Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Các nguyên tắc trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.45 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cũng giống như bất kỳ hoạt động có mục đích nào, quản lý hành
chính nhà nước được tiến hành trên cở sở những nguyên tắc nhất định.
Đây chính là tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động
giúp cho các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả
công việc của mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Các nguyên tắc
trong quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định. Mỗi nguyên tắc trong
quản lý hành chính nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những quy luật
khác quan khác nhau trong quản lý hành chính nhà nước. Một trong
những nguyên tắc cơ bản đó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc
này lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1959. Tập trung và dân
chủ là hai mặt của một thể thống nhất kết hợp hài hoà với nhau. Nếu thiên
về tập tring mà không chú trọng đến dân chủ sẽ dẫn đến tập trung quan
liêu, độc đoán trái với bản chất của Nhà nước ta. Ngược lại, nếu thiên về
dân chủ mà coi nhẹ tập trung sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn làm cho hoạt
động của bộ máy của nhà nước kém hiệu quả. Bởi vậy, nguyên tắc này rất
quan trọng đối với quản lý hành chính Nhà nước. Dưới đây là những biểu
hiện cụ thể của nguyên tắc này và ý nghĩa của nguyên tắc đối với quản lý
hành chính Nhà nước.
1
NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học của nguyên tắc
1. Cơ sở pháp lí
Ðây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của nhà nước ta nên
việc thực hiện quản lý hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc
này. Ðiều 6-Hiến pháp 1992 quy định :Quốc hội, hội đồng nhân dân và
các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ.
2. Cơ sở thực tiễn
Nguyên tắc này bảo đảm sự kết hợp giữa hai yếu tố tập trung và dân chủ,
nghĩa là vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ, vừa đảm


bảo mở rộng dân chủ dưới sự lãnh đạo tập trung.
Nguyên tắc này vừa bắt nguồn từ yêu cầu quản lý xã hội của Nhà
nước vừa bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Nhà nước ta. Trong quá trình
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội đòi hỏi phải có sự tập trung quyền lực.
Có tập trung quyền lực mới điều khiển được xã hội, mới thiệt lậo được
một trật tự xã hội nhất định. Vì vậy, trong xã hội có giai cấp, quyền lực
Nhà nước là chủ yếu tập trung vào Nhà nước. Đối với các Nhà nước bóc
lột thì sự tập trung này là độc đoán, chuyên quyền ( đặc biệt đối với các
Nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế). Còn Nhà nước xã hội chủ
nghĩa nói chung và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói
riêng thì tập trung quyền lực là cần thiết, tuy nhiên phải dân chủ với nhân
dân vì Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, vì nhân dân.
Trong quản lý hành chính, tập trung nhằm đảm bảo thâu tóm quyền lực
nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính
sách, pháp luật một cách thống nhất. Còn dân chủ là hướng tới việc mở
rộng quyền cho đối tượng quản lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt
động quản lý, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong
quá trình thức hiện chính sách, pháp luật. Đây là nguyên tắc quản lý quy
2
định trước hết là sự lãnh đạo tập trung nhưng không phải là tập trung toàn
diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất,
bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ quan cấp dưới, quần chúng
ở địa phương và cơ sở khả năng thực hiện quyết định của Trung ương,
căn cứ vào các điều kiện thực tế của mình đồng thời bảo đảm tính sáng
tạo, quyền chủ động của địa phương và cơ sở trong việc giải quyết các
vấn đề của địa phương và cơ sở
II. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ
1. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp
a. Biểu hiện của sự tập trung

Tại Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã quy
định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội
đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Để
thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, một hệ thống cơ quan hành chính từ trung ương tới địa
phương đã được hình thành. Trong tổ chức và hoạt động, các cơ quan
hành chính nhà nước luôn có sự phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà
nước cùng cấp.
Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất
định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính
nhà nước cùng cấp. Trong hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước
luôn chịu sự chỉ đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nươc
và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp. sự phụ thuộc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng
và lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó chính là việc đảm bảo tập
trung quyề lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước. Ví dụ . Chính
3
phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm (đối với Thủ tướng), phê
chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức (đối với Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) theo đề nghị của Thủ tướng, bỏ
phiếu tín nhiệm đối với các thành viên của Chính phủ.
b. Biểu hiện của sự dân chủ
Yếu tố dân chủ được thực hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực
nhà nước trao quyền chủ động sang tạo cho các cơ quan hành chính nhà
nước trong việc chỉ đạo thực hiện Hiến pháp, luật và các văn bản khác
của cơ quan quyền lực nhà nước. Ví dụ chính phủ ban hành Nghị định
181/2004/NĐ-CP ngầy 29/10/2004 về thi hành luật đất đai.
2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung

ương
a. Biểu hiện của sự tập trung
Nhờ có sự phục tùng này cấp trên và trung ương mới tập trung quyền lực
nhà nước để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương,
nếu không có sự phục tùng sẽ xảy ra tình trạng cục bộ địa phương, tùy
tiện, vô chính phủ. Sự phục tùng ở đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp
pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Thiếu sự phục tùng sẽ dẫn đến
việc buông lỏng lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và cấp trên,
làm nảy sinh tình trạng tùy tiện vô chính phủ, cục bộ địa phương. Ví dụ
Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra Người
đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên có quyền phê chuẩn nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp về việc bầu Ủy ban nhân dân; có
quyền điều động, miễn nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch
cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi
nhiệm các thành viên khác của cơ quan hành chính cấp dưới trực tiếp.
b. Biểu hiện của sự dân chủ
Cấp dưới được cấp trên tôn trọng những ý kiến của mình về tổ chức,
hoạt động hoặc về cả những vấn đề khác liên quan tới quản lí hành chính
4
nhà nước nên sẽ phát huy được sự chủ đông sáng tạo của cấp dưới, địa
phương, nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao động… Và có như
vậy mới khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính
chủ động sáng tạo trong thời điểm hiện nay.
3. Việc phân cấp quản lí
Phân cấp quản lý hành chính nhà nước là một khái niệm tương đối mới
mẻ ở Việt Nam, tuy nhiên cùng với xu thế dân chủ hoá hoạt động hành
chính nhà nước thì phân cấp quản lý hành chính nhà nước ngày càng
được quan tâm nhiều hơn.
a. Biểu hiện của sự tập trung :Có sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ
của các cấp trong bộ máy hành chính nhà nước.

b. Biểu hiện của sự dân chủ: Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi
cấp quản lí được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát
huy tính năng động sang tạo của mình.
Phân cấp quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy
nhiên điều này chỉ thực sự được thực hiện khi phân cấp quản lí đảm bảo
được những yêu cầu sau đây:
- Việc phân cấp quản lý phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết
định trong những lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược
nhằm đảm bảo sự phát triển cân đối và hài hoà cảu toàn xã hội, bảo đảm
sự quản lý tập trung và thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Theo Điều
112 Hiến pháp năm 1992 ghi nhiệm vụ quyền hạn của Chính phủ: “…
Thi hành những biện pháp bảovệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của
mình, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước và của xã hội; bảo vệ môi
trường; Củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân; bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; xây dựng các
lực lượng vũ trang nhân dân; thi hành lệnh động viên, lệnh ban bố tình
trạng khẩn cấp và mọi biện pháp cần thiết khác để bảo vệ đất nước; Tổ
5

×