạt động phát triển tốt hơn,
bền vững hơn cho hệ thống môi trường, cân bằng, ổn định về vật chất, tinh
thần cho hôm nay và thế hệ mai sau.

Nguyên tắc của QLMT
Các nguyên tắc QLMT phản ánh các yêu cầu khách quan của quy luật
tự nhiên, KT – XH chi phối trong công tác QLMT. Các nguyên tắc ấy là:
Bảo đảm tốt tính tổng hợp: Các hoạt động phát triển diễn ra dưới
nhiều hình thức, quy mô, tốc độ, trực tiếp hay gián tiếp, mạnh hay yếu thì
đều tác động lên đối tượng quản lý. Do đó, trong hoạch định chính sách
QLMT cần tính đến những tác động tổng hợp cũng như hậu quả từ chúng.
Bảo đảm không vi phạm tính hệ thống: Môi trường như là một hệ
thống hoạt động phức tạp, bao gồm nhiều phần tử hợp thành nên QLMT
phải thu thập, tổng hợp, xử lý thông tin về tình trạng hoạt động của hệ thống
môi trường để đưa ra các quyết định phù hợp, đưa các phần tử cấu thành
hoạt động đều đặn, cân đối và hài hòa phục vụ cho mục tiêu đã dự tính.
Bảo đảm được tính liên tục và nhất quán: Đặc tính của môi trường là
môt hệ thống liên tục, tồn tại, hoạt động và phát triển thông qua chu trình
trao đổi vật chất, năng lượng trong không gian và thời gian. Chính vì vậy,
đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực quản lý trong công tác QLMT.
Bảo đảm nhất quán tập trung dân chủ: Tập trung phải được thực hiện
ổn thỏa trong bàn bạc, quyết định các vấn đề một cách công khai, minh
bạch. Dân chủ phải được thực hiện tập trung, không mâu thuẫn, tránh lãng
phí nguồn lực quốc gia. Tập trung dân chủ để QLMT tạo sự bình đẳng, nâng
cao nhận thức, trách nhiệm với môi trường.
Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ: một thành phần môi
trường chịu sự quản lý song trùng từ nhiều phía, do đó, cần có sự kết hợp
chặt chẽ giữa các ngành, các vùng lãnh thổ để tăng hiệu quả, hiệu lực của
công tác QLMT.
Kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa quản lý tài nguyên và môi trường với
quản lý KT – XH: Luôn ý thức phải kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa quản lý
tài nguyên, môi trường với quản lý KT – XH bằng các chính sách, chiến
lược phát triển đúng đắn, có tính bao quát và tổng hợp, thông qua các kế
hoạch và đầu tư ở tất cả mọi khâu, mọi cấp quản lý của Nhà nước.

Kết hợp hài hòa giữa các lợi ích: nhiệm vụ quan trọng của QLMT là
tính đến lợi ích của con người, khuyến khích thái độ, hành vi ứng xử phù
hợp với môi trường vì vậy BVMT cần kết hợp hài hòa các lợi ích bao hàm
cả lợi ích quốc gia, khu vực, lợi ích quốc tế.
Tiết kiệm và hiệu quả: Tối ưu để nâng cao năng lực QLMT chính là
thực thi tiết kiệm và tăng hiệu quả thông qua việc hoạch định chính sách và
chiến lược BVMT để giảm tiêu hao tài nguyên, năng lượng, giảm chi phí
nguyên liệu đầu vào bằng các kỹ thuật, công nghệ ít hoặc không có chất thải;
tận dụng và tái chế phế liệu, sử dụng các vật liệu thay thế, cải tiến sản phẩm,
chú trọng đầu tư đồng bộ và hệ thống cho QLMT v.v
Mục tiêu của QLMT
Mục tiêu chung cũng là lâu dài và nhất quán nhất của QLMT chính
nhằm góp phần tạo lập cho sự PTBV.
Với nội dung “tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh tế,
kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và
PTBV” của QLMT thì cần hướng đến mục tiêu cơ bản như sau:
• Phải khắc phục và phòng chống ô nhiễm, suy thoái môi trường
phát sinh ra trong quá trình hoạt động sống của con người.
• Hướng tới thực hiện 9 nguyên tắc của một xã hội bền vững do
hội nghị Rio – 92 đề xuất được tuyên bố ở Johannesbug – Nam Phi về
PTBV KT – XH quốc gia gắn liền với BVMT (bảo đảm sự hài hòa giữa
môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh
học).
• Cần phải xây dựng các công cụ có tính khả dụng và hiệu lực về
QLMT quốc gia và vùng lãnh thổ. Các công cụ đó đảm bảo phải thích
hợp cho mỗi ngành, mỗi địa phương và cộng đồng dân cư.
Công cụ QLMT
Các công cụ QLMT chính là phương tiện để thực hiện công tác
QLMT của Nhà nước, các tổ chức khoa học và cơ sở sản xuất. Chúng có
chức năng, quyền hạn nhất định, được liên kết và hỗ trợ lẫn nhau khi cần

thiết. Theo bản chất có thể chia công cụ QLMT ra làm 4 loại cơ bản sau:
1.4.1. Công cụ pháp lý
Công cụ này còn có thể được hiểu là công cụ chính sách và luật pháp
mà nó bao gồm các văn bản đầy đủ của :
Luật quốc tế về lĩnh vực môi trường là tổng hợp các nguyên tắc, quy
phạm mang tầm quốc tế để điều chỉnh công bằng mối quan hệ giữa các quốc
gia, vùng, lãnh thổ với các tổ chức trên thế giới trong việc ngăn chặn, loại bỏ
những thiệt hại gây ra cho môi trường ở trong và ngoài mỗi nước.
Luật quốc gia về môi trường là tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm
mang tính quốc gia để điều chính công bằng mối quan hệ giữa những chủ
thể sử dụng hay tác động đến môi trường ở một hay một vài yếu tố bằng
nhiều phương pháp khác nhau, với mục đích BVMT có hiệu quả.
Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn được tính toán
cho phép có cơ sở khoa học dùng làm căn cứ QLMT, được thực tế kiểm
nghiệm, có nghiên cứu khoa học rõ ràng, chính xác bảo đảm phù hợp với
nhu cầu BVMT, khả thi và có lợi về mặt KT – XH. Cơ cấu như: tiêu chuẩn
về đất, về nước, tiêu chuẩn về không khí, về bảo vệ thực vật
Chính sách BVMT, chiến lược BVMT phải được xây dựng song hành
với chính sách phát triển KT – XH đề giải quyết những vấn đề cần thống
nhất trong quan điểm QLMT, các mục tiêu cơ bản và định hướng trọng tâm,
chú trọng sử dụng hiệu quả nguồn lực, tài nguyên đảm bảo PTBV.
1.4.2. Công cụ kinh tế.
Là các công cụ thị trường nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong
hoạt động kinh tế của cá nhân và tổ chức từ đó tác động đến hành vi ứng xử
theo hướng có lợi cho môi trường. Các công cụ kinh tế được sử dụng là:
Thuế tài nguyên: là khoản thu từ các doanh nghiệp nộp vào Ngân sách
Nhà nước trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên như thuế sử dụng
đất, thuế sử dụng nước, thuế khai thác tài nguyên khoáng sản.
Thuế hay phí môi trường: là một loại công cụ kinh tế đưa chi phí môi
trường vào giá sản phẩm dựa theo nguyên tắc “ người gây ô nhiễm phải trả

tiền” nhằm khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất thải gây ô
nhiễm ra ngoài môi trường và cũng làm tăng thu cho Ngân sách Nhà nước.
Giấy phép môi trường hay giấy phép xả thải được trao đổi mua bán
trên thị trường trong đó người bán chính là các đơn vị, tổ chức sở hữu giấy
phép, còn lại người mua là đơn vị, tổ chức cần giấy phép để xả thải. Ở đây,
lượng ô nhiễm nhất định giới hạn với một chỉ tiêu môi trường nào đó. Khi
tổng lượng thải thấp hơn lượng thải mà đơn vị, tổ chức muốn thải sẽ tạo nên
sự khan hiếm về quyền được thải và từ đó làm cho nó có giá trên thị trường.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả: BVMT bằng cách quy định đối tượng
tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường phải trả trước
một khoản tiền khi mua hàng, cam kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm
còn lại trả cho các đơn vị, tổ chức thu gom phế thải, đưa đến các địa điểm
quy định để tái chế, tái sử dụng, tiêu hủy an toàn.
Ký quỹ môi trường: áp dụng cho các hoạt động kinh tế có nguy cơ gây
ô nhiễm cho môi trường. Các doanh nghiệp, tổ chức, cơ sở sản xuất kinh
doanh trước khi tiến hành hoạt động của mình phải ký gửi một khoản tiền tại
ngân hàng hay tổ chức tín dụng, cam kết sẽ có các biện pháp hạn chế ô
nhiễm, tổn thất cho môi trường.
Trợ cấp môi trường: được thực hiện dưới các dạng cơ bản như trợ cấp
không hoàn lại; cho phép khấu hao nhanh; ưu đãi thuế như miễn, giảm thuế
và các khoản cho vay ưu đãi.
Nhãn sinh thái: là một danh hiệu hay biểu tượng của Nhà nước cấp
cho các hàng hóa thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất hay tiêu
dùng sản phẩm đó, khẳng định uy tín cho nhà sản xuất và sản phẩm.
Quỹ môi trường: được thiết lập để nhận tài trợ từ nhiều nguồn khác
nhau như thuế, phí môi trường, tài trợ tài chính hay hiện vật sau đó sẽ phân
phối vốn này để hỗ trợ các hoạt động hay các dự án nhằm cải thiện chất
lượng môi trường sống.
1.4.3. Công cụ kỹ thuật quản lý môi trường
Các công cụ kỹ thuật quản lý môi trường bao gồm các đánh giá tác

động môi trường, hạch toán, kiểm toán môi trường, các hoạt động quan trắc
môi trường, xử lý, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các công cụ kỹ thuật này
được sử dụng nhằm thực hiện chức năng kiểm soát và giám sát Nhà nước về
chất lượng và thành phần môi trường, sự hình thành và phân bố các chất ô
nhiễm phát tán ngoài môi trường sống.
1.4.4. Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường.
Giáo dục môi trường được hiểu là các hoạt động giáo dục sự hiểu biết,
nhận thức, thái độ, hành vi, kỹ năng và giá trị, tạo điều kiện cho con người
có cơ hội được tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về môi trường
sinh thái. Nó còn cả việc học hỏi, tiếp thu những công nghệ kỹ thuật mới
nhằm giảm những tác hại gây ra cho môi trường từ những tác động của con
người và cũng để đảm bảo lợi ích kinh tế.
Truyền thông môi trường được hiểu là quá trình tương tác hai chiều
mục đích giúp cho những người có liên quan nói riêng và toàn xã hội nói
chung nhận thức được các yếu tố môi trường có tầm quan trọng ra sao, có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động như thế nào. Truyền thông môi
trường được thực hiện thông qua ý tưởng, tình cảm, thái độ giữa con người
với con người hay các nhóm người với nhau.
2. Làng nghề và QLMT làng nghề
Khái niệm và tiêu chí làng nghề
Khái niệm
Làng nghề có một lịch sử tồn tại và phát triển từ hàng trăm năm nay,
được coi là một đặc trưng quý của nông thôn Việt Nam, đóng góp đáng kể
trong công cuộc phát triển KT – XH ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế đất nước theo hướng CNH – HĐH. Làng nghề như một thiết chế
KT – XH của nông thôn, cấu thành bởi hai yếu tố ghép là làng và nghề, tồn
tại trong một không gian địa lý nhất định bao gồm nhiều hộ gia đình lao
động bằng một nghề thủ công chính, giữa những con người này luôn có mối
liên kết về KT – XH và văn hóa, không nhất thiết người dân trong làng đều
phải sản xuất thủ công, vì có tay nghề cao nên đã họ trở thành những người

thợ chuyên sản xuất hàng thủ công tại quê hương mình đồng thời cũng làm
cả nghề nông.
Tựu chung lại, chúng ta có thể hiểu khái niệm Làng nghề theo hướng
sau: Làng nghề là làng ở nông thôn có gắn với sản xuất nông nghiệp
nhưng ngành nghề sản xuất phi nông nghiệp ngày càng lớn mạnh lên và
tạo ra nguồn thu nhập chính cho người dân, mà theo chuẩn thì trong
làng phải có ít nhất 30% so với tổng số lao động và hộ gia đình trong làng
nhưng đóng góp ít nhất 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của
làng, hay có thể tính doanh thu hằng năm ít nhất phải là 300 triệu đồng.
Trải qua nhiều thăng trầm phát triển của lịch sử mà làng nghề ngày
nay không chỉ đơn thuần là những hoạt động sản xuất với công nghệ thủ
công mà một số công đoạn đã được cơ khí hóa hoặc bán cơ khí hóa. Sau đó
không phải tự làng nghề phải lo đầu vào lẫn đầu ra cho sản phẩm mà hôm
nay đã có sự tham gia cung ứng cũng như phân phối hàng hóa của địa
phương là các tổ chức, doanh nghiệp kinh doanh.
Dù đã có nhiều làng nghề cổ truyền bị mai một và biến mất, theo
thống kê đến 22/9/2010, ở Việt Nam có trên 2000 làng nghề, , trải dài trên
khắp các tỉnh thành trong cả nước với nhiều loại hình, ngành nghề sản xuất,
trong đó đồng bằng sông Hồng chiếm đến gần ½ số làng nghề của cả nước.
Hình 1.1. Phân bố các làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất
Tiêu chí làng nghề
Tiêu chí để xét duyệt là nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề
truyền thống ở mỗi vùng miền, địa phương lại khác nhau, tùy thuộc vào điều
kiện, khả năng, quan điểm đánh giá.
Theo như Thông tư số 116/2006/ TT – BNN ngày 18/12/2006 của Bộ
NN & PTNT hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
66/2006/NĐ –CP ngày 07/07/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề
nông thôn, được ghi trong Báo cáo hiện trạng môi trường Làng nghề Việt
Nam 2008, có nêu ra cụ thể cho tiêu chí với từng loại như sau:
Đối với nghề truyền thống, tiêu chí gồm 3 điểm sau:

• Nghề đã xuất hiện tại địa phương hơn 50 năm tính đến
thời điểm được công nhận
• Nghề đã tạo ra được những sản phẩm mang bản sắc văn
hóa địa phương, vùng, miền, dân tộc.
• Nghề đã gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân
hay chính bản thân tên tuổi làng nghề.
Đối với làng nghề, thì tiêu chí cũng gồm 3 điểm sau:
• Có tối thiểu là 30% tổng số hộ gia đình trên địa bàn có
tham gia các hoạt động sản xuất của ngành nghề tại địa phương.
• Hoạt đọng sản xuất kinh doanh phải ổn định ít nhất là 2
năm tính đến thời điểm được xét duyệt công nhận.
• Luôn đảm bảo chấp hành tốt các thể chế, chính sách pháp
luật của Nhà nước.
Còn đối với làng nghề thủ công truyền thống hay gọi tắt là làng nghề
truyền thống, thì điều kiện phải có là đã đạt tiêu chí làng nghề đồng thời có
ít nhất một nghề được coi là truyền thống theo quy định của Thông tư.
Và đối với những làng chưa đạt yêu cầu thứ nhất và thứ hai của công
nhận làng nghề nhưng có tối thiểu là một nghề truyền thống được công nhận
tại Thông tư thì cũng được gọi là Làng nghề truyền thống.
Thêm nữa, hiện nay, theo xu thế phát triển chung của cả nền kinh tế,
các vùng nông thôn cũng đang vươn lên mạnh mẽ, xuất phát từ sự hình
thành nhu cầu mới của thị trường tiêu thụ cộng với việc tổ chức đầu tư gia
công của các cơ sở sản xuất, tổ chức xuất nhập khẩu; sự nhạy bén thị trường
mà xuất hiện nhiều làng nghề mới bên cạnh các làng nghề truyền thống.
Phân loại và đặc trưng của từng loại làng nghề
Hiện nay, với nhiều cách tiếp cận vấn đề, mục đích sử dụng hay tiêu
chí khác nhau mà có những quan điểm phân loại làng nghề theo nhiều
hướng khác nhau. Có thể theo ngành nghề, loại hình sản xuất, theo quy mô,
quy trình hoạt động, theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm, theo thị trường tiêu
thụ và tiềm năng phát triển Tuy nhiên, theo hướng tiếp cận môi trường thì

phân loại theo ngành nghề sản xuất và loại hình sản phẩm là ưu việt hơn cả.
Theo đó, chúng ta có thể phân ra thành 6 nhóm ngành chính cụ thể như sau:
• Các làng nghề tái chế: đa phần là mới hình thành với số lượng
cũng không nhiều, nhưng lại phát triển nhanh về quy mô và chất lượng.
Ở các làng nghề này, công nghệ sản xuất đang dần được cơ khí hóa.
• Các làng nghề dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da: có nhiều làng nghề
từ xa xưa, sản phẩm mang tính lịch sử, văn hóa lâu đời như lụa tơ tằm,
thổ cẩm, dệt may cho ra đời nhiều kiệt tác nghệ thuật. Quy trình sản
xuất không biến đổi nhiều, đòi hỏi lao động phải có trình độ tay nghề cao,
thẩm mỹ tốt.
• Các làng nghề sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ: đây là loại hình
làng nghề chiếm 40% tổng số làng nghề, có truyền thống lâu đời và sản
phẩm có nét đặc sắc về văn hóa, giá trị thẩm mỹ và kinh tế cao. Bao gồm
các làng nghề về gốm, sứ, thủy tinh, chạm khắc, mạ vàng bạc, hàng thủ
công mây tre đan, nội thất, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài
• Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và
giết mổ: đa số sử dụng lao động lúc nông nhàn, không yêu cầu nhiều về
trình độ, sản xuất thủ công, gần như không thay đổi gì về quy trình so với
lúc mới hình thành. Ví dụ: nghề nấu rượu, làm bánh đa, bún, miến, bánh
đậu xanh với những nguyên liệu nông sản như gạo, ngô, khoai sắn
• Các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác: với đặc
thù này mà các làng nghề này phải tập trung ở vùng có khả năng cung
ứng nguyên liệu cho hoạt động xây dựng, ra đời từ hàng trăm năm nay.
Lao động phần lớn là thủ công, công nghệ thô sơ, tỉ lệ cơ khí hóa thấp.
• Các nhóm ngành khác như các làng nghề chế tạo công cụ thô sơ
như búa, liềm, cuốc xẻng, mộc gia dụng
Tác động tích cực của làng nghề đối với sự phát triển KT – XH.
Các làng nghề Việt Nam trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm,
song hành với quá trình phát triển KT – XH và văn hóa của đất nước, tạo ra
những sản phẩm có giá trị cao, trở thành thương phẩm nổi tiếng, đem lại

danh tiếng mỗi làng nghề. Vì vậy mà mục tiêu khôi phục và phát triển các
làng nghề truyền thống nông thôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
trong đẩy mạnh kinh tế nông thôn.
Thứ nhất, góp phần tích cực trong việc xóa đói giảm nghèo cho khu
vực nông thôn.
Việc khôi phục và phát triển không ngừng của các làng nghề truyền
thống cũng như những làng nghề mới trong nhiều năm gần đây đang góp
phần không nhỏ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa phương, cải thiện
và nâng cao đời sống cho người tại chính làng nghề và cả lao động các vùng
phụ cận. Hoạt động làng nghề đang ngày một thể hiện được chỗ đứng vững
chắc của mình khi thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia, bao gồm
kinh tế cá thể, kinh tế tập thể và các tổ chức, doanh nghiệp tư nhân.
Trong nhiều năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn
ngày càng gia tăng, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm làng nghề không
ngừng tăng lên, đem lại nguồn thu nhập đáng kể, góp phần quan trọng trong
xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người dân lúc nông nhàn, nâng cao
chất lượng cuộc sống. Theo thống kê thì mức thu nhập trong ngành nghề cao
gấp ba, bốn lần so với thu nhập của người lao động thuần nông. Chính sự
chênh lệch này mà ngày càng nhiều người đã ý thức chuyển từ sản xuất nông
nghiệp sang sản xuất thủ công nghiệp.
Thứ hai, làng nghề phát triển cũng đem lại một bộ mặt mới sáng sủa,
khang trang hơn cho cơ sở hạ tầng khu vực nông thôn.
Với việc thu nhập đang tăng lên, đời sống nhân dân được cải thiện thì
nhu cầu về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng là một tất yếu. Nhu cầu về thông tin,
điện, nước, giao thông, trường học, trạm y tế rất cần thiết đối với sự phát
triển ở nông thôn. Sự đi lên về kinh tế đem lại cho làng một bộ mặt mới đầy
đủ, no ấm và đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng góp phần thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng cuộc sống không chỉ nhân dân trong làng mà cả các
vùng miền lân cận.
Thứ ba, làng nghề - với những ưu điểm và tiềm năng phát triển cũng

là một ưu thế để đẩy mạnh thêm hoạt động du lịch làng nghề.
Bên cạnh những lợi thế sẵn có của tự nhiên như cảnh quan thiên
nhiên, vị trí địa lý, hệ thống di tích lịch sử, những phong tục tập quán là nét
văn hóa đặc sắc bản địa, thì bản thân các làng nghề với đặc trưng ngành
nghề cũng mang trong mình một sức hấp dẫn đặc biệt. Điểm đáng chú ý của
du lịch làng nghề đó chính là cơ hội được quan sát, tận mắt chứng kiến quá
trình sản xuất ra các sản phẩm mang đậm bản sắc của địa phương, thêm nữa
là có thể tham gia trực tiếp vào một khâu nào đó của quá trình. Tiềm năng
phát triển du lịch tại các làng nghề là không nhỏ, phát hiện đưa vào quy
hoạch cụ thể và có kế hoạch nghiêm túc, rõ ràng sẽ lại mang lại một nguồn
thu lớn nữa cho làng, hỗ trợ gia tăng tỷ trọng nhóm ngành công nghiệp, dịch
vụ cho chính địa phương, cũng như tăng tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất
có thể giới thiệu và quảng bá sản phẩm tới du khách.
Tác động tiêu cực của làng nghề đối với môi trường địa phương.
Các vấn đề môi trường tại làng nghề
Như đã trình bày ở trên thì những tác động tích cực của làng nghề đối
với sự phát triển chung của KT – XH địa phương nói riêng và cả nước nói
chung là không nhỏ, nhưng, cũng lại đang tồn tại một thực trạng là hoạt
động của làng nghề khiến chất lượng môi trường sống ngày càng đi xuống,
ảnh hưởng đến mục tiêu PTBV của cả nền kinh tế.
Tác động đến môi trường tự nhiên tại địa phương: Nổi cộm của ô
nhiễm môi trường làng nghề chính là lượng các CTR, khí thải, nước thải
không qua xử lý sau cùng bị đổ thải trực tiếp ra môi trường ngoài, gây ô
nhiễm nghiêm trọng cho môi trường đất, môi trường không khí, các nguồn
nước mặt, nước ngầm tại mỗi địa phương và cả các vùng lân cận, đặc biệt là
dọc các con sông. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm :
Thường là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi nhỏ như khu vực
thôn, làng, xã Bởi quy mô không lớn lại nằm trong khu dân cư sinh hoạt
nên gây khó khăn cho phân tách và khó quy hoạch.
Với từng loại hình làng nghề thì lại có một đặc trưng ô nhiễm môi

trường riêng, có tác động trực tiếp đến môi trường đất, nước, không khí tại
địa phương:
Bảng 1.1. Đặc trưng ô nhiễm từ sản xuất đối với từng loại làng nghề.
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường làng nghề Việt Nam 2008)
Tác động đến đời sống con người: Với hoạt động sản xuất ngành
nghề tại các làng nghề đang đe dọa không chỉ đối với môi trường địa
phương mà nghiêm trọng hơn là đến cuộc sống người dân bản địa.
Thứ nhất, đó là sức khỏe suy giảm, bệnh tật gia tăng, tuổi thọ trung
bình đang giảm đi tại các làng nghề ô nhiễm.
Thực tế minh chúng tại nhiều làng nghề hiện nay, số lượng người bị
suy kiệt về sức khỏe, mắc các chứng bệnh đang có xu hướng gia tăng, theo
đặc trưng ô nhiễm ở mỗi loại hình làng nghề. Các bệnh về hô hấp, tai mũi
họng, bệnh ngoài da, bệnh về thần kinh đang trở nên nhiều hơn tại các làng
nghề. Tỷ lệ người mắc bệnh tại các làng nghề cao hơn hẳn so với các khu
vực không phải làng nghề. Gánh nặng bệnh tật, mang di chứng suốt đời và
tuổi thọ trung bình của những người dân tại đây cũng thấp hơn so với tuổi
thọ trung bình của cả nước.
Thứ hai, ô nhiễm môi trường làng nghề gây tổn thất lớn đối với nền
kinh tế.
• Ô nhiễm môi trường làng nghề đang gây ra ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe con người, làm gia tăng thêm chi phí khám, chữa
bệnh, gánh nặng bệnh tật làm giảm năng suất lao động do tiêu tốn thời
gian và không đảm bảo sức khỏe, thiệt hại về kinh tế là điều tất yếu
nhận thấy.
• Một khi môi trường bị ô nhiễm, người ta sẽ phải tính đến
việc giải quyết vấn nạn ô nhiễm và dĩ nhiên vấn đề phát sinh tiếp theo
là chi phí trong đó có chi phí thời gian, công sức, tài chính để xử lý,
giảm thiểu ô nhiễm tại các làng nghề.
• Điều nữa là sự ô nhiễm ấy cũng sẽ làm giảm đi sức hút
du lịch của làng nghề, lượng khách du lịch sẽ dần ít đi, gây tổn thất về

kinh tế.
Thứ ba, ô nhiễm môi trường tất sẽ dẫn đến nảy sinh các tranh chấp,
xung đột môi trường.
Do nhận thức chưa cao nên người dân phần lớn vẫn đặt lợi ích kinh tế
lên hàng đầu, do đó mà xuất hiện các mâu thuẫn và xung đột môi trường. Có
thể là:
• Xung đột giữa các nhóm xã hội trong bản thân làng nghề:
các loại chất thải được xả thẳng ra môi trường gây ảnh hưởng tới cộng
đồng trong vùng, chính là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp, khiếu
kiện.
• Xung đột giữa làng nghề và làng không phải làng nghề:
nảy sinh khi quyền lợi của làng không làm nghề bị ảnh hưởng do chịu
ô nhiễm môi trường từ các làng nghề lân cận.
• Xung đột giữa hoạt động sản xuất và cảnh quan tự nhiên:
việc ô nhiễm nghiêm trọng gây mất cảnh quan thiên nhiên, dĩ nhiên sẽ
dẫn đến những bức xúc trong cộng đồng.
• Xung đột trong QLMT tại địa phương: nảy sinh khi cơ
quan chức năng và chính quyền địa phương xử lý vi phạm đối với các
cơ sở sản xuất gây ra ô nhiễm bằng các chính sách và pháp luật được
quy định cụ thể.
2.4.3. Nguyên nhân của các ảnh hưởng đến môi trường
Chính những tồn tại trong nhiều năm qua của quá trình hình thành và
phát triển làng nghề là những nguyên nhân làm cho môi trường làng nghề bị
đe dọa nghiêm trọng. Những nguyên do đó là:
Quy mô sản xuất tại nhiều làng nghề vốn là nhỏ, khó có khả năng phát
triển vì sự hạn chế về không gian, kỹ thuật. Một khi sản xuất được mở rộng
thì nguy cơ lấn chiếm sang không gian sinh hoạt và sẽ dẫn đến ô nhiễm khu
vực sinh sống của dân cư, chất lượng môi trường đi xuống.
Quy trình công nghệ và thiết bị sản xuất đa phần còn lỗi thời, lạc hậu
do vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại làng nghề còn thấp, khó có khả

năng điều chỉnh để đổi mới công nghệ có lợi cho sinh thái nên nguyên nhiên
liệu bị tiêu hao lãng phí, làm tăng phát thải chất ô nhiễm ra ngoài môi
trường, ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm và chất lượng môi trường.
Quan hệ sản xuất còn mang nặng tính chất gia đình, dòng họ, làng
xóm nên họ chỉ tuân theo một quy trình sẵn có theo truyền thống thường
được gọi là bí quyết gia tộc, cùng với nếp sống tiểu nông cố hữu vốn có từ
nguồn gốc nông dân của chủ các cơ sở sản xuất tại các làng nghề cũng là
một nguyên nhân ảnh hưởng lớn. Do không ý thức được những tác hại lâu
dài nên họ thường không lựa chọn quy trình công nghệ mới mà chủ yếu là
thủ công. Thậm chí, một số còn đưa những nguyên nhiên liệu rẻ tiền, độc
hại, không có dụng cụ đảm bảo vệ sinh, an toàn lao động nhằm hạ giá thành
sản phẩm để tăng tính cạnh tranh.
Nhận thức của từ chủ sản xuất đến người lao động còn thiếu hiểu biết
về việc BVMT do chủ yếu là lao động thủ công, trình độ văn hóa thấp. Họ
chỉ xem lợi nhuận là quan trọng mà chưa ý thức được hết tầm quan trọng của
vấn đề ô nhiễm tới môi trường sống.
Công tác QLMT tại địa phương còn bị xem nhẹ, chưa được quan tâm
đúng mực đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho công tác này. Hệ
thống thu gom và xử lý chất thải ở hầu hết các làng đều không đạt yêu cầu.
Các công cụ QLMT áp dụng trong QLMT làng nghề.
2.5.1. Công cụ pháp lý.
Cũng giống như QLMT nói chung thì QLMT làng nghề cũng cần sử
dụng đến công cụ pháp lý như một căn cứ để áp đặt việc BVMT là cần thiết
và được quy định cụ thể, rõ ràng như thế nào.
• Công cụ này đề ra các tiêu chuẩn môi trường
Bao gồm tiêu chuẩn môi trường như tiêu chuẩn môi trường đất, tiêu
chuẩn môi trường nước, tiêu chuẩn môi trường không khí là những thước
đo, giới hạn cho phép để từ đó đánh giá được mức độ ô nhiễm tại từng vùng,
địa phương có làng nghề và được dùng làm cơ sở để xác định chế tài xử lý,
quản lý theo hướng bền vững về sinh thái.

• Xây dựng các chính sách BVMT làng nghề:
Các chính sách BVMT làng nghề được đưa ra, tiếp đó sẽ cụ thể hóa
bằng việc xây dựng chiến lược BVMT làng nghề phát triển thân thiện hơn
với môi trường, cuối cùng là sẽ lựa chọn các mục tiêu khả thi để lập kế
hoạch thực hiện rõ ràng.
• Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về BVMT tại địa
phương:
Các cơ quan chức năng và chính quyền có quyền thanh tra, kiểm tra,
giám sát và cưỡng chế, yêu cầu các làng nghề phải tuân thủ theo những quy
định chung và quản lý chặt chẽ được các loại chất thải độc hại trong và sau
sản xuất, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm làm tổn hại đến môi trường,
trong luật BVMT quốc gia. Ngoài ra, các hoạt động thi đua khen thưởng,
khuyến khích hoạt động sản xuất có lợi cả về kinh tế và môi trường đưa vào
trong quản lý chung tại địa phương hằng năm, cũng như chính các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất.
2.5.2. Công cụ kinh tế.
• Thuế/ phí môi trường đánh vào nguồn gây ô nhiễm làng nghề:
Các chất ô nhiễm chịu loại thuế/phí môi trường tại làng nghề này là
các chất thải vào môi trường nước (COD, BOD, kim loại nặng ) như Quy
định 67/2003/NĐ – CP của Chính phủ ngày 13/6/2003; vào khí quyển (SO
2
,
CO, NO
x
) và vào đất (chất thải rắn, mùn, xỉ ) trên cơ sở tính chất và hàm
lượng chất gây ô nhiễm.
• Thuế/phí môi trường đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm làng nghề
Thuế/phí môi trường này được áp dụng với những loại sản phẩm gây
tác hại đến môi trường khi đưa ra thị trường tiêu thụ hay khi hủy bỏ, như vỏ
hộp, vỏ chai, giấy bao gói không thân thiện môi trường.

• Phí dịch vụ môi trường:
Phí sử dụng dịch vụ môi trường như phí sử dụng nước sạch, bãi đỗ xe,
phí thắng cảnh sinh thái các làng nghề, phí hành chính nhằm đóng góp tài
chính cho việc cấp phép, giám sát và quản lý hành chính của chính quyền
đối với công tác BVMT tại làng nghề.
• Phí môi trường:
Phí môi trường cho việc hệ thống xử lý ô nhiễm bằng công nghệ kỹ
thuật, phí vệ sinh môi trường cộng đồng, thu gom và xử lý rác thải giảm
thiểu được phần lớn lượng rác thải tại các làng nghề hiện nay.
2.5.3. Công cụ kỹ thuật.
Đây là công cụ quan trọng trong QLMT làng nghề vì việc đánh giá,
quan trắc môi trường, xử lý, tái chế, tái sử dụng chất thải là vô cùng cần
thiết.
Thông qua quy trình quan trắc kỹ thuật, các nhà quản lý, các chuyên
gia mới có được những thông tin đầy đủ, chính xác về hiện trạng và dự báo
diễn biến môi trường đất, nước, không khí hay tiếng ồn. Sau đó tiến hành
định hướng phương pháp giải quyết theo hướng kỹ thuật, đó là xử lý bằng
công nghệ kỹ thuật và áp dụng quy trình công nghệ mới ưu việt hơn sẽ giảm
thiểu được lượng phát thải, giải quyết được lượng ô nhiễm trước đó, lấy lại
phần nào sự trong lành cho môi trường.
2.5.4. Công cụ tuyên truyền giáo dục.
Đây là công cụ cũng vô cùng cần thiết được áp dụng để xây dựng
nhận thức đầy đủ và đúng đắn cho chủ cơ sở và người lao động hoạt động
sản xuất tại các làng nghề. Giáo dục và truyền thông môi trường cho chính
những người đang trực tiếp sản xuất tại làng nghề, giúp cho họ có cái nhìn
thiện chí hơn với môi trường, chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm để hạn
chế tối đa việc gây ô nhiễm, tổn hại đến môi trường. Nhận thức tốt là quan
trọng trong việc thay đổi thái độ, hành vi có lợi cho BVMT và công tác
QLMT làng nghề tại địa phương
2.5.5. Công cụ hỗn hợp.

Với bốn loại công cụ được áp dụng trong QLMT làng nghề mà giữa
chúng cũng luôn có sự bổ sung hỗ trợ cho nhau nên việc kết hợp các công cụ
lại cùng nhau, phát huy được những điểm mạnh và hạn chế những điểm hạn
chế của từng loại công cụ, sẽ đem lại được sự chính xác, nhạy bén và hiệu
quả cao hơn.
3. Kinh nghiệm quản lý ô nhiễm môi trường làng nghề trên thế giới và
tại Việt Nam
3.1. Trên thế giới
Trên thế giới cũng có một số nước có mô hình phát triển làng nghề
như làng nghề rượu sochu, nấm đông cô của Nhật Bản hay Trung Quốc
với hiện có 50 000 làng nghề áp dụng mô hình OVOP của Nhật Bản (mỗi
làng một sản phẩm) đã giúp cho các làng nghề từ hoạt động tự phát, phân tán
sang hoạt động chuyên sâu, quy mô lớn theo nhu cầu thị trường. Họ cũng
từng vấp phải những vấn đề tương tự Việt Nam và có những phương án
QLMT cho riêng quốc gia mình.
Hiện trạng môi trường đất, nước, không khí tại các làng nghề Trung
Quốc làm đau đầu các nhà quản lý Trung Quốc trong nhiều năm. Trong mỗi
giai đoạn kế hoạch năm năm thì tỷ lệ đầu tư và vốn cho việc quản lý là khác
nhau. Chiến lược huy động vốn của Trung Quốc có hiệu quả chuẩn bị cho vệ
sinh môi trường nông thôn. Về quản lý nước, đối với Trung Quốc thì tiêu
chuẩn Quốc gia là tiêu chuẩn nước uống duy nhất. Ở nhiều làng nghề thì khó
đạt tiêu chuẩn nước, do vậy mà Chính Phủ đã ban hành Hướng dẫn giám sát
chất lượng nước cho vùng nông thôn nói chung và làng nghề nói riêng. Bài
học về kinh nghiệm quản lý nước thải, chất thải rắn và vệ sinh môi trường
tại khu vực làng nghề nói riêng và vùng nông thôn nói chung của Trung
Quốc cho thấy, cần phải cả chiến lược, quy hoạch đi đôi với có phù hợp điều
kiện, tập quán của nhân dân hay không và công tác truyền thông qua các
chiến dịch được duy trì liên tục và rộng rãi.

×