Luật tố tụng hình sự Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm
khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự, việc quy định
biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng. Tạm giam
đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công
dân được Hiến pháp quy định, tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh
và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả. Do đó, để tìm hiểu kĩ hơn về vấn đề này,
em xin đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc
hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng”
NỘI DUNG
1. Khái quát về tạm giam trong tố tụng hình sự
1.1. Khái niệm tạm giam:
Theo khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có thể nói, tạm
giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm
trọng, phạm tội ít nghiệm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên
hai mười năm và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiệm
khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Các biện pháp
khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ích về tài sản
mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các
biện pháp bắt, tạm giữ cũng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, nó cũng
hạn chế quyền tự do của công dân nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong
bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi
Nguyễn Thị Hương Quỳnh – 341406 1
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
bắt người hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp bắt khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang. Cơ quan điều tra phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả
tự do cho người bị bắt (khoản 1 Điều 83 BLTTHS). Thời hạn tạm giữ là ba
ngày và tối đa là chín ngày đối với trường hợp có gia hạn tạm giữ (Điều 87
BLTTHS). Trong khi đó thời gian tạm giam để điều tra tối đa có thể lên tới 16
tháng (đối với tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 2 Điều 120).
Khi áp dụng biện pháp tạm giam, mục đích là để ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội và ngăn chặn
tội phạm có thể xảy ra, phục vụ cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả cao. Là một biện pháp
ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nhưng tạm giam không phải là hình phạt tù vì hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Toà áp dụng không chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà còn
nhằm cải tạo trở thành con người tốt có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội với hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật,
góp phần đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của tạm giam:
Tạm giam tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý tội
phạm. Ngăn chặn, nhanh chóng làm rõ tội phạm và người phạm tội để kịp
thời đưa ra xét xử và xử lý là một nghiệp vụ quan trọng và khó khăn đối với
các cơ quan điều tra và các cơ quan thẩm quyền chức năng. Để đem lại hiệu
quả cao đối với công tác điều tra và xử lý, các cơ quan chức năng phải sử
dụng các biện pháp được pháp luật cho phép cụ thể trong pháp luật tố tụng
hình sự. Trong đó biện pháp tạm giam là biện pháp quan trọng và cần thiết.
Việc quy định và áp dụng biện pháp tạm giam thể hiện sự cưỡng chế
của Nhà nước trong việc đấu tranh chống tội phạm góp phần nâng cao hiệu
lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc quy định và áp dụng tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc, góp
phần bảo đảm và tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong hiến pháp (Điều 50, Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Biện pháp tạm giam không chỉ thể hiện tính
cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi xâm hại các quyền công
dân mà còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có
nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Biện pháp tạm giam tuy hạn chế
Nguyễn Thị Hương Quỳnh – 341406 2
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
một số quyền công dân đối với bị can, bị cáo nhưng mặt khác lại bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
khác.
Việc quy định về tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự thể hiện tính
ưu việt của Nhà nước ta. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Vì vậy mọi hoạt động của Nhà nước đều không nằm ngoài mục
đích là phục vụ quyền lợi của nhân dân. Với bản chất của nhà nước XHCN là
một chế độ dân chủ, trong đó các quyền tự do của công dân được tôn trọng,
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân... Do đó, khi áp
dụng biện pháp tạm giĩư, tạm giam. Cơ quan và những người có thẩm quyền
theo Luật định phải triệt để tuân thủ những điều của Bộ luật hình sự quy định.
Bên cạnh đó pháp luật cũng thể hiện tính nhân dạo về chế định tạm
giam là các quy định về vấn đề tạm giam đối với người chưa thành niên (Điều
304 BLTTHS) và các quy định về tạm giam đối với bị can, bị cáo là phụ nữ
có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu thangns tuổi, là người già yếu,
người bị bệnh nặng (khoản 2 Điều 88 BLTTHS).
1.3. Đối tượng của tạm giam:
Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo.
Đây là biện pháp hạn chế quyền tự do của công dân, cho nên Bộ luật tố tụng
hình sự quy định chỉ cho phép áp dụng đối với người đã bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Theo quy định tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, tạm giam có thể được áp dụng cho những trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội nghiêm trọng. Đây là
trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của Bộ luật hình sự, mức
cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt nghiêm trọng) hoặc phạm tội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù (phạm tội rất nghiêm trọng).
Việc áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp này cần hai điều kiện:
Nguyễn Thị Hương Quỳnh – 341406 3
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
+ Người thực hiện phạm tội là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã bị
thẩm phán ra quyết định khởi tố vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo:
+ Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng.
- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ
luật hình sự quy định hình phạt tù từ trên 2 năm và có căn cứ để cho rằng
người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp
tục phạm tội. Đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc
phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là trên 2 năm tù. Trong một điều luật có nhiều
khoả n thì phạm tội thuộc khoản có mức phạt trên 2 năm tù có thể tạm giam,
phạm tội thuộc khoản có hình phạt tù từ 2 năm tù trở xuống thì không được
tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc
điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện
này phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội
hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác ít nghiêm khắc. Một điều cần chú ý là do tạm giam là biện
pháp ngăn chặn nghiêm khắc nếu như căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chăn
chung là “gây khó khăn” cho hoạt động tố tụng, thì căn cứ để áp dụng tạm
giam phải là “cản trở” hoạt động tố tụng.
Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kỳ nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ
ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những
trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo
được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý
gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; Bị can, bị cáo
phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm
giam thì họ sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Với việc quy định này Bộ
Nguyễn Thị Hương Quỳnh – 341406 4
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
luật tố tụng hình sự ở nước ta đã thể hiện khá rõ nguyên tắc nhân đạo xã hội
chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, bảo vệ quyền trẻ em.
1.4. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam:
- Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử. Cản trở
việc điều tra, truy tố, xét xử được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
như tiêu hủy chứng cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những
lời khai gian dối, mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc
các hình thức khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang
tính đối phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc xác
định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử phải dựa trên những
căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của việc điều tra, truy tố, xét
xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy tiện.
- Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội. Để nhận định bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội phải dựa vào nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách
tổng hợp. Những tình tiết đó thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị
cáo đã thực hiện; Nhân thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị
can, bị cáo như đe dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại,
sử dụng thời gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
- Căn cứ để bảo đảm thi hành án. Công tác thi hành án hình sự là vấn đề vô
cùng quan trọng. Các bản án quyết định của tòa án khi có hiệu lực pháp luật
cần phải đưa ra thi hành. Có như vậy mới có nâng cao được tính hiệu quả của
pháp luật trong đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc tạo điều kiện để thi hành
án là vấn đề rất quan trọng và cần thiết.
1.5. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam:
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định những
người có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam thì có quyền ra
lệnh tạm giam. Những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
được quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003:
Nguyễn Thị Hương Quỳnh – 341406 5
Luật tố tụng hình sự Việt Nam
“1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam:
a) Viện trưởng, phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó chánh án toà án nhân dân và Toà án cấp quân sự các
cấp;
c) Thẩm phán toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Toà án quân sự cấp quân
khu trở lên chủ toạ phiên toà;
d) Trưởng Công an, phó trưởng công an cấp huyện, thủ trưởng, phó thủ
trưởng cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên, thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan
điều tra các cấp trong quân đội nhân dân. Trong trường hợp này lệnh bắt phải
được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
Do đó, các quy định của luật tố tụng hình sự hiện nay về thẩm quyền và
lệnh tạm giam đã tương đối cụ thể và đầy đủ, và đã có sự mở rộng thêm
đếnViện trưởng, Phó viện t rưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện.
1.6. Thủ tục tạm giam:
Với tính chất là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, hạn chế tự do
của người bị áp dụng trong một khoản thời gian nhất định, vì vậy việc áp
dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục
rất chặt chẽ.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì việc tạm giam
bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam phải là lệnh viết, người
cấm tình trạng tạm giam bị can, bị cáo bằng lệnh miệng. Trong lệnh tạm giam
của người có thẩm quyền phải ghi rõ ràng : ngày, tháng, năm, chức vụ của
người ra lệnh để họ chịu trách nhiệm về mặt pháp lý . Đồng thời phải ghi rõ
họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam, thời hạn tạm giam và phải giao cho
người bị tạm giam một bản để họ xem xét và thấy rõ rằng việc mình bị tạm
giam là hoàn toàn đúng pháp luật hay chưa đúng pháp luật. Khoản 3 Điều 88
Nguyễn Thị Hương Quỳnh – 341406 6