Tải bản đầy đủ (.ppt) (34 trang)

BÀI TẬP MÔN HỌC THAY ĐỔI VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC ĐỘNG LỰC THAY ĐỔI CẤU TRÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.93 KB, 34 trang )

MÔN: QUẢN TRỊ SỰ THAY ĐỔI
TS. Nguyễn Hữu Lam
ThS. Trần Hồng Hải
ĐỘNG LỰC THAY ĐỔI CẤU TRÚC
CHƯƠNG 6
NHÓM 6:
Trần Thái Bảo
Tôn Thất Kỳ Nam
Trần Thị Ánh Nguyệt
Phan Thị Sao Vi
Tổng quan
Kết cấu Chương gồm 6 phần:

Phần 1: Mở đầu

Phần 2: Phương pháp tiếp cận

Phần 3 đến phần 5: Phân loại các loại hình thay đổi
tổ chức.

Phần 6: Cách tiếp cận logic để thay đổi cơ cấu tổ
chức
Mở đầu

Năm 1960 và 1970 là thời kỳ quan trọng phát triển
các nghiên cứu liên về cơ cấu tổ chức. Quan điểm
thống trị thời kỳ này là lý thuyết về ứng phó với các
tình huống bất ngờ;

Theo Burns và Stalker (1961) định nghĩa lý thuyết
ứng phó với các tình huống bất ngờ đó là cơ cấu


phải phản ánh được nhu cầu thực tế

Nghiên cứu những năm 1960 và 1970 giả định cơ cấu
tổ chức đã được thiết kế thông qua quá trình ra quyết
định hợp lý;

Năm 1980 và 1990 các công trình nghiên cứu giải
thích sự giảm sút về vai trò trung gian và trung tâm
của cơ cấu trong việc xác định hiệu suất

Năm 1990, nghiên cứu về cấu trúc giảm nhanh chóng
do quan điểm vĩ mô/tổ chức chiếm ưu thế . Nhóm ý
tưởng thú vị về trung gian/chiến lược đã nổi lên
Mở đầu
Khái niệm về logics tổ chức
Logic là nhận thức cơ bản hoặc hay là một kiểu tư
duy giúp cho việc hình thành suy nghĩ mạch lạc, sắp
xếp trật tự các mâu thuẫn một cách hệ thống. Mối
quan hệ giữa logic và cấu trúc được đề cập trong các
định nghĩa về cấu trúc, nó mô tả '' các bộ phận được
bố trí hoặc đặt lại với nhau để tạo thành một tổ chức
chung; sự tương quan hoặc sắp xếp các bộ phận
trong một thực thể phức tạp'' (www.dictionary.com)
Khái niệm về logics tổ chức
Theo khái niệm chung của tác giả, sau khi tổng kết
các quan điểm của nhiều công trình nghiên cứu trước
đó kết luận rằng: “logic như là một nhận thức cơ bản
bổ sung ý nghĩa, tính hợp lý, và mục đích để cơ cấu
lại tổ chức”. Logic như những nguyên tắc của tổ
chức đã được ghi nhận trong nhận thức của các nhà

tổ chức. Logic giúp định hướng mục đích lý luận;
Khái niệm về logics tổ chức

Logic phát sinh từ thị trường cạnh tranh và từ xã hội
và các thể chế quy định hoạt động của các công ty.

Chức năng của Logic là xác định các quy chuẩn thích
hợp (hợp pháp) của các cơ cấu tổ chức khác nhau.

Logic có chứa hai thành phần không thể tách rời
nhau: một là logic kinh tế kỹ thuật, liên kết giữa ý
nghĩa và kết thúc, và thứ hai là một logic quy chuẩn,
ràng buộc giá trị cá nhân và logic kinh tế kỹ thuật.
Lý thuyết về thể chế hóa thời kỳ
đầu

Nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thể chế trước
đó nhấn mạnh khái niệm logics kép trong thành lập
tổ chức. Selznick (1957) thừa nhận vai trò quan
trọng của giá trị và đạo đức trong tổ chức quy trình.

Các nhà thể chế đã xác định vai trò quan trọng của
các giá trị và tổ chức được thiết kế các quy tắc
logic. Người sáng lập tổ chức, doanh nghiệp, hoặc
giám đốc điều hành là trung tâm phát triển logic
Mô hình các giai đoạn tăng trưởng

Mô hình giai đọan phát triển: giải thích làm thế nào
để tổ chức chuyển từ giai đọan phát triển ban đầu
đến vị trí tiếp tục tồn tại (Van de Ven và Poole,

1995);

Mô hình nhiều tầng :dự đoán tồn tại trong sự phát
triển của tổ chức;

Mô hình 3 giai đọan của Smith, Mitchell và
Summer, 1985.
Mô hình các giai đoạn tăng trưởng

Mô hình bốn giai đọan của của Kazanjian, 1988,
Quinn và Cameron, 1983 và Rhenman, 1973: bốn
giai đoạn là (1) quan điểm và phát triển, (2) thương
mại hóa, (3) tăng trưởng và (4) ổn định

Mô hình năm hay nhiều hơn giai đọan của Adizes,
1979, Miler và Freisen, 1984, Van de Ven, Hudson
và Schroeder, 1984
Lý thuyết hệ thống phức hợp và hệ
thống tự tổ chức

Lý thuyết phức hợp (Ander con-, 1999)

lý thuyết hỗn loạn (Brown và Eisenhardt, 1998;
Dooley và Van de Ven, 1999)

Lý thuyết tự tổ chức Drazin và Sandelands (1992)
và Sandelands và Drazin (1989) gồm 2 điểm cơ
bản: sự tương tác giữa các thực thể nhỏ, riêng biệt,
không chịu sự can thiệp của môi trường bên ngoài;
sự tương tác giữa các chủ thể tạo ra cơ cấu được

điều chỉnh bởi các quy tắc
Lý thuyết về sự khởi đầu và xây
dựng mô hình

Các nhà nghiên cứu tập trung vào việc tạo ra các
logic của tổ chức và đồng thời nhấn mạnh sự phát
triển của logic kinh tế công nghệ và logic quy
phạm;

Lý thuyết nhấn mạnh việc xây dựng đồng thời của
logic kinh tế và đạo đức. Để tạo ra một tổ chức sản
xuất yêu cầu thành lập một tập hợp các nguyên tắc
đạo đức cho phép tất cả các bên liên quan có thể
tham gia vào các tổ chức mới
Thay đổi là sự phá vỡ logic cũ

Theo Mezias và Glynn, 1993, thay đổi được xem là
cách mạng không phải là tiến hóa

Mô hình thay đổi gần đây gồm 6 nội dung:
o
Tổ chức đang ở trạng thái cân bằng về môi
trường và cơ cấu mà sản xuất, hiệu suất ổn định
o
Thay đổi ngoại sinh xảy ra có kết quả trong một
sự suy giảm về hiệu suất
o
Thay đổi cách thức quản lý bằng việc hay đổi kết
cấu và công nghệ từ đó cấu thành một lôgic mới
Thay đổi là sự phá vỡ logic cũ

o
Tổ chức, nhân viên và quản lý cấp trung, chống
thay đổi do quán tính hay quyền lợi. Các logic
kinh tế kỹ thuật mới xung đột với logic quá khứ
o
Quản lý khắc phục sự kháng cự hoặc quán tính
thông qua các kỹ thuật quản lý thay đổi, một số
biện pháp quyết liệt
o
Tổ chức được phục hồi lại trong một hình thức
mới phù hợp tốt hơn các nhu cầu của môi trường
và hiệu năng được phục hồi. Một logic mới kinh
tế kỹ thuật và quy phạm được đặt ra
Vấn đề chống đối khi thay đổi và
phát triển tổ chức
Phân tích sự thay đổi dựa trên những nghiên cứu
về lực lượng cho sự thay đổi, quản lý sai lầm lúc
thực hiện thay đổi, và việc giải quyết các vấn đề
chống đối. Từ đó mở rộng kiến thức về làm thế
nào để can thiệp trong các tình huống thay đổi và
tạo ra các lĩnh vực phát triển tổ chức (Huse,
1975; Kotter và Schlesinger, 1979; Reicher,
Wanous, và Austin, 1977; Schein, 1988).
Mô hình cân bằng trọng tâm

Mô hình cân bằng trọng tâm đã được sử dụng thay
đổi một loạt các thiết lập xã hội

Gersick (1991) làm cho các đối số là một trong
những khái niệm quan trọng nhất đối với các mô

hình thay đổi sự hiểu biết là họ liên quan đến thay
đổi trong cấu trúc sâu. Định nghĩa cấu trúc sâu là
"tập hợp các lựa chọn cơ bản một hệ thống đã làm
(1) các thành phần cơ bản mà các đơn vị sẽ được tổ
chức và (2) các mô hình hoạt động cơ bản mà sẽ
duy trì sự tồn tại của nó"
Mô hình cân bằng trọng tâm

Tushman và các đồng nghiệp xuất hiện trong
Romanelli và Tushman (1994), cốt lõi của mô hình
trọng tâm là xem xét các yêu tố hiệu suất đồng thời
giảm và doanh thu điều hành cấp cao, là những áp
lực chính mà tổ chức cần thay đổi .

Romanelli và Tushman (1994) được phát triển thêm
ba giả thuyết: (1) giảm ngắn hạn trong hoạt động,
(2) chính môi trường thay đổi mà làm thay đổi môi
trường bên ngoài, và (3) việc cài đặt của một CEO
mới
Vai trò của nhà quản trị

Keck và Tushman (1993), cho rằng khi thay đổi
đáng kể xảy ra ngoài tổ chức, giám đốc điều hành
và quản lý đội cấp cao của tổ chức phải điều chỉnh
lại nhận thức của tổ chức bằng cách thay đổi cả
phương tiện sản xuất và hệ thống giá trị của tổ
chức.

Tushman và Rosenkopf (1996) lập luận rằng một
phần thay đổi của đội ngũ điều hành, thay đổi tổ

chức của toàn bộ đội ngoại trừ giám đốc điều hành,
sẽ dẫn đến thay đổi tổ chức
Lý luận về sự cố của những mô hình
Logic

Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu và phát triển
cách thức thay đổi các tổ chức kháng cự để giúp các
nhà quản lý biết được có thể làm gì để khắc phục và
hạn chế các chướng ngại vật đặt ở vị trí của công
nhân cấp dưới.

Gersick, 1991, logic mới thay thế logic cũ thì logic
mới có khả năng thích nghi nhiều hơn đáp ứng điều
kiện thay đổi về môi trường tổ chức công nghệ.
Thay đổi kèm theo suy giảm hiệu suất và trình độ
quản lý sẽ dẫn đến khủng hoảng.
Thay đổi là một hoạt động của Logic

Các khái niệm về việc tổ chức học tập đã trở thành
khá phổ biến cả trong lý luận học thuật và trong
quản trị thực hành (ví dụ, Senge, 1990) .

Cohen và Sproull, 1991, "các giả định sự lựa chọn
hợp lý“ đã cung cấp một khuôn khổ cho sự hiểu
biết một số trong những cách thức mà tổ chức logic
và ý thức có thể tác động làm thay đổi thể chế

Lý thuyết tổ chức có 2 đặc trưng :1 tiếp thu thích
nghi dần, điển hình là trường phái của March và các
đồng nghiệp, và 2 là tiếp thu phát triển kiến thức,

điển hình là trường phái của Argyris và Schon
(Aldrich, 1999; Glynn, Lant, và Milliken, 1994)

Lý thuyết về Hành vi của công ty (Cyert và tháng
Ba, 1963), cách tiếp thu thích nghi dần chỉ rõ các cơ
chế mà theo đó tổ chức thay đổi theo thời gian.
Thay đổi là một hoạt động của Logic

Các tổ chức được mô tả như các hệ thống tiếp thu
kinh nghiệm thực tiễn, có thể thay đổi thói quen để
đáp ứng với kinh nghiệm quá khứ.

Lant và Mezias (1990) cho rằng có ba loại thói
quen quan trọng:
o
(1) tìm kiếm các thông lệ, hoặc quá trình theo đó
tổ chức tìm cách phát hiện các cơ hội thích ứng
trong điều kiện không chắc chắn, phức tạp,và mơ
hồ,
Thay đổi là một hoạt động của Logic
Thay đổi là một hoạt động của Logic
o
(2) thực hiện các thông lệ, hoặc các quá trình so
sánh so sánh kết quả thực tế của tổ chức với một
mục tiêu nhằm điều chỉnh để đáp ứng qua thời
gian
o
(3) thay đổi thông lệ, hoặc cơ hội của tổ chức để
lựa chọn từng bước khả năng hiện có hoặc cố áp
dụng triệt để các khả năng khác nhau để đổi mới


Để thay đổi các khả năng và hệ thống hiện tại, các
tổ chức bám sát theo từng bước để cải thiện năng
lực khi thay đổi (hoặc thích ứng các phương pháp
hoặc công nghệ mới), nhưng ở một tỷ lệ giảm dần
(Argote, Beckman, và Epple năm 1990; Argote và
Epple, 1990; Epple, Argote,và Devadas năm 1991;
Yelle, 1979).
Thay đổi là một hoạt động của Logic

Kiến thức tổ chức đóng một vai trò quan trọng
trong việc phát triển các khả năng của tổ chức để
thay đổi. Cohen và Levinthal (1989, 1990) đã
chứng minh rằng ''khả năng tiếp thu” -một chức
năng tích luỹ tri thức có liên quan trước đó của một
công ty-sẽ đảm bảo sự tiếp thu hiệu quả và sáng tạo,
và lợi thế cạnh tranh.
Thay đổi là một hoạt động của Logic

×