Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.07 KB, 55 trang )

Mục lục

Trang
Lời nói đầu
1
Chơng 1: Đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi và tác động của những đặc
điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đối với ngời cha thành niên
2
1.1. Khái niệm và đặc điểm ngời cha thành niên
2
1.1.1. Khái niệm 2
1.1.2. Đặc điểm
5
1.2. ảnh hởng của những đặc điểm của ngời cha thành niên đối với việc
quy định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
8
Chơng 2: Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử lý hành chính đối
với ngời cha thành niên
13
2.1. Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đối với ngời cha thành niên
13
2.2. Các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên
theo pháp luật hiện hành
17
2.2.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính 18
2.2.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác 21
2.2.3. Các biện pháp khắc phục hậu quả, ngăn chặn vi phạm hành chính và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính 28
Chơng 3: Thực tiễn áp dụng, phơng hớng, giải pháp hoàn thiện các


quy định pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành
chính đối với ngời cha thành niên
31
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về biện pháp xử lý vi
phạm hành chính đối với ngời cha thành niên
31
3.1.1. Các biện pháp xử phạt hành chính 31
3.1.2. Biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn 33
3.1.3. Biện pháp đa vào trờng giáo dỡng 33
3.1.4. Biện pháp đa vào cơ sở chữa bệnh 38
3.2. Phơng hớng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó đối với
ngời cha thành niên
41
3.2.1. Phơng hớng
41
3.2.2. Giải pháp 42
1
KÕt luËn
Tµi liÖu tham kh¶o
51
2
Lời nói đầu
Trong những năm qua, tình hình ngời cha thành niên vi phạm pháp luật
ngày càng gia tăng đòi hỏi cần có một cơ sở pháp lý rõ ràng, chặt chẽ, để vừa bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngời cha thành niên, vừa nhằm mục đích phòng
ngừa, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả chống lại những hành vi vi phạm pháp
luật do ngời cha thành niên thực hiện. Tuy nhiên cho đến nay, các quy định riêng,
cụ thể về xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên cũng nh các công
trình nghiên cứu về vấn đề này không nhiều. Do đó em chọn đề tài "Biện pháp xử

lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên" với mong muốn góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó
trong thực tiễn. Đối tợng nghiên cứu của đề tài là ngời cha thành niên bị áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính và các quy định về xử lý vi phạm hành
chính đối với họ. Trong phạm vi và giới hạn cho phép, đề tài tập trung nghiên cứu
những vấn đề sau:
Thứ nhất, khái niệm ngời cha thành niên, đặc điểm ngời cha thành niên và
ảnh hởng của những đặc điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đối với ngời cha thành niên.
Thứ hai, thực trạng pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với ngời cha thành niên.
Thứ ba, thực tiễn áp dụng, phơng hớng, giải pháp hoàn thiện các quy định
pháp luật về biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên.
Đề tài có ý nghĩa là những nghiên cứu cơ bản, bớc đầu, xuất phát từ thực
trạng quy định và thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính đối với ngời cha thành niên. Trên cơ sở đó, đề xuất phơng hớng và giải pháp
cụ thể để hoàn thiện các quy định pháp luật cũng nh nâng cao hiệu quả của công
tác áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên.
Chơng 1
đặc điểm tâm, sinh lí lứa tuổi và tác động của những
3
đặc điểm đó đến việc quy định các biện pháp xử lý
vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên
1.1. Khái niệm và đặc điểm ngời cha thành niên
1.1.1. Khái niệm
"Ngời cha thành niên" không phải là một khái niệm mới, nó đợc sử dụng phổ
biến, đặc biệt là trong các văn bản pháp luật. Bên cạnh khái niệm này chúng ta còn
bắt gặp các khái niệm "vị thành niên", "trẻ em".Vậy các khái niệm này có gì giống
và khác nhau? Những ngời ở độ tuổi nào thì đợc coi là ngời cha thành niên?
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, năm 2004) thì "thành niên" là

đến tuổi đợc pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ;
"vị thành niên" là cha đến tuổi đợc pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ.
Từ điển Luật học (NXB Bách khoa, Hà Nội 1999) không đa ra khái niệm
"thành niên" trớc mà chỉ đa ra khái niệm "vị thành niên" (với chú giải là: cha
thành niên) là ngời cha đến tuổi đợc pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng
quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Theo đó ngời cha đủ 18 tuổi là "vị thành
niên".
Trong tiếng Hán "vị" đợc hiểu là "cha tới". Nh vậy khái niệm "cha thành
niên" cũng chính là khái niệm "vị thành niên". Với định nghĩa thứ nhất thì việc đ-
ợc pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ ở đây chỉ
mang nghĩa tơng đối (đầy đủ một cách tơng đối). Cá nhân khi đạt đến một độ tuổi
nhất định sẽ đợc coi là ngời thành niên và ngợc lại đợc coi là ngời cha thành niên,
tuy nhiên là ngời thành niên không có nghĩa là đợc hởng tất cả mọi quyền và phải
thực hiện mọi nghĩa vụ. Ví dụ, Điều 54 Hiến pháp năm 1992 quy định công dân
Việt Nam đủ 21 tuổi có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc
Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định công dân Việt Nam từ đủ 21 tuổi
có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, một ngời vừa đủ 20 tuổi tuy là ngời đã thành
niên nhng không thể đòi hỏi các quyền ứng cử trên, nhng cũng không vì thế mà
4
coi họ là ngời cha thành niên. Định nghĩa này không xác định độ tuổi cụ thể.
Từ điển Luật học đa ra định nghĩa cụ thể hơn,
theo đó "ngời cha thành niên" là ngời dới 18 tuổi, tuy nhiên theo định nghĩa này
thì khi cha thành niên sẽ không đợc pháp luật coi là có đủ khả năng để sử dụng
quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Nhng mỗi ngành luật lại có những quy
định khác nhau căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lý của ngời cha thành niên, ý thức
của họ khi tham gia vào các quan hệ xã hội bị điều chỉnh bởi những quy phạm của
ngành luật đó. Ví dụ, Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Ngời cha
thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự", tuy cha đủ 18 tuổi (cha coi là thành niên) họ vẫn bị pháp luật quy định là

phải chịu trách nhiệm hình sự; Điều 18 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "Ngời từ
đủ 18 tuổi trở lên là ngời thành niên. Ngời cha đủ 18 tuổi là ngời cha thành
niên". Cũng theo quy định của Bộ luật ngời cha thành niên vẫn đợc tham gia vào
các quan hệ dân sự, mà khi đó họ phải đợc pháp luật công nhận là có khả năng "sử
dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm"; Điều 119 Bộ luật Lao động 2002
quy định: "ngời lao động cha thành niên là ngời lao động dới 18 tuổi", theo đó
Bộ luật cũng quy định các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của ngời lao động cha
thành niên. Nh vậy định nghĩa này là cha chính xác.
Bên cạnh đó, còn có khái niệm "trẻ em". Theo Công ớc về quyền trẻ em
1989: "Trẻ em là mọi ngời dới 18 tuổi, trừ trờng hợp pháp luật áp dụng với trẻ
em đó có quy định tuổi thành niên sớm hơn". Tại Điều 11 Quy tắc tối thiểu phổ
biến của Liên hợp quốc về bảo vệ ngời cha thành niên bị tớc quyền tự do năm
1990 đã quy định: "Những ngời cha thành niên là ngời dới 18 tuổi". Có thể thấy
qua hai văn bản pháp lý quốc tế trên, khái niệm "trẻ em" và khái niệm "ngời cha
thành niên" đều để chỉ ngời dới 18 tuổi.
Lại có ý kiến cho rằng, theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm "trẻ em" và
khái niệm "ngời cha thành niên" có sự khác nhau với dẫn chứng Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2005 quy định: "Ngời cha đủ 18 tuổi là ngời cha thành niên", còn
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: "Trẻ em đợc quy định trong
5
Luật này là công dân Việt Nam dới 16 tuổi" (Điều 1). Theo đó, khoảng cách giữa
"trẻ em" và "ngời cha thành niên" là khoảng cách 2 năm.
Về độ tuổi của ngời cha thành niên, có rất nhiều ý kiến khác nhau nh: ngời
cha thành niên là ngời ở độ tuổi 14 đến 17 tuổi (Spranger); từ 11 đến 15 tuổi
(Bromlei); từ 12 đến 15 tuổi (J. Piagie) hay có sự phân biệt giữa nam và nữ nh:
nam là từ 14 đến 16 tuổi, nữ là 11 đến 13 (Buhler); nam 12 đến 17 tuổi, nữ là 12
đến15 tuổi (Grimn) [6, tr.60].
Có thể thấy rằng, việc xác định độ tuổi ngời cha thành niên là rất khó, không
thể đồng nhất hai khái niệm "ngời cha thành niên" và "trẻ em", cũng không nên
xem khái niệm nào có nội hàm rộng hay hẹp hơn. Nhìn chung các ý kiến đều

thống nhất cho rằng giới hạn độ tuổi cao nhất của ngời cha thành niên là dới 18
tuổi. Chúng tôi cho rằng không nhất thiết phải có một khái niệm cụ thể về ngời ch-
a thành niên, chỉ cần xác định ngời cha thành niên bao gồm những ngời ở lứa tuổi
nào? hợp lý nhất đó là những ngời ở độ tuổi từ đủ 12 đến dới 18 tuổi, bởi đây là
giai đoạn mà theo tâm lý học thì tâm sinh lí của ngời cha thành niên đợc thể hiện
rõ nhất. Mặt khác, khi nghiên cứu về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối
với ngời cha thành niên, theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, Điều 7
quy định về Xử lý ngời cha thành niên vi phạm hành chính thì: "ngời từ đủ 14 đến
dới 16 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo", "ngời từ đủ 16 tuổi đến d-
ới 18 tuổi vi phạm hành chính thì bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành
chính quy định tại Điều 12", và ngời cha thành niên từ đủ 12 tuổi có thể bị áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính khác. Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính
cũng không có một điều nào quy định cụ thể ngời cha thành niên là ngời ở độ tuổi
nào nhng có thể thấy đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính là những ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 18 tuổi.
Nh vậy, có thể kết luận ngời cha thành niên là ngời từ đủ 12 tuổi đến dới
18 tuổi.
1.1.2. Đặc điểm
Dới góc độ tâm lí học, con ngời phải trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lí riêng, đặc trng
6
cùng với tác động bên ngoài làm hình thành những những hành vi ứng xử khác
nhau. Giai đoạn cha thành niên là giai đoạn có vị trí đặc biệt quan trọng trong cả
quá trình phát triển và hoàn thiện ấy. Nghiên cứu ngời cha thành niên qua các đặc
điểm về tâm lí, sinh lí sẽ giúp chúng ta lí giải đợc cơ sở khoa học của những quy
định pháp luật nói chung và của Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính nói riêng đối
với đối tợng này. Sau đây là một vài đặc điểm đặc trng về tâm sinh lí của ngời cha
thành niên.
Ngời cha thành niên gồm những ngời ở độ tuổi từ đủ 12 đến dới 18 tuổi. Cần
phải nói rằng, tuổi chỉ có ý nghĩa là yếu tố thời gian trong quá trình phát triển của

con ngời. Với ngời cha thành niên, họ cần có thời gian chuẩn bị về mọi mặt để
chuyển sang một giai đoạn mới: giai đoạn trởng thành (để lớn lên về cơ thể, mở
rộng quan hệ xã hội, tích luỹ tri thức, phơng thức hoạt động ). Tuổi không quy
định trực tiếp sự phát triển nhân cách. Tuổi có thể phù hợp với trình độ phát triển
tâm lí của con ngời, tuổi cũng có thể đi chậm hơn hoặc đi nhanh hơn là còn phụ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh xung quanh. Tuy nhiên ngời cha thành niên sống
trong hoàn cảnh nào cũng có những đặc điểm chung, đặc trng cho lứa tuổi. Đó là
đặc điểm của một giai đoạn mà cách gọi thôi cũng cho thấy tính phức tạp và tầm
quan trọng của nó: "thời kì quá độ" (cha phải là ngời lớn cũng không còn là trẻ
con), "tuổi khủng hoảng" (cả về sinh lí lẫn tâm lí), "tuổi khó bảo" (các em ở độ
tuổi này trở nên bớng bỉnh và khó bảo), "tuổi bất trị"
Thứ nhất, đặc điểm sinh lí
Thời kì này, cơ thể phát triển mạnh mẽ nhng không đồng đều, biểu hiện bên
ngoài là các em lớn lên trông thấy. Tuỳ thuộc vào độ tuổi, ngay trong cùng giai
đoạn mà sự phát triển giữa nam và nữ là khác nhau, nh cùng trong giai đoạn cha
thành niên nhng ở độ tuổi 12-13, các em nữ phát triển hơn các em nam về hình
dáng thì ở độ tuổi 14-15, cơ thể các em nam lại phát triển hơn. Tuy nhiên ở cả
nam và nữ đều có những đặc điểm chung của lứa tuổi.
Sự phát triển của hệ xơng mà chủ yếu là sự phát triển của xơng tay, xơng
chân rất nhanh nhng xơng ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Do đó, cơ thể
7
phát triển không cân đối khiến các em trở nên lóng ngóng, vụng về và hay làm đổ
vỡ
Sự phát triển của hệ thống tim mạch không cân đối khiến các em dễ rơi vào
tình trạng rối loạn tạm thời với những biểu hiện nh: mệt mỏi, chóng mặt, nhức
đầu. Những biểu hiện này diễn ra không lâu nhng lại thờng xuyên, làm ảnh hởng
không nhỏ đến đời sống sinh hoạt hàng ngày cũng nh tâm lý của ngời cha thành
niên.
Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh thờng dẫn đến sự rối loạn của hoạt
động thần kinh làm cho các em dễ xúc động, hay bực tức hay nổi nóng, do đó các

em hay có những phản ứng mạnh mẽ và gay gắt về những ngời xung quanh, về
những việc mà các em cảm thấy không hài lòng.
Hệ thần kinh cha có khả năng chịu đợc những kích thích mạnh và kéo dài,
dẫn đến cảm giác ức chế, uể oải, thờ ơ, lãnh đạm, tản mạn khiến các em đôi khi c
xử không đúng với bản chất của mình, nghiêm trọng hơn là có những hành vi vi
phạm đạo đức xã hội và đặc biệt là vi phạm pháp luật.
Một đặc điểm sinh lí đặc trng nữa của ngời cha thành niên đó là sự phát dục,
đây là dấu hiệu cho thấy rõ ràng nhất sự lớn lên của các em. Điều này làm xuất
hiện ở các em nhiều biểu hiện mới nh nhu cầu giao tiếp với bạn bè, đặc biệt là với
bạn bè khác giới. Các em trởng thành hơn về mặt cơ thể, nhng nhận thức vẫn còn
hạn chế.
Chính những đặc điểm về sinh lí ảnh hởng đến những đặc điểm về tâm lí, từ
đó quyết định đến hành vi của ngời cha thành niên.
Thứ hai, đặc điểm tâm lí
Song song với sự phát triển về sinh lí, ở ngời cha thành niên đã bắt đầu hình
thành sự "tự ý thức" với các câu hỏi: mình nh thế nào? mình đang làm gì? có
những ai quan tâm đến mình? Quá trình này diễn ra dần dần, cùng với diễn biến
tâm lí phức tạp, dễ xúc động, dễ bị kích động, chợt vui, chợt buồn, tình cảm bồng
bột, hăng say, hoạt động thần kinh không cân bằng, quá trình hng phấn mạnh hơn
quá trình ức chế, do đó khiến các em không thể tự kiềm chế nổi bản thân khi gặp
8
tình huống bất ngờ. Điều này sẽ dẫn đến những lỗi không đáng mắc phải, kể cả
việc vi phạm pháp luật.
Do có thể tự ý thức về bản thân, các em cũng có thể nhận thấy sự thay đổi về
sinh lí của mình và đôi khi các em có thái độ, tâm lí khó chịu với chính những
thay đổi đó. Các em biết những việc nào thì đợc phép làm, những việc nào không
nhng vẫn làm theo cách của mình với những lý do rất riêng. Do đó, khi mắc lỗi,
thay vì nhìn nhận thẳng vào vấn đề để sửa chữa khắc phục thì các em lại cố che
dấu, thể hiện ra cử chỉ điệu bộ ở bên ngoài không tự nhiên, tỏ ra mạnh dạn, can
đảm để ngời khác không chú ý đến mình; hay chỉ vì một hành động chế giễu, mỉa

mai về hình thể dáng vẻ đi lại bên ngoài cũng gây cho các em những phản ứng
mạnh mẽ
Các em luôn muốn bộc lộ cá tính, tự khẳng định mình, muốn nhanh chóng đ-
ợc trở thành ngời lớn và cố gắng để đợc đối xử nh ngời lớn, do đó hay phóng đại
năng lực bản thân mình nh ng thực chất kết thúc giai đoạn cha thành niên các em
mới chỉ phát triển khá hoàn thiện về mặt sinh lí, còn quá trình nhận thức vẫn cha
đầy đủ. Nhận thức về xã hội, đạo đức, pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là nhận
thức về pháp luật. Đôi khi những nhận thức quan điểm về pháp luật không đợc
hình thành hoặc có nhng bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của các em.
Mặc dù sống độc lập hơn và muốn tỏ ra mình là ngời lớn nhng các em ở độ
tuổi này vẫn cần có sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ, bởi những khó khăn, rắc
rối về mặt tâm lí, sinh lí là không tránh khỏi. Cha mẹ phải là ngời hiểu rõ điều đó
để quan tâm cho đúng mức, sao cho các em vẫn có thể phát huy đợc tính độc lập
của mình nhng không thể tách rời sự quản lý chặt chẽ cần thiết của cha mẹ.
Khi trở thành đối tợng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính thì những đặc
điểm tâm sinh lí trên phải đợc xem xét để pháp luật có những quy định phù hợp,
đảm bảo việc bảo vệ hiệu quả nhất những quyền lợi của đối tợng "đặc biệt" này.
1.2. ảnh hởng của những đặc điểm của ngời cha thành niên
đối với việc quy định các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
9
Pháp luật Việt Nam nói chung, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói
riêng có những quy định rất đặc thù với đối tợng là ngời cha thành niên vi phạm
pháp luật.
Tiêu biểu phải kể đến Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, là một đạo
luật chỉ quy định những vấn đề liên quan đến trẻ em, trong đó có cả ngời cha
thành niên, gồm những quy định chung, những quy định về quyền và nghĩa vụ của
trẻ em cũng nh của những đối tợng liên quan đảm bảo mang lại cho trẻ em những
điều tốt đẹp nhất: "Các quyền của trẻ em phải đợc tôn trọng và thực hiện" (khoản
1 Điều 6); "Gia đình, Nhà nớc và xã hội có trách nhiệm bảo vê tính mạng, thân
thể, nhân phẩm, danh dự của trẻ em; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tai

nạn cho trẻ em" (khoản 1 Điều 26)
Trong Bộ luật hình sự 1999, chơng X là chơng quy định riêng với ngời cha
thành niên, gồm các quy định về nguyên tắc xử lý đối với ngời cha thành niên
phạm tội: "Việc truy cứu trách nhiệm hình sự ngời cha thành niên phạm tội và
áp dụng các hình phạt đối với họ đợc thực hiện chỉ trong trờng hợp cần thiết và
phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm" (khoản 2 Điều 69), hoặc "không
xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với ngời cha thành niên phạm tội" (khoản
5 Điều 69); hay quy định về hình phạt tiền: "mức phạt tiền đối với ngời cha thành
niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định"
Trong Bộ luật Lao động, khi quy định về thời giờ làm việc của ngời lao động
cha thành niên thì "Thời giờ làm việc của ngời lao động cha thành niên không đ-
ợc quá bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ một tuần" (khoản 1 Điều 122), trong khi đối
với ngời lao động đã thành niên thời gian đó là "không quá 8 giờ trong một ngày
hoặc 48 giờ trong một tuần" (khoản 1 Điều 68), quy định nh vậy để đảm bảo
tránh ảnh hởng xấu đến sự phát triển về thể lực và trí lực của ngời cha thành niên,
tránh tình trạng ngời cha thành niên bị lạm dụng sức lao động.
10
Bộ luật dân sự 2005 quy định: "Ngời từ đủ sáu tuổi đến cha đủ mời tám tuổi
khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải đợc ngời đại diện theo pháp luật
đồng ý" (khoản 1 Điều 20)
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính cũng có những quy định riêng đối với
ngời cha thành niên vi phạm hành chính, không phải bất kì ngời cha thành niên
nào cũng bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, họ chỉ có thể bị áp
dụng các biện pháp đó khi thoả mãn một số điều kiện nhất định, gồm: thứ nhất,
phải đạt đến một độ tuổi nhất định; thứ hai, có khả năng nhận thức và có khả năng
điều khiển hành vi; thứ ba, họ phải thực hiện hành vi trái pháp luật mà theo quy
định bị áp dụng cỡng chế hành chính. Khi họ bị áp dụng các biện pháp cỡng chế
hành chính thì việc áp dụng cũng có những điểm khác biệt với việc áp dụng các
biện pháp cỡng chế này đối với ngời đã thành niên.

- Phần lớn ngời cha thành niên còn sống phụ thuộc vào gia đình, họ không có
tài sản riêng, quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành chính phải phù hợp với
những đặc điểm đó để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng. Khoản 1 Điều 7 Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định ngời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi vi
phạm hành chính thì bị phạt cảnh cáo, khác với trớc đây quy định là phạt tiền dến
50.000 đồng, ngời từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi vi phạm hành chính mà bị áp dụng
hình thức phạt tiền thì mức tiền phạt đối với họ không đợc quá một phần hai mức
phạt đối với ngời thành niên. Biện pháp xử phạt với ngời cha thành niên chỉ mang
tính chất răn đe, giáo dục là chính, ở độ tuổi đủ 14 đến dới 16, việc quy định hình
thức phạt tiền là không cần thiết, bởi những ngời cha thành niên không có khả
năng để chấp hành biện pháp xử phạt này, thờng thì cha mẹ họ là những ngời có
trách nhiệm nộp thay. Điều đó sẽ không có tác dụng nhiều đến nhận thức của họ,
bởi vốn có nhận thức cha đầy đủ và sâu sắc, họ đợc cha mẹ thực hiện thay sẽ
không thể hiểu đợc mục đích chính của việc áp dụng xử phạt vi phạm hành chính
đối với họ là răn đe, giáo dục. Còn ở độ tuổi từ đủ 16 đến dới 18, các em đã có thể
có nhận thức đầy đủ hơn, việc phạt cảnh cáo với các em đôi khi lại cha đủ, cần
phải áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là phạt tiền.
11
- Chỉ riêng những đặc điểm tâm sinh lí cha đủ để dẫn đến những hành vi vi
phạm pháp luật, chính những yếu tố bên ngoài từ phía gia đình, bạn bè và xã hội
khi có tác động tiêu cực đến khả năng nhận thức của các em khiến các em thực
hiện những hành vi vi phạm pháp luật. Pháp luật cũng tính đến cả những yếu tố
này khi quy định biện pháp cỡng chế đối với ngời cha thành niên.
Trong mối quan hệ với gia đình mà cụ thể là mối quan hệ với cha mẹ, sự hiểu
biết của cha mẹ về những thay đổi tâm sinh lí của con cha thành niên có ý nghĩa
rất quan trọng. Tuy nhiên, sự hiểu biết này mới chỉ dừng lại ở những thay đổi bên
ngoài, đợc thể hiện rõ nét trong một thời gian dài; còn những thay đổi tâm sinh lí
có tính chất bên trong thì cha mẹ ít quan tâm hơn. Do đó khi ý thức của ngời cha
thành niên bị lệch lạc dẫn đến vi phạm pháp luật, cha mẹ họ thờng cho rằng
nguyên nhân là do chính bản thân chúng gây ra, họ không hề phải chịu trách

nhiệm về điều đó, rất nhiều trong số đó bỏ mặc và không quan tâm đến đời sống
của con ở lứa tuổi này. Khi thiếu vắng tình cảm của cha mẹ, ngời cha thành niên
chỉ còn tìm thấy sự cân bằng, an ủi của những ngời thân khác trong gia đình, họ
hàng và bạn bè. Tuy nhiên điều đó không phải lúc nào cũng có thể mang lại cảm
giác thanh thản, yên ổn thật sự và có thể thay thế tình cảm giữa cha mẹ và con cái
trong gia đình. Khi đó, các em nhanh chóng tìm đến sự giải toả tâm lí bằng những
hành động thể hiện sự nông nổi, bồng bột của ngời cha thành niên. Có thể đa ra
một ví dụ về trờng hợp của Trơng Hữu Thân. Sinh năm 1992 tại Phong Điền (Thừa
Thiên Huế), Thân vốn là một cậu bé ngoan ngoãn sống hiếu thuận cùng gia đình.
Nhng sau đó bố mẹ Thân chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh kiếm sống. Không
còn sự quan tâm, chăm sóc của bố mẹ, Thân dần bê trễ học hành và bớc vào con đ-
ờng ham mê cờ bạc rồi trộm cắp vặt từ khi cha đầy 12 tuổi. Sau đó, lại đợc gửi đến
cho ông bà nội quản lí. Không dạy nổi cháu, mỗi lần đi đâu vắng ông nội lại đào
một cái hố rồi chôn đứng đứa cháu 12 tuổi xuống, khi về lại đào lên. Sự việc kéo dài
cho đến một đêm, thấy ông nội đã ngủ say và biết dới gối của ông có 275.000 đồng
Thân nghĩ đến chuyện lấy cắp, bị ông nội tỉnh dậy, phát hiện, tát mấy cái vào mặt,
Thân lẳng lặng bỏ đi ngủ nhng đến 3 giờ sáng Thân đã dùng búa bổ củi bổ nhiều nhát
vào mặt ông khiến ông chết ngay tại chỗ. Hành vi của Thân là do cố ý nhng ở độ tuổi
12
này Thân cha thể ý thức đợc sự cố ý của mình. Chính hoàn cảnh gia đình (bố mẹ mải
mê kiếm tiền, không quan tâm để ý; ông nội ngợc đãi) là nguyên nhân dẫn đến hành
vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của Thân. Có rất nhiều ngời cha thành niên chịu
tác động tiêu cực từ chính gia đình dới nhiều góc độ khác nhau. Do đó, hành vi của
Thân đã có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng (quy định tại Điều 93 Bộ luật
Hình sự) nhng căn cứ vào đặc điểm nhân thân, Thân không phải chịu trách nhiệm
hình sự, thay vào đó bị áp dụng một trong những biện pháp xử lý vi phạm hành
chính là đa vào trờng giáo dỡng.
Bạn bè và những tác động bên ngoài xã hội cũng là những yếu tố ảnh hởng
không nhỏ đến ngời cha thành niên, họ rất dễ bị bạn bè lôi kéo, kích động, bất kì
điều gì mới lạ diễn ra xung quanh cũng khiến họ thấy tò mò tìm hiểu trong khi

nhận thức đúng đắn cha đợc hình thành một cách vững chắc. Những lúc đó họ
thậm chí không thể nhận thức đợc hành vi của mình là đúng hay sai. Ví dụ, một
cậu bé tên Tứ, sinh năm 1991, quê ở Bình Định, khi chỉ mới vừa 14 tuổi, đã phải
vào trờng giáo dỡng cải tạo 24 tháng về tội hiếp dâm và giết ngời. Chỉ vì muốn
"thử" một hành động nh ngời lớn, Tứ đã hiếp dâm một bé gái nhà hàng xóm mới
chỉ lên 2. Với những trờng hợp đó, việc quy định và áp dụng các biện pháp cỡng
chế không thể nh với ngời thành niên, do vậy có thể hành vi của họ đã có dấu hiệu
của một tội phạm nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì căn cứ vào độ tuổi,
vào các yếu tố nhân thân, ngời cha thành niên cũng không phải chịu trách nhiệm
hình sự mà chỉ phải chịu trách nhiệm hành chính, cụ thể Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2002 quy định: "Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 14 tuổi thực hiện hành vi
có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại Bộ luật hình sự" là một trong những đối tợng bị áp dụng biện pháp xử lí
hành chính khác là đa vào trờng giáo dỡng (điểm a khoản 2 Điều 24) hoặc chỉ áp
dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn đối với "Ngời từ đủ 12 tuổi đến d-
ới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý
quy định tại Bộ luật hình sự" (điểm a khoản 2 Điều 23) mà không truy cứu trách
nhiệm hình sự với đối tợng này.
13
- Ngời cha thành niên luôn cần đợc giúp đỡ về mọi mặt, ngay cả khi họ vi
phạm pháp luật. Đôi khi họ cũng là ngời bị tổn thơng do thực hiện chính những
hành vi vi phạm của mình, "ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên" là một ví dụ.
Với lí do đó, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 quy định biện pháp đa vào
cơ sở chữa bệnh áp dụng với ngời nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên và ngời bán
dâm có tính chất thờng xuyên từ đủ 16 tuổi. Đặc biệt Pháp lệnh còn quy định cơ sở
chữa bệnh phải tổ chức khu vực dành riêng cho ngời dới 18 tuổi, quy định đó là
căn cứ vào đặc điểm riêng của ngời cha thành niên là những ngời cần chăm sóc
đặc biệt hơn. Tại đây họ đợc lao động, đợc học văn hoá, học nghề và chữa bệnh.
- Cũng do những đặc điểm riêng về tâm sinh lí, những hạn chế về nhận thức,
Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính quy định không áp dụng một số biện pháp c-

ỡng chế đối với ngời cha thành niên; khoản 2 Điều 25: "Không đa vào cơ sở
giáo dục ngời cha đủ 18 tuổi", khoản 2 Điều 27: "Không áp dụng quản chế
hành chính đối với ngời dới 18 tuổi" (hiện nay, theo Pháp lệnh sửa đổi một số
điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, biện pháp quản chế hành chính đã bị
bãi bỏ).
Qua phân tích trên có thể thấy những đặc điểm về tâm sinh lí của ngời cha
thành niên có ảnh hởng rất quan trọng đến quy định pháp luật nói chung và pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng. Hiện tại và lâu dài, chúng ta cần phải
dựa vào những đặc điểm này để xây dựng và ngày càng hoàn thiện quy định của
pháp luật, đảm bảo đợc mục đích của pháp luật là phòng ngừa, ngăn chặn, giáo
dục những ngời có hành vi vi phạm đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của ngời cha thành niên.
Chơng 2
Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử lý hành
chính đối với ngời cha thành niên
2.1. Quá trình hình thành các quy định pháp luật về biện
pháp xử lý hành chính đối với ngời cha thành niên
14
Trải qua 40 năm kể từ khi những quy định đầu tiên về xử lý vi phạm hành
chính ra đời, pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã và đang đợc xây dựng ngày
càng hoàn thiện hơn về mặt nội dung cũng nh hình thức pháp lý. Tuy nhiên những
quy định về xử lý vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên chỉ thực sự ra
đời vào năm 1977 với Điều lệ xử phạt vi cảnh đợc ban hành kèm theo NĐ 143/CP
ngày 27/05/1977.
Trớc đó, ngày 18/02/1967 Thủ tớng Chính phủ đã ra quyết định 217 TTg/NC
về tổ chức lại các trờng giáo dục thiếu niên h, trờng phổ thông công nghiệp là tiền
thân của trờng giáo dỡng ngày nay. Đối tợng của quyết định này là những ngời ch-
a thành niên có hành vi nguy hại cho xã hội và lu manh chuyên nghiệp. Tuy nhiên
đây lại là những đối tợng phạm pháp hình sự.
Điều lệ xử phạt vi cảnh là văn bản đầu tiên quy định có hệ thống về xử phạt

vi phạm hành chính. Trong đó, Điều 6 quy định: "Đối với ngời dới 14 tuổi thì
giáo dục rồi báo cho cha mẹ hay ngời có trách nhiệm nuôi dạy biết, yêu cầu họ
phải thi hành trách nhiệm quản lý giáo dục con em họ. Đối với ngời từ đủ 14
đến 16 tuổi thì nặng nhất là phạt tiền, đối với ngời từ đủ 16 đến 17 tuổi không có
tài sản riêng, cha mẹ hay ngời có trách nhiệm nuôi dỡng phải nộp thay".
Nh vậy đối tợng bị phạt vi cảnh là ngời từ đủ 14 tuổi trở lên, cụ thể là: từ đủ
14 đến 16 tuổi thì có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền; từ đủ 16 đến 17 tuổi có
thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền hoặc phạt lao động công ích, phạt giam nh với ngời
lớn. Cần phải chú ý rằng, Điều lệ xử phạt vi cảnh chỉ quy định về vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Với một phạm vi điều chỉnh không rộng nh vậy thì những quy định đối với ngời
cha thành niên cha nhiều và cha cụ thể.
Sau một thời gian khá dài, ngày 30/11/1989, Hội đồng Nhà nớc ban hành
Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính có
hiệu lực từ ngày 1/1/1990 đánh dấu bớc phát triển quan trọng trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện chế định pháp luật về trách nhiệm hành chính. Lần đầu tiên
trong lịch sử pháp luật Việt Nam, việc quy định những vấn đề cơ bản mang tính
nguyên tắc về xử phạt vi phạm hành chính đợc thể hiện tập trung trong một văn
15
bản, làm cơ sở để xây dựng những văn bản quy định cụ thể hành vi vi phạm hành
chính, hình thức và mức xử phạt trong các lĩnh vực quản lý nhà nớc. Đặc biệt
những quy định đối với ngời cha thành niên cũng đợc kế thừa và phát huy. Điều 29
của Pháp lệnh quy định về xử phạt đối với ngời cha thành niên nh sau:
Ngời từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi phải chịu trách nhiệm hành
chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Ngời từ đủ 14
tuổi đến dới 16 tuổi chỉ bị phạt đối với những vi phạm hành chính
thực hiện do cố ý; hình thức và mức phạt đối với họ là cảnh cáo
hoặc phạt tiền đến 10.000 đồng. Đối với ngời dới 14 tuổi thì không
xử phạt mà áp dụng biện pháp giáo dục. Trong trờng hợp ngời cha
thành niên không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc ngời giám hộ

phải nộp phạt thay. Quyết định xử phạt với ngời cha thành niên khi
cha đủ 16 tuổi thì không tính để xác định tái phạm.
Sau hơn năm năm thực hiện, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính không còn phù hợp với thực
tiễn áp dụng. Do đó, ngày 06/07/1995 Uỷ ban thờng vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thay thế cho Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành
chính có hiệu lực từ ngày 01/08/1995. Ngoài việc quy định về các biện pháp xử
phạt, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 còn quy định về việc áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính khác. Đây là điểm mới hoàn toàn so với những quy
định trớc. Để thi hành pháp lệnh này Chính phủ đã ban hành 45 nghị định quy
định cụ thể về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà
nớc và 5 nghị định ban hành các quy chế quy định chi tiết trình tự, thủ tục áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính khác. Ngoài ra còn một khối lợng lớn những thông
t, chỉ thị hớng dẫn thi hành những quy định của Pháp lệnh nhng nhìn chung các
quy định cụ thể về biện pháp xử lý vi phạm hành chính với ngời cha thành niên
không nhiều. Điều 5 Pháp lệnh quy định về đối tợng bị xử lý vi phạm hành chính,
mà ngời cha thành niên là một trong những đối tợng đó: "Ngời từ đủ 14 tuổi đến
dới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý, ngời
từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành
16
chính do mình gây ra (điểm a khoản 1). Quy định này đợc kế thừa từ Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính năm 1989. Điều 6 quy định riêng về xử lý ngời cha thành
niên vi phạm hành chính, trong đó mức phạt tiền đối với ngời cha thành niên từ đủ
14 tuổi đến dới 16 tuổi đã đợc nâng lên mức cao hơn từ 10.000 đồng thành 50.000
đồng, mức phạt tiền đối với ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi quy
định là thấp hơn so với mức phạt đối với ngời thành niên mặc dù không quy định
là thấp hơn bao nhiêu. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 còn quy
định về trách nhiệm bồi thờng thiệt hại của ngời cha thành niên do hành vi vi
phạm hành chính gây ra: "Ngời cha thành niên khi vi phạm hành chính gây thiệt
hại vật chất thì phải bồi thờng theo quy định của pháp luật" (khoản 2 Điều 6).

Cha mẹ và ngời giám hộ vẫn phải có trách nhiệm nộp phạt thay khi ngời cha thành
niên không có tiền nộp phạt. Việc quy định thêm những biện pháp xử lý hành
chính khác bên cạnh các biện pháp xử phạt hành chính nh trong Pháp lệnh xử phạt
vi phạm hành chính năm 1989 đã đạt đợc những kết quả đáng kể trong việc ngăn
chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính, đặc biệt là vi phạm hành chính do ngời cha
thành niên gây ra. Có năm biện pháp xử lý hành chính khác nhng chỉ có hai biện
pháp đợc áp dụng đối với ngời cha thành niên là giáo dục tại xã, phờng, thị trấn và
đa vào trờng giáo dỡng. Còn các biện pháp đa vào cơ sở giáo dục; đa vào cơ sở
chữa bệnh và quản chế hành chính không đợc áp dụng đối với ngời cha thành niên.
Tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 ra đời thay thế cho Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 đợc Uỷ ban thờng vụ Quốc hội thông
qua ngày 02/07/2002, bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2002. Pháp lệnh
mới ra đời có ý nghĩa cả về thực tiễn và lý luận, góp phần tháo gỡ những khó khăn,
vớng mắc trong thực tế áp dụng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995, ngày
càng nâng cao, phát huy hiệu quả xử lý vi phạm, có tác dụng giáo dục ý thức pháp
luật đối với những ngời có hành vi vi phạm hành chính và cả những ngời không có
hành vi vi phạm hành chính. Nhìn chung, những quy định đối với ngời cha thành
niên có nhiều điểm mới để phù hợp hơn với đối tợng này, nh quy định không áp
dụng hình thức phạt tiền với ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi vi
17
phạm hành chính, đối tợng này chỉ bị phạt cảnh cáo. Với ngời cha thành niên từ đủ
16 tuổi đến dới 18 tuổi, thì mức phạt tiền đối với họ đợc quy định cụ thể hơn là
"không quá một phần hai mức phạt đối với ngời thành niên". Về các biện pháp
xử lý hành chính khác, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính vẫn quy định có năm
biện pháp xử lý hành chính khác, trong đó có ba biện pháp đợc áp dụng với ngời
cha thành niên, gồm: giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo dỡng và đa
vào cơ sở chữa bệnh thay vì chỉ có hai biện pháp đợc áp dụng với ngời cha thành
niên nh ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (giáo dục tại xã, phờng,
thị trấn và đa vào trờng giáo dỡng). Đặc biệt biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị

trấn đợc quy định cụ thể tại Điều 23 với bốn nhóm đối tợng, không quy định
chung chung nh Điều 21 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 là: "Ngời
nhiều lần có hành vi vi phạm pháp luật nhng cha đến mức đa vào trờng giáo d-
ỡng, cơ sở chữa bệnh; ngời nghiện ma tuý, ngời mại dâm nhng cha đến mức đa
vào cơ sở chữa bệnh thì áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn".
Ngoài ra còn có những quy định mới khác nh hạ độ tuổi đa vào cơ sở chữa bệnh
với ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên từ đủ 18 tuổi xuống còn từ đủ 16 tuổi,
bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc xử lý vi
phạm hành chính trong đó có quy định áp dụng đối với ngời cha thành niên.
Sau đây là những quy định cụ thể của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 và những văn bản pháp luật có liên quan về biện pháp xử lý vi phạm
hành chính đối với ngời cha thành niên.
2.2. các Biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với ngời ch-
a thành niên theo pháp luật hiện hành
Biện pháp xử lý vi phạm hành chính với ngời cha thành niên theo pháp luật
hiện hành đợc quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và
các văn bản hớng dẫn có liên quan.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 là kết quả của một quá trình
lâu dài không ngừng hoàn thiện các quy định của pháp luật, với mục đích "để đấu
tranh phòng ngừa và chống vi phạm hành chính, góp phần giữ vững an ninh trật
18
tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nớc, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu lực quản lý
của Nhà nớc". Pháp lệnh gồm có 10 chơng với 124 điều, trong đó ngoài những
quy định chung áp dụng cho cả ngời cha thành niên, còn có các quy định riêng áp
dụng với đối tợng này nh Điều 7- Xử lý ngời cha thành niên vi phạm hành chính,
Điều 24 - Đa vào trờng giáo dỡng. Từ khi Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 ra đời đã có rất nhiều các nghị định hớng dẫn chi tiết việc thực hiện
những quy định của Pháp lệnh, trong đó có các nghị định nh Nghị định số
134/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính ban hành ngày 14/11/2003; Nghị định số 142/2003/NĐ-CP quy
định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đa vào trờng giáo dỡng ban hành
ngày 24/11/2003; Nghị định số 163/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện
pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn ban hành ngày 19/12/2003; Nghị định số
135/2004/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp đa vào cơ sở chữa bệnh, tổ
chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và
chế độ áp dụng đối với ngời cha thành niên, ngời tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh
ban hành ngày 10/06/2004
Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh quy định: "Xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử
phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác". Tuy nhiên
không phải mọi biện pháp xử lý vi phạm hành chính đều đợc áp dụng với ngời cha
thành niên.
2.2.1. Các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính đối với ngời cha thành niên là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt
vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành
chính đối với ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật.
Ngời cha thành niên khi vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một trong
những hình thức xử phạt chính là phạt cảnh cáo và phạt tiền.
19
2.2.1.1. Phạt cảnh cáo
Điều 13 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định: "Cảnh cáo
đợc áp dụng với các cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình
tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do ngời cha thành
niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo đợc quyết định bằng văn
bản".
Theo quy định trên thì đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng hình thức
phạt cảnh cáo là ngời cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi. Đối với ngời
cha thành niên từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi, Điều 6 của Pháp lệnh quy định: "Ng-

ời từ đủ 14 tuổi đến dới 16 tuổi bị xử phạt bị xử phạt hành chính về vi phạm
hành chính do cố ý". Nh vậy, những ngời ở độ tuổi này bị phạt cảnh cáo khi thoả
mãn các điều kiện: thứ nhất, thực hiện hành vi vi phạm hành chính đợc quy định
trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; thứ hai, thực hiện hành vi đó do lỗi cố
ý. Đối với ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đến dới 18 tuổi bị phạt cảnh cáo nếu
"vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ" (Điều 13), tuy nhiên
việc xác định nh thế nào là "vi phạm hành chính nhỏ" thì lại không có căn cứ, tiêu
chí rõ ràng, còn các tình tiết giảm nhẹ đợc quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh.
Theo đó ngời cha thành niên dới 14 tuổi không bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo
trong mọi trờng hợp.
Thẩm quyền xử phạt cảnh cáo đợc quy định tại chơng IV của pháp lệnh tuỳ
thuộc vào mức độ vi phạm và lĩnh vực quản lý của các chủ thể có thẩm quyền.
Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo là thủ tục đơn giản (chỉ ra quyết
định xử phạt, không lập biên bản).
2.2.1.2. Phạt tiền
Hình thức phạt tiền đợc quy định tại Điều 14 Pháp lệnh, với mức phạt tiền là
từ 5.000 đồng đến 500.000.000 đồng, dựa vào tính chất, mức độ vi phạm, mức
phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nớc.
Đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng hình thức xử phạt này là ngời từ đủ
16 tuổi đến dới 18 tuổi vi phạm hành chính mà không thuộc những trờng hợp bị xử
phạt cảnh cáo. Mức tiền phạt cao nhất áp dụng với đối tợng này là 250.000.000
20
đồng do "Khi phạt tiền đối với họ thì mức tiền phạt không đợc quá một phần hai
mức phạt đối với ngời thành niên". Pháp lệnh quy định không áp dụng hình thức
phạt tiền đối với ngời cha thành niên dới 16 tuổi. Đây là điểm mới của Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002 so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 1995. Ngời cha thành niên từ đủ 16 tuổi đợc coi là đã có khả năng nhận thức
đầy đủ hơn về hành vi của mình, khi vi phạm hành chính do họ gây ra không phải
là những "vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ", có nghĩa là họ
đã nhiều lần vi phạm, hoặc những vi phạm này gây ra hậu quả lớn mà không có

tình tiết giảm nhẹ, thì việc phạt cảnh cáo chỉ mang tính chất răn đe không thể phát
huy đợc hiệu quả trong việc ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm hành chính, do đó họ
phải bị áp dụng hình thức xử phạt cao hơn là phạt tiền. "Nếu ngời cha thành niên
không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc ngời giám hộ phải nộp thay", việc quy
định nh vậy buộc cha mẹ hoặc ngời giám hộ phải có trách nhiệm nhiều hơn với
ngời cha thành niên là con hoặc là ngời đợc mình giám hộ.
Thẩm quyền ra quyết định áp dụng hình thức xử phạt tiền đợc quy định tại
chơng IV của Pháp lệnh.
Thủ tục áp dụng hình thức xử phạt tiền là thủ tục đơn giản (trong trờng hợp
phạt tiền từ 5.000 đồng đến 100.000 đồng), và thủ tục xử phạt có lập biên bản
(trong trờng hợp phạt tiền từ trên 100.000 đồng trở lên).
2.2.1.3. Các hình thức xử phạt bổ sung
Ngoài hai hình thức xử phạt chính trên thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
ngời cha thành niên còn có thể bị áp dụng một trong những hình thức xử phạt bổ
sung: "tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề" hoặc "tịch thu tang
vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm hành chính". Đây là những hình thức xử
phạt bổ sung, vì vậy chúng không đợc áp dụng một cách độc lập mà luôn đợc áp
dụng kèm theo với hình thức xử phạt chính. Cụ thể:
- Tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều 16: "Tớc
quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không có thời
hạn đợc áp dụng đốí với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề".
21
Ngời cha thành niên có thể là đối tợng bị áp dụng hình thức xử phạt này.
Theo quy định tại Điều 22, Bộ luật Lao động 2002: "Ngời học nghề ở cơ sở dạy
nghề ít nhất phải đợc 13 tuổi, trừ một số nghề do Bộ Lao động - Thơng binh và
Xã hội quy định và phải có đủ sức khoẻ phù hợp với yêu cầu của nghề theo học".
Sau khi học nghề họ có thể đợc cấp chứng chỉ nghề. Cần phân biệt chứng chỉ nghề
này với giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều 16 Pháp lệnh vì theo
quy định hớng dẫn áp dụng tại Điều 11 Nghị định số 134/2003/NĐ-CP, trong đó

chỉ rõ: "Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là các loại giấy tờ do cơ quan nhà nớc,
ngời có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật
để cho phép tổ chức, cá nhân đó kinh doanh, hoạt động hành nghề trong một
lĩnh vực nhất định hoặc sử dụng một loại công cụ, phơng tiện nhất định". Vậy
ngời cha thành niên có giấy phép, chứng chỉ hành nghề nếu "vi phạm nghiêm
trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề" có thể bị tớc giấy phép,
chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tớc quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề, ngời cha thành niên không đợc tiến hành các hoạt động ghi trong giấy
phép, chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên trong thực tế, biện pháp này rất ít bị áp
dụng với đối tợng ngời cha thành niên.
Khi tiến hành tớc quyền sử dụng giấy giấy phép, chứng chỉ hành nghề của
ngời cha thành niên, các chủ thể có thẩm quyền phải tuân theo trình tự thủ tục quy
định tại Điều 59 của Pháp lệnh.
- Tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm hành chính quy định
tại Điều 17 Pháp lệnh: "Tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi phạm
hành chính là việc sung vào quỹ nhà nớc vật, tiền, hàng hoá, phơng tiện có liên
quan trực tiếp đến vi phạm hành chính".
Khi áp dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phơng tiện đợc sử dụng để vi
phạm hành chính đối với ngời cha thành niên cần phân biệt: những tang vật, phơng
tiện thuộc sở hữu của ngời cha thành niên hoặc không thuộc sở hữu của ngời cha
thành niên nhng việc họ có đợc phơng tiện, tang vật đó là do lỗi của chủ sở hữu thì
bị tịch thu, sung vào công quỹ nhà nớc; những tang vật, phơng tiện không thuộc sở
hữu của ngời cha thành niên, có đợc do chiếm đoạt, sử dụng trái phép thì phải trả
22
lại cho chủ sở hữu hoặc ngời quản lý, ngời sử dụng hợp pháp; "trờng hợp tang
vật là văn hoá phẩm độc hại, hàng giả không có giá trị sử dụng, vật phẩm gây
hại cho sức khoẻ con ngời, vật nuôi cây trồng thì bị xử lý theo quy định của
khoản 2 Điều 61 của Pháp lệnh" (khoản 2 Điều 12 Nghị định số 134/2003/NĐ-
CP).
Thẩm quyền, thủ tục áp dụng hình thức xử phạt này đợc pháp luật quy định

cụ thể.
2.2.2. Các biện pháp xử lý hành chính khác
Theo quy định của pháp luật hiện hành có bốn biện pháp xử lý hành chính
khác, gồm: giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo dỡng; đa vào cơ sở
giáo dục và đa vào cơ sở chữa bệnh (biện pháp quản chế hành chính đã bị bãi bỏ
theo quy định của Pháp lệnh số 31/2007/PL-UBTVQH 11 ngày 08/03/2007 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính).
Trong số bốn biện pháp trên thì có tới ba biện pháp cũng đợc quy định áp
dụng với ngời cha thành niên là giáo dục tại xã, phờng, thị trấn; đa vào trờng giáo
dỡng và đa vào cơ sở chữa bệnh.
2.2.2.1. Giáo dục tại xã, phờng, thị trấn
Giáo dục tại xã, phờng, thị trấn đợc quy định tại Điều 23, một số điều khác
trong Pháp lệnh và các văn bản hớng dẫn thi hành nh Nghị định số 163/2003/NĐ-
CP ngày 19/12/2003; Thông t số 22/2004/TT-BCA của Bộ công an; Quyết định số
1522/2005/QĐ-BCA ngày 27/10/2005
Đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng biện pháp này gồm:
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự ;
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 18 tuổi nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa
đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng;
- Ngời bán dâm có tính chất thờng xuyên từ đủ 14 tuổi đến dới 18 tuổi có nơi
c trú nhất định.
Với biện pháp này ngời cha thành niên vi phạm hành chính đợc giáo dục, quản
lý tại địa phơng mà không bị cách li khỏi cộng đồng. Điều này đòi hỏi chính quyền
23
địa phơng cũng nh gia đình phải có những biện pháp phù hợp, hiệu quả, giúp đỡ họ
để họ có thể nhận thức đúng đắn hơn về những việc mình làm.
Thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn
thuộc về Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phờng, thị trấn. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
xã, phờng, thị trấn có thể tự mình hoặc theo đề nghị của một trong những cơ quan,

tổ chức sau: Trởng Công an cấp xã; Chủ tịch Uỷ ban mặt trận Tổ quốc cấp xã; Đại
diện cơ quan, tổ chức, đơn vị dân c cơ sở Cụ thể đối với ng ời cha thành niên có
thể có sự tham gia của Uỷ ban dân số, gia đình, Trẻ em hoặc Đoàn thanh niên, Hội
phụ nữ Với sự tham gia của các tổ chức này, quyền lợi của các em đ ợc bảo đảm
hơn bởi đó là những tổ chức đại diện cho quyền lợi của các em về mặt xã hội.
Trình tự, thủ tục ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị
trấn: trớc khi ra quyết định áp dụng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã tổ chức
cuộc họp gồm Trởng Công an cấp xã, đại diện Ban T pháp, Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan, đại diện dân c ở cơ sở, gia đình
của ngời đợc đề nghị giáo dục để xem xét việc áp dụng biện pháp này. Trong thời
hạn 3 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc họp, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sẽ
quyết định có áp dụng biện pháp này hay không, và tuỳ từng đối tợng mà quyết
định giao ngời đợc giáo dục cho cơ quan, tổ chức, gia đình quản lý, giáo dục.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày quyết định có hiệu lực, cơ quan, tổ chức
đợc giao quản lý, giáo dục phải tổ chức cuộc họp để thi hành quyết định đó đối với
ngời đợc giáo dục, trong đó: "Ngời đợc giáo dục phải tự mình đọc bản kiểm điểm
và cam kết sửa chữa sai phạm của mình. Các đại biểu tham dự cuộc họp phân
tích những sai phạm của ngời đợc giáo dục và góp ý kiến xây dựng, giúp đỡ ngời
đó sửa chữa tiến bộ" (khoản 1 Điều 13 Nghị định số 163/2003/NĐ-CP). Với ngời
cha thành niên vi phạm hành chính bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng,
thị trấn thì có thể có sự tham gia của Đoàn thanh niên ở cơ sở, nhà trờng và gia
đình ngời đợc giáo dục.
Thời hạn áp dụng là từ ba tháng đến sáu tháng.
2.2.2.2. Đa vào trờng giáo dỡng
24
Quy định tại Điều 24, một số điều khác của Pháp lệnh và các văn bản hớng
dẫn thi hành. Đây là biện pháp chỉ áp dụng với ngời cha thành niên nhằm tạo điều
kiện để họ đợc học văn hoá, giáo dục hớng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt
dới sự quản lý, giáo dục của nhà trờng.
Đối tợng ngời cha thành niên bị áp dụng biện pháp đa vào trờng giáo dỡng

gồm:
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiệm trọng quy định tại Bộ luật hình sự;
- Ngời từ đủ 12 tuổi đến dới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật hình sự mà
trớc đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn hoặc cha bị áp
dụng biện pháp này nhng không có nơi c trú nhất định;
- Ngời từ đủ 14 tuổi đến đới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt,
lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trớc đó bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phờng, thị trấn hoặc cha bị áp dụng biện pháp này nhng
không có nơi c trú nhất định.
Họ là những ngời đã nhiều lần thực hiện hành vi vi phạm hành chính hoặc vi
phạm lần đầu nhng hành vi vi phạm của họ có dấu hiệu của một trong những tội
phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
quy định tại Bộ luật hình sự. Việc xác định đối tợng đa vào trờng giáo dỡng nh
trên là phù hợp với việc phân loại tội phạm và độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự cũng nh tính chất, mức độ, nhân thân của ngời cha thành niên có hành vi vi
phạm hành chính.
Thẩm quyền ra quyết định đa vào trờng giáo dỡng thuộc về Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện. Trớc đây, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 quy
định: "Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đa vào trờng giáo dỡng"
(khoản 1 Điều 61). Hiện nay thẩm quyền này đã đợc phân cấp cho Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện quyết định. Quy định này nhằm đề cao trách nhiệm của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong việc áp dụng biện pháp đa vào trờng
giáo dỡng. Mặt khác, có thể giảm bớt công việc cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
25

×