Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận vcu vận dụng quan điểm, tư tưởng hồ chí minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.63 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác-Lênin,
được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc
gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con người
là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt trong toàn bộ
nội dung tư tưởng của Người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhất
là trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã rất thành công và để lại những quan điểm sâu sắc, trong đó có quan
điểm về dùng người, tức là sử dụng đội ngũ cán bộ, nhân tài. Những quan điểm đó
luôn là ánh sáng dẫn đường, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt
Nam. Người đã nhìn thấy và nêu cao vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ,
nhân tài trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do, lẫn trong xây dựng, phát
triển đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Người từng chỉ rõ “vấn đề cán bộ là một vấn
đề rất trọng yếu, rất cần kíp”. Từ chỗ khẳng định vai trò rất quan trọng của đội ngũ
cán bộ, nhân tài; Người đã giành nhiều tâm lực, trí lực xây dựng đội ngũ này. Trên
cơ sở tạo nguồn rộng rãi, tuyển dụng công bằng, đào tạo căn bản, đánh giá chính
xác đội ngũ cán bộ, nhân tài, Người chủ trương hướng tới sử dụng, trọng dụng và
luôn tôn vinh tài năng, đức độ của họ.
Dùng người đúng, biết dùng người sẽ có lợi cho việc khơi dậy tính tích cực,
phát huy đầy đủ tính năng động, tự giác của quần chúng; biết dùng người sẽ có ý
nghĩa hiện thực to lớn, tạo nên những bước nhảy đột phá, tiến bộ lớn, việc dựa vào
nhân tài và sử dụng hợp lý nhân tài có ý nghĩa rất to lớn về mặt chiến lược lâu dài.
Như vậy, xem xét từ yêu cầu công tác tại địa phương, đơn vị tôi đang công
tác hiện nay, cái mà chúng ta đang thiếu là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trên
các lĩnh vực. Phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ, công chức giỏi
mới có thể thực hiện mục tiêu phát triển của huyện nhà. Với những lý do nêu trên,


nên tôi chọn đề tài nghiên cứu làm tiểu luận là “Vận dụng quan điểm, tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với việc dùng người của người lãnh đạo”.
1/- Tư tưởng Hồ Chí Minh-những luận điểm sáng tạo
1.1/-Tư tưởng Hồ Chí Minh-Giá trị của thời đại
Trong thời đại ngày nay, chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ về xung đột
dân tộc, tôn giáo diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới. Có những quốc gia liên bang
đã bị tan rã, trong các quốc gia đa dân tộc, xu hướng ly khai, đòi độc lập đang có
chiều hướng phát triển không giới hạn. Bên cạnh đó, hàng trăm quốc gia tuy đã có
độc lập về chính trị nhưng ngày càng phụ thuộc trầm trọng về kinh tế vào các nước
tư bản phát triển, tạo nên hố sâu ngăn cách giàu nghèo giữa các quốc gia ngày một
rộng ra.
Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi Liên Xô tan rã, chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái
trào, các thế lực hiếu chiến đã và đang điều chỉnh chiến lược, toan tính thực hiện ý
đồ thiết lập “thế giới một cực”. Chiến tranh lạnh kết thúc nhưng từ 1991 đến nay,
thế giới đã diễn ra 4 cuộc chiến tranh nóng, tại Vùng Vịnh (1991), Nam Tư (1999),
Ấpganixtan (2002) và Irắc (2003).Từ sau ngày 11/9/2001 ở Mỹ, hoạt động khủng
bố và chống khủng bố trở thành vấn đề quốc tế lớn. Các thế lực hiếu chiến đang lợi
dụng chiêu bài chống khủng bố để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước,
xâm hại nghiêm trọng chủ quyền quốc gia, bất chấp luật pháp quốc tế.
Trong tình hình của thế giới, nhân loại đang nổi lên khát vọng chung: độc lập
dân tộc, dân chủ, hoà bình, nhân đạo, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Thế giới
đang kêu gọi một tinh thần khoan dung, nhân ái, chấp nhận đối thoại về giá trị, giải
quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chung sức xây dựng một thế gới hoà
bình. Chính những khát vọng đó, nhân loại đang nhắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh,
vì tìm thấy trong đó những giải pháp có tầm thời đại, giúp loài người đi đến một thế
giới tốt đẹp hơn.
Hồ Chí Minh là biểu tượng cao cả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước
nồng nàn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập tự do cho dân tộc mình đồng
thời độc lập tự do cho tất cả các dân tộc khác. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức tầm
quan trọng của sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ trương Việt

Nam phải mở cửa đi ra thế giới, thu hút tinh hoa văn hoá nhân loại, làm giàu có trí
tuệ cho dân tộc mình. Người đã đi qua ba đại dương, bốn châu lục, đặt chân lên gần
30 nước, có vinh dự là người Việt Nam đầu tiên đặt cơ sở cho tình hữu nghị với
nhiều nước trên thế giới, Người là sứ giả của hoà bình và hữu nghị giữa các dân
tộc. Hồ Chí Minh là biểu tượng, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt
Nam. Khoan dung, nhân ái đối với con người, cái nhìn rộng lượng với những giá trị
khác biệt với mình, không áp đặt ý kiến của mình cho người khác, xa lạ với mọi
thái độ cuồng tín, giáo điều. Đối với các tôn giáo, Người tôn trọng đức tin của
người có đạo, hướng tôn giáo vào mục tiêu giải phóng dân tộc, mưu cầu hạnh phúc,
ấm no cho nhân dân. Vì vậy, khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh đã được coi là biểu
tượng của văn hoá hoà bình ở thời đại ngày nay.
Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về đối thoại, hợp tác để cùng phát triển.
Người luôn theo đuổi chính sách ngoại giao hoà bình, chủ trương giải quyết mọi
mâu thuẫn, xung đột bằng đàm phán, thương lượng. Nhiều nhà báo phương Tây đã
từng nhận xét: Cụ Hồ Chí Minh sẵn sàng chấp nhận tiệc tùng và luôn biết giải
quyết mọi vấn đề với nụ cười trên môi”. Vì những giá trị nói trên, các nhà văn, nhà
báo, nhà chính khách nước ngoài ngày càng nhắc nhiều đến tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiến sĩ M. Átmét, Giám đốc UNESCO khu vực châu Á- Thái Bình Dương,
đã phát biểu trong dịp kỷ niệm lần thứ 100 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh:
“Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là ngườigiải phóng cho Tổ quốc và nhân
dân bị đô hộ mà còn là một nhà hiền triết hiện đại, đã mang lại một viễn cảnh và hy
vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất
công, bất bình đẳng khỏi thế gới này.” Hêrôminô Caêra, nhà báo Vênexuêla viết:
“Hồ Chí Minh là một đỉnh cao thật sự của toàn thể nhân loại về mặt đạo đức.
Người là một tấm gương tuyệt vời, tất cả những lãnh tụ và anh hùng cách mạng
không một ai có thể vượt qua Người về mặt này Ngày nay, trong lúc uy tín cá
nhân của khá nhiều lãnh tụ macxít nổi tiếng đang bị bôi nhọ, trái lại, hình ảnh Hồ
Chí Minh lại càng nổi bật trước con mắt thế giới hơn bao giờ hết”.
Sự thừa nhận rộng rãi của bạn bè từ các châu lục đã khẳng định một cách
khách quan giá trị, tác dụng, hình ảnh của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới

chắc chắn sẽ còn lan toả trong thế kỷ XXI.
1.2/-Những tư tưởng sáng tạo lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1/- Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin và Cách mạng Tháng Mười Nga, tìm được con đường cứu nước đúng
đắn cho dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh có một quá trình tìm tòi, khảo nghiệm từ trong nước ra thế giới,
hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, qua các ngả đường cứu nước khác nhau
để đến với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Người khẳng định, chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh là nhà yêu nước đầu tiên trở thành người cộng sản chân chính,
người dân thuộc địa trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản
chính quốc. Người có công đầu đưa ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam,
chuẩn bị những nhân tố chính trị, tư tưởng, tổ chức cho thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Công lao vĩ đại đầu tiên của Hồ Chủ
tịch là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế,
đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ
nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là con đường giải phóng duy nhất
mà Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra cho nhân dân lao động và tất cả các dân
tộc bị áp bức trên toàn thế giới”.
1.2.2/- Hồ Chí Minh là người dân thuộc địa và là người cộng sản đầu tiên có
cống hiến to lớn về nghiên cứu chủ nghĩa thực dân
Hồ Chí Minh là người viết nhiều nhất lên án bản chất, tội ác của chủ nghĩa
thực dân. Người đập tan huyền thoại “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp, đồng
thời kiên quyết đấu tranh phê phán những người cộng sản chính quốc coi nhẹ vấn
đề thuộc địa, không quan tâm đến cách mạng thuộc địa.
Thế giới ghi nhận cống hiến của Hồ Chí Minh: “Sự phân tích về chủ nghĩa
thực dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến lúc đó vượt hẳn tất cả những gì mà những
nhà lý luận mácxít đề cập đến”
1

. Nhà sử học người Pháp Charles Fourniau cho
rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã có đóng góp quan trọng vào việc hình thành truyền
thống chống chủ nghĩa thực dân - một truyền thống làm vẻ vang cho Đảng Cộng
sản Pháp” và kết luận: “Vậy thì hẳn rằng: Nguyễn Ái Quốc phải được coi là một
trong những người thầy của Đảng Cộng sản Pháp về những vấn đề thuộc địa”.
1.2.3/- Sáng tạo về cách mạng thuộc địa: Cách mạng ở các nước thuộc địa
có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại
thúc đẩy cách mạng chính quốc
Giai đoạn Mác-Ăngghen, vấn đề thuộc địa hầu như chưa được đặt ra. Đến
Lênin khi viết đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa vẫn đặt cách mạng thuộc
địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc vai trò của thuộc địa đối với sự tồn tại và
phát triển của chủ nghĩa đế quốc. Người đánh giá tiềm năng cách mạng của các dân
tộc bị áp bức là rất to lớn. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên,
đem sức ta mà tự giải phóng cho ta, giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc,
không ỷ lại chờ đợi cách mạng chính quốc.
1.2.4/- Luận điểm sáng tạo về con đường cách mạng Việt Nam: từ cách
1
mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa
Hồ Chí Minh đi từ tư tưởng giải phóng dân tộc đến phát triển đất nước.
Người chỉ rõ ba giai đoạn xen kẽ vào nhau và liên tục, không ngừng phát triển. Khi
hoàn thành cách mạng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, thì hòa bình
phát triển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua một cuộc đảo lộn về chính trị
giành chính quyền như cách mạng Nga và cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát
triển.
Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn, sáng tạo, thành công mối quan hệ giữa
dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, chỉ
có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm
một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp. Tinh thần dân

tộc và chủ nghĩa yêu nước là một động lực lớn.
1.2.5/- Cùng một lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng ở hai miền Bắc,
Nam và nêu cao tư tưởng thống nhất đất nước
Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết thành công trong điều kiện một nước,
một Đảng cùng một lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng, vừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà.
Theo Giáo sư Singôsibata: “Một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí
Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng Lao
động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lý luận
này”
.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là
một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi. Cả
cuộc đời Người quan tâm đến sự nghiệp thống nhất nước nhà.
1.2.6/- Những luận điểm sáng tạo về tổ chức lực lượng cách mạng phù hợp
với đặc điểm cụ thể của Việt Nam
Về tổ chức lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh có nhiều luận điểm sáng tạo,
đó là: Những luận điểm về Đảng Cộng sản ở một nước nông nghiệp lạc hậu và
những luận điểm về Đảng cầm quyền.
- Những luận điểm về chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và chính sách Mặt
trận dân tộc thống nhất, nhất quán trong cả cách mạng dân tộc dân chủ và cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Những luận điểm về nhà nước và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; về nhà nước pháp quyền, quản lý bằng
“pháp trị” đi đôi với “đức trị”, giáo dục nghĩa vụ và trách nhiệm công dân.
- Những luận điểm về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
1.2.7/- Những luận điểm sáng tạo về bạo lực cách mạng và hình thức đấu
tranh cách mạng; về sự thống nhất giữa tư tưởng bạo lực và lòng nhân ái, tinh

thần nhân văn
Quan điểm của Hồ Chí Minh về động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây
dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một cống hiến lớn trong lĩnh vực quân sự.
Người để lại một di sản lớn về khởi nghĩa và chiến tranh toàn dân; về xây dựng căn
cứ địa cách mạng; về tư tưởng bạo lực cách mạng thống nhất với tư tưởng nhân
văn, hòa bình.
1.2.8/- Những luận điểm sáng tạo về con người, đạo đức, văn hóa
Thương yêu, tôn trọng, tin tưởng con người, bồi dưỡng và phát triển mọi tài
năng của con người. Đó là một chủ nghĩa nhân văn hiện thực cao cả.
Hồ Chí Minh đề cao vai trò của đạo đức và chống suy thoái về đạo đức; coi
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với thắng lợi của cuộc đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức hành động, chú trọng sự
gương mẫu, nhất quán giữa nói và làm, hi sinh, vượt qua chủ nghĩa cá nhân, không
dính líu với vòng danh lợi, suốt đời vì dân, gần dân, trọng dân, tin dân, thương dân,
tận trung, tận hiếu với nước, với dân, cho dân tộc và nhân loại.
Người đặc biệt coi trọng, đề cao vai trò, sứ mệnh của văn hóa, coi văn hóa
vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng. Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ. Văn hóa sửa đổi tham
nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ.
1.2.9/- Bổ sung, phát triển phương pháp luận Mác-Lênin, hình thành nên
những quan điểm có tính phương pháp luận, với những nét đặc sắc riêng biệt
Hồ Chí Minh để lại một hệ thống quan điểm có tính phương pháp luận. Đó là
quan điểm thực tiễn, thống nhất giữa tư tưởng với hoạt động thực tiễn, thực hành lý
luận. Triết học Hồ Chí Minh là triết học hành động - thực tiễn - nhân sinh, lấy mục
tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” làm chuẩn mực hành vi. Người giải quyết hài
hòa các mối quan hệ; quan tâm tới con người, quần chúng nhân dân, cán bộ.
Cùng với luận điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến” là quan điểm toàn diện, trọng
điểm, hệ thống, thiết thực. Phát triển, đổi mới, hội nhập, hướng tới cái mới và
tương lai. Nắm diễn biến của lịch sử, của thời đại, thời, thế và lực.
Tóm lại, “Hồ Chí Minh thủy chung là nhà mácxít-lêninnít vĩ đại, vĩ đại ở sự

trung thành theo nghĩa đầy đủ và cao nhất của từ đó, nghĩa là bao hàm phát triển sáng
tạo; trung thành không phải trên từng câu, chữ mà trung thành với thực chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Thật không đúng nếu chú tâm đi tìm sự khác biệt, sự đối lập nào đó giữa tư tưởng
Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin. Là kết quả lịch sử và lôgíc từ sự kết hợp tự
nhiên truyền thống yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
không chỉ là sự vận dụng mà còn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt
Nam và các nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc”.
1.3/- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Hồ Chí Minh quan niệm con người không bao giờ là phương tiện của các
nhà chính trị mà ngược lại nhà chính trị, đảng chính trị… phải nhất quán trong
nhận thức và hành động rằng: nhân dân là chủ sở hữu của quyền lực chính trị, con
người vừa là mục đích, vừa là động lực, là lực lượng, là sức mạnh của sự nghiệp
chính trị.
Hồ Chí Minh cho rằng nhiều khi đường lối chính sách đúng nhưng “hoặc
làm chưa được, hoặc làm nửa chừng rồi lại nguội… vì chúng ta quên một lẽ rất
giản đơn dễ hiểu: tức vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần
đến xa, đều thế cả”. Công việc nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực đòi hỏi phải có
đội ngũ cán bộ, công chức tốt để thi hành công vụ. Hồ Chí Minh khẳng định “Có
cán bộ tốt việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”.
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Vì sao như vậy? Vì công việc nhà
nước được thể hiện ở các văn bản do Nhà nước ban hành như: Hiến pháp, các bộ
Luật, các Luật, các Pháp lệnh… tất cả các văn bản ấy đều do tập thể hoặc cá nhân
quyết định. Những cán bộ công chức có vị trí cực kỳ quan trọng trong việc định
đoạt mọi công việc của quốc gia. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo giỏi có vai trò quyết định
đối với toàn bộ hoạt động của đất nước, nó là xuất phát điểm của sự thành bại,
hưng vong… Từ trước đến nay có không ít quyết sách chính trị và các quyết định
hành chính tuy rằng đúng đắn nhưng thực hiện kém hiệu qủa bởi vì thiếu cán bộ
kiểu mẫu về quản lý, điều hành, thiếu người thực hiện và kiểm tra. Muốn cho công

việc được tiến hành thuận lợi, muốn biết các Chỉ thị, Nghị quyết, Quyết định đã
được thi hành như thế nào thì một trong những yêu cầu của lãnh đạo là kiểm tra.
Không kiểm tra coi như không lãnh đạo và quản lý, công tác kiểm tra đòi hỏi phải
có người kiểm tra. Những người đó phải là những người có đạo đức tốt, phải biết
việc và hiểu nghĩa. Do đó mà lãnh đạo biết sữa chữa sai lầm, uốn nắn công việc,
biết chọn người và thay người. Tóm lại, xuất phát từ quan điểm “vô luận việc gì,
đều do người làm ra”, cùng nhiều luận điểm đúng đắn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để
lại cho đời sau một hệ thống các tư tưởng chiến lược về công tác cán bộ. Đó là
phép dùng người của Hồ Chí Minh.
Động cơ dùng người của Hồ Chí Minh cho ta cảm nhận tư tưởng của cha ông
từ mấy ngàn năm trước. Xưa “các vua Hùng đã có công dựng nước” thì nay “Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Xưa “Trần Hưng Đạo, tướng sĩ một lòng phụ
tử” thì nay “Bác cùng chúng cháu hành quân”. Những lời kêu gọi toàn dân chống
thực dân Pháp, rồi đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược của Hồ Chí Minh như hiện
hữu.
Một chân lý của muôn đời đó là, nhân nào quả ấy, dùng người vì chính lợi
ích của mọi người thì đó chính là bí quyết của sự thành công. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Đồng bào Việt Nam nghe tôi, tin tôi, vì suốt đời tôi đã tranh đấu chống chế
độ thực dân, tranh quyền độc lập cho nước nhà”.
2/- Nguyên tắc dùng người theo Tư tưởng Hồ Chí Minh của người lãnh
đạo hiện nay
2.1/- Biết dùng người là trức trách của người lãnh đạo
“Tri nhân thiện nhiệm”, ý nói người lãnh đạo hiểu cán bộ một cách khoa học,
sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách hợp lý. Tri nhân (biết người) và thiện nhiệm (giỏi
giao việc, biết dùng người) quan hệ chặt chẽ với nhau, biết người là tiền đề của
dùng người đúng, dùng người đúng là mục đích trực tiếp của biết người, hiểu
người.
Tất cả mọi sự cạnh tranh hiện nay, suy đến cùng là cạnh tranh nhân tài. Xã
hội hiện đại, bất kể là trên lĩnh vực nào đi chăng nữa… đều đang diễn ra sự cạnh
tranh quyết liệt. Thắng bại của cạnh tranh quyết định ở cạnh tranh nhân tài. Trong

cạnh tranh phải dựa vào nhân tài, đồng thời thông qua cạnh tranh sẽ xuất hiện nhân
tài.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề hiểu người và biết dùng người càng có ý
nghĩa, tác dụng to lớn vì:
- Dùng người đúng, đó là yêu cầu của việc thực hiện đường lối chính trị của
Đảng.
- Biết dùng người sẽ có lợi cho việc khơi dậy tính tích cực, phát huy đầy đủ
tính năng động, tự giác của quần chúng.
- Biết dùng người sẽ có ý nghĩa hiện thực to lớn, tạo nên những bước nhảy
đột phá, tiến bộ lớn, chấn hưng đất nước.
- Lãnh đạo biết dùng người có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
2.2/- Người lãnh đạo phải giỏi nhìn nhận, phân loại cán bộ:
Trước hết, người lãnh đạo phải nhìn nhận, phân loại cán bộ một cách khoa
học; việc nhìn nhận, phân loại chính xác cán bộ là không hề dễ dàng, đồng thời
nhận thức đối với con người thường là một quá trình liên tục với thời gian dài. Do
đó, để nhìn nhận, phân loại cán bộ chính xác, người lãnh đạo phải nắm chắc một số
quan điểm và phương pháp cơ bản sau:
- Phải dựa vào quan điểm của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phải phân tích con
người một cách toàn diện, trong điều kiện lịch sử nhất định.
- Đứng vững trên quan điểm duy vật biện chứng, xem xét con người trong sự
phát triển, biến hoá.
- Đứng vững trên quan điểm thực tiễn, thông qua thực tiễn để biết người.
- Nhìn nhận, phân loại cán bộ phải theo đường lối quần chúng, phải loại bỏ
mọi thiên kiến, những quan niệm bảo thủ; phải chống khuynh hướng sai lầm là chỉ
dùng người thân, dùng kẻ biết thuần phục, phải hết sức chú trọng phẩm chất, năng
lực; hoặc phải chống lại tình trạng một số cán bộ lãnh đạo không muốn dùng những
người có trình độ hơn mình.
Tóm lại, người lãnh đạo có thể nhận biết, phân loại cán bộ một cách chính
xác hay không phụ thuộc vào trình độ và tầm tư tưởng của người lãnh đạo.
2.3/- Muốn dùng được người thì phải hiểu mình và hiểu người, có thủ

pháp đúng đắn:
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một số căn bệnh cơ bản làm cho người cán bộ không
tự biết mình được, đó là: bệnh cậy thế và kiêu ngạo, bệnh ưa người ta phỉnh nịnh
mình, bệnh “tư túng” kéo bè kéo cánh, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, máy móc, giáo
điều… Người cán bộ lãnh đạo, quản lý mắc phải những bệnh này không hiểu được
chính cái mạnh, cái yếu của mình, do vậy không thể hiểu được người khác. Trên cơ
sở tự hiểu mình, cần phải có phương pháp xem xét để hiểu cán bộ một cách thấu
đáo, không nên chỉ xét ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả toàn
bộ công việc của cán bộ. Hồ Chí Minh căn dặn phải nhìn nhận người cán bộ với
con mắt động, phát triển, không nên định kiến; xem xét cán bộ không chỉ xem
ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ, không chỉ xem một việc, một lúc mà
phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ. Có hiểu kỹ cán bộ mới thấy chỗ
tốt, chỗ xấu của họ để biết “khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”;
tránh nảy sinh tình trạng “ô dù”, “che chắn”, “phe cánh”, “trù dập”. Theo Hồ Chí
Minh, muốn dùng cán bộ đúng thì người cán bộ lãnh đạo cần:
Một là, “mình phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách
chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ không bị bỏ rơi”.
Hai là, “phải có tinh thần rộng rãi, mới có thể gần gũi những người mình
không ưa”.
Ba là, “phải có tinh thần chịu khó dạy bảo, mới có thể nâng đỡ những đồng
chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ”.
Bốn là, “phải sáng suốt, mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây, mà cách xa cán bộ
tốt”.
Năm là, “phải có thái độ vui vẻ thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi
mình”.
Khéo dùng cán bộ xuất phát từ việc tập hợp được sức lực và tài năng của mọi
người vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung. Nếu dùng cán bộ mà để họ “hoang
mang, sợ hãi, buồn rầu, uất ức hoặc công tác không hợp, chắc không thành công
được. Vì vậy, muốn được cán bộ làm được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm
việc, vui thú làm việc”.

2.4/- Đổi mới phương pháp lãnh đạo để dùng người:
Vì việc mà dùng người. Công việc xây dựng và bảo vệ đất nước luôn luôn
biến đổi, phát triển; do đó, phải không ngừng đổi mới phương pháp lãnh đạo để
dùng người. Hồ Chí Minh đã đưa ra bốn hướng tiếp cận về đổi mới phương pháp
lãnh đạo như sau:
Một là, phải khiêm tốn học hỏi quần chúng không chỉ còn là nội hàm của
phạm trù đạo đức mà phải xác định như là điều kiện cần và đủ của lãnh đạo. Lãnh
đạo quần chúng đương nhiên là trách nhiệm của người lãnh đạo, nhưng để lãnh đạo
được thì phải học hỏi quần chúng, điều đó có nghĩa là “người lãnh đạo không nên
kiêu ngạo mà hiểu thấu”. Điều đó cũng có nghĩa là “một giây, một phút không thể
giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng, “phải biết lắng nghe ý kiến của những
người quan trọng”, học hỏi quần chúng, đề cao dân chủ, đưa chính trị vào giữa dân
gian hợp thành một hệ thống giá trị văn hoá chính trị”.
Hai là, nhân dân là người thi hành quyết định của lãnh đạo, do đó nhân dân
phải là người tham gia vào quá trình ra quyết định. Đây là hướng tiếp cận đạt đến
dân chủ trực tiếp, nó vừa mang tính nhân văn cao cả, vừa thể hiện trách nhiệm cao
trước quyền lực mà người lãnh đạo được nhân dân uỷ thác và sd quyền lực đó.
Ba là, kiểm soát là điều bắt buộc của lãnh đạo, nó như là tiêu chí xác định
lãnh đạo và có biết lãnh đạo hay không. “Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn
giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không; muốn biết ai ra sức làm, ai
làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”.
Bốn là, Hồ Chí Minh khẳng định bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai
cách lãnh đạo: liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng và liên hợp người
lãnh đạo với quần chúng.
Tóm lại, phép dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một bộ phận quan
trọng trong toàn hệ thống tư tưởng của Người. Nó đã được thực tiễn lịch sử kiểm
nghiệm và khẳng định, có vai trò là cơ sở lý luận và phương pháp luận của nhiều
khoa học mới, trong đó có lý thuyết khoa học về hoạt động lãnh đạo.
3/- Nguyên tắc lựa chọn con người của người lãnh đạo
3.1/- Người lãnh đạo phải coi sự nghiệp là gốc, nhân tài là trọng:

Chính quần chúng nhân dân là người tạo ra lịch sử, trong quá trình sáng tạo
ra lịch sử đó những nhân tài kiệt xuất có tác dụng to lớn. Sự nghiệp cần nhân tài,
tuyển chọn và sử dụng nhân tài có quan hệ đến sự hưng suy, thành bại của sự
nghiệp. Chỉ có những người lãnh đạo chân chính của đông đảo nhân dân lao động
và những người lãnh đạo luôn luôn coi sự phát triển tiến bộ của quốc gia, dân tộc,
của nhân loại là gốc, coi nhân tài là quan trọng mới tích cực lựa chọn và sử dụng
nhân tài.
3.2/- Người lãnh đạo phải chí công vô tư, chỉ dùng người hiền tài:
Lịch sử đã chứng minh, chỉ khi dùng người hiền tài thì đất nước mới hưng
vượng và phát triển. Đường lối cán bộ đúng đắn là đường lối chí công vô tư, chỉ
dùng người hiền tài. Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta
nói chung đã kiên trì đường lối dùng người hiền tài. Nhưng hiện tượng chỉ dùng
người thân cũng không phải là cá biệt, có địa phương, đơn vị thậm chí còn rất
nghiêm trọng. Đó còn là do sự tác động của tư tưởng trục lợi cá nhân trong tình
hình hiện nay bị ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, do một bộ phận cán
bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, thích hưởng thụ, tham nhũng, đục khoét…
Do đó, việc dùng người hiền tài đòi hỏi phải kiên trì nguyên tắc tính Đảng,
phải loại trừ nọc độc và ảnh hưởng của sự ích kỷ, tự tư tự lợi, bè phái, dùng người
thân; kiên quyết thực hiện chí công vô tư, dùng người hiền tài thì mới có thể tạo ra
một thời kỳ mới, nhân tài nảy nở, đảm bảo cho sự phát triển toàn diện đất nước và
địa phương.
3.3/- Người lãnh đạo lựa chọn hiền tài phải coi trọng cả tài và đức, lấy
đức làm gốc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở “Có tài mà không có đức là hỏng.
Có đức mà chỉ i, tờ thì dạy thế nào? Đức phải có trước tài”.
Tài, đức song toàn là thể hoàn chỉnh thống nhất giữa đức và tài, nó không thể
tách rời, không thể thiếu một trong hai. Tách rời đức, tài sẽ mất đi phương hướng;
không có tài, đức trở thành một thứ trống rỗng. Do đó cán bộ, đảng viên phải nỗ
lực phấn đấu vươn lên nâng cao trình độ, chuyên môn và nghiệp vụ, làm cho bản
thân mình trở thành “vừa hồng vừa chuyên”.

Trong giai đoạn hiện nay, đối với công tác cán bộ, cần phải khẩn trương thực
hiện “xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp,
vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân. Có cơ
chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng
những người có đức, có tài”. Việc lựa chọn, đề bạt cán bộ vừa phải có đức, có tài
lấy đức làm gốc. Người có đức, có tài sẽ làm được nhiều việc tốt, kẻ xấu có tài như
hổ thêm vuốt, càng trở nên nguy hiểm.
Như vậy, lựa chọn hiền tài, người lãnh đạo phải chú ý: tránh khuynh hướng
chỉ nhấn mạnh quá mức hoặc theo kiểu đánh giá người đức tốt là người sống tròn
trĩnh trong sử xự, né tránh công việc khó, ít va chạm… mà không coi trọng tài hoặc
khuynh hướng coi trọng tài quá mức mà không coi trọng đức. Để thực hiện đúng
nguyên tắc này phải lấy đức làm tiền đề, chọn tài trong số đó, phải coi trọng việc
lấy tiêu chí tài đức song toàn, trong đó đức là gốc là phương châm chỉ đạo, như sợi
chỉ đỏ xuyên suốt chiến lược cán bộ của Đảng ta hiện nay.
3.4/- Người lãnh đạo phải biết phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, tận
dụng tài năng trong việc lựa chọn cán bộ, lựa chọn hiền tài:
Trong thực tế “Ngọc còn có vết, nhân vô thập toàn”, do đó, trong cách nhìn
nhận, sử dụng cán bộ phải theo nguyên tắc “Dụng nhân như dụng mộc. Cây cong
dùng việc cong, cây thẳng dùng việc thẳng”. Tương tự như vậy, cán bộ giỏi nghề
nào thì giao việc ấy, nếu giao nhầm vừa hỏng việc vừa hỏng người. Một vấn đề
người lãnh đạo cần chú ý: theo quan điểm của phép duy vật biện chứng, mọi sự vật,
hiện tượng đều được hình thành trên cơ sở tồn tại của các mặt đối lập, nhân tài
cũng vậy. Người tài năng xuất chúng thì khuyết điểm của họ cũng tương đối rõ
ràng, còn kẻ không có những khuyết điểm rõ rệt, thường cẩn thận từng ly thì cũng
không có tài cán gì nổi bật. Một người lãnh đạo có tư cách, có năng lực, một lòng
một dạ vì thành công của sự nghiệp, mong muốn thu được thành tựu to lớn trên
cương vị công tác của mình là thường có những khuyết điểm trên mặt nào đó, họ có
thể dùng những người có sở trường đặc biệt, thậm chí có thể sử dụng người giỏi
hơn mình.

Nếu những người lãnh đạo chỉ nhìn thấy sở đoản của người khác mà không
thấy rõ sở trường của họ, nếu như dùng người chỉ chú ý sở đoản mà không tận
dụng hết sở trường của họ, nếu như chỉ sử dụng người có tài năng kém hơn mình
mà không dùng người có tài năng hơn mình thì bản thân người lãnh đạo đó cũng
chỉ là một kẻ bất tài. Do vậy người lãnh đạo phải phân tích cụ thể sở đoản của cán
bộ dưới quyền để sử dụng thoả đáng. Việc dùng người không thể không xem xét sở
đoản của cán bộ, nếu như sở đoản của họ gây trở ngại lớn đến sở trường thì tốt nhất
không nên dùng; nếu như sở đoản của họ không gây trở ngại cho sở trường thì nhất
định phải dùng. Nếu sở đoản có thể gây trở ngại cho sở trường thì khi dùng sở
trường phải chú ý đề phòng, hạn chế sở đoản. Nếu có thể bằng giáo dục, giúp đỡ
của lãnh đạo và sự rèn luyện trong công tác từng bước bồi dưỡng sở trường, khắc
phục sở đoản của họ.
Tóm lại, phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, tận dụng hết tài năng của mỗi
người là điểm mấu chốt trong dùng người của lãnh đạo, là nghệ thuật của khoa học
dùng người, là nguyên tắc quan trọng trong tuyển chọn, sử dụng nhân tài của người
lãnh đạo.
3.5/- Nguyên tắc chức vụ tương xứng với năng lực:
Các chức vụ khác nhau có yêu cầu khác nhau đối với nhân tài, nhân tài khác
nhau cũng có sự thích ứng khác nhau đối với các chức vụ công tác. Kết hợp thoả
đáng hai điều đó để vừa đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác, vừa phát huy
đầy đủ năng lực của nhân tài. Nguyên tắc này bao gồm hai phương diện quan trọng
đồng đẳng:
Một là, việc lãnh đạo bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ công tác là đại cục, là
trước tiên phải giáo dục cho cán bộ phục tùng yêu cầu và sự phân công, không thể
thoát ly khỏi yêu cầu của sự nghiệp, nhấn mạnh quá mức những ý thích và ham mê
của cá nhân.
Hai là, trên cơ sở bảo đảm hoàn thành công tác, đồng thời lãnh đạo phải xem
xét cẩn thận, chiếu cố đến ý thích và sở trường của cán bộ. Đó không chỉ là sự hợp
lý mà còn có thể thực hiện được. Đây vừa là nguyên tắc điều phối cán bộ, vừa là
chức trách của người lãnh đạo.

Do vậy, lãnh đạo và cán bộ tổ chức nhân sự phải hiểu biết chính xác và
nghiên cứu tỉ mỉ công tác của nhân viên do mình phụ trách, lãnh đạo.
3.6/- Người lãnh đạo dùng người không nên nghi ngờ, đã nghi người thì
chớ dùng:
Dùng người thì chớ nghi, nghi người chớ dùng người. Dùng người chớ nghi
là hễ dùng họ thì phải tin cậy họ. Nguyên tắc này có thể gọi là nguyên tắc tin cậy.
Nhưng nếu chỉ nói dùng người chớ nghi thì sẽ phiến diện, đồng thời phải bổ sung
nghi người chớ dùng. Đối với những người vi phạm pháp luật, kỷ luật trầm trọng,
ngoan cố chống đối đường lối của Đảng, phẩm chất đạo đức kém, chuyên ỷ quyền,
mưu lợi cho cá nhân thì đương nhiên không tin cậy và trọng dụng, nếu không tai
hại vô cùng. Nguyên tắc này là điều kiện cơ bản trong dùng người của lãnh đạo.
Nếu một cán bộ cấp dưới không có được sự tin cậy của lãnh đạo, chí ít tin cậy cơ
bản ở mức thấp nhất thì tuyệt nhiên không thể phát huy toàn bộ tài năng của mình,
tài trí thông minh sẽ bị hạn chế và ức chế. Sự tin cậy của lãnh đạo đối với cán bộ
không phải mù quáng mà có điều kiện, tài đức song toàn đáng được lãnh đạo tin
cậy, lại xây dựng được quan hệ tin cậy lẫn nhau, sẽ trở thành một quần thể hỗ trợ,
hiệp đồng chặt chẽ với nhau. Điều kiện tất yếu và đầy đủ để xây dựng mối quan hệ
tin cậy lẫn nhau giữa lãnh đạo và cán bộ thuộc quyền:
Trước hết, bản thân lãnh đạo phải tài đức song toàn, phẩm chất đạo đức cao
thượng, tác phong đứng đắn, luôn giữ chữ tín làm tấm gương cho cấp dưới.
Thứ hai, đối với cấp dưới, người lãnh đạo phải tôn trọng, chân thành, thẳng
thắn, là một người bạn thật sự của cán bộ.
Thứ ba, người lãnh đạo không được đố kỵ tài năng, phải đánh giá chính xác
đúng, sai thành tích trong công tác của cán bộ.
Thứ tư, không nghe lời dèm pha của kẻ xấu, cơ hội.
Như vậy, giữa lãnh đạo và cấp dưới chỉ có đoàn kết, nhất trí, đồng tâm, đồng
sức, kết thành một chỉnh thể hữu cơ không thể chia cắt mới có thể hiệp lực hoàn
thành tốt nhiệm vụ công tác.
3.7/- Người lãnh đạo phải rộng rãi, độ lượng, khoan dung, đoàn kết:
Người lãnh đạo phải có tấm lòng rộng rãi, độ lượng, phải có tư tưởng luôn

giữ lấy nhân tài, mong có hiền tài như khát nước; phải xử lý tốt mối quan hệ giữa
cán bộ cũ, cán bộ mới, không phân biệt cán bộ công, nông với tri thức, cán bộ đảng
viên, cán bộ ngoài đảng, cán bộ các dân tộc khác nhau. Phải chống tư tưởng và thái
độ người lãnh đạo chỉ thích những cán bộ chỉ biết vâng lời, khúm núm, thậm chí
chỉ thích những kẻ chỉ biết cung kính, tâng bốc, a dua, nịnh hót mình; ngược lại,
ghen ghét những người cương trực, chí công vô tư, thường dám nói thẳng.
3.8/- Người lãnh đạo không những phải sử dụng cán bộ chính xác, mà
còn phải thường xuyên chăm lo bồi dưỡng cán bộ, cụ thể:
- Tăng cường giáo dục, khai thác trí lực, tìm mọi giải pháp bồi dưỡng nhân
tài, nắm chắc khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý hiện đại cho nhân viên.
- Tạo điều kiện bố trí nhiệm vụ cho cấp dưới, trao đổi phương pháp, bước đi
của công việc, giúp cán bộ rèn luyện trong thực tế công tác.
- Định kỳ kiểm tra, kịp thời tổng kết công tác của cán bộ cấp dưới, thúc đẩy
công tác và nâng cao trình độ cán bộ.
Đối với những cán bộ phạm sai lầm, khuyết điểm có thể sửa chữa, lãnh đạo
cần tăng cường giáo dục, không được loại bỏ họ. Kết hợp phê bình nghiêm túc, sắc
bén với phê bình một cách khoa học, phải thành tâm giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm…
giúp họ không đánh mất niềm tin và có dũng khí vươn lên. Đồng thời phải biểu
dương cán bộ có thành tích, khi biểu dương phải đặt ra yêu cầu cao hơn, chỉ ra
phương hướng vươn lên, không để họ kiêu căng, tự mãn mà dừng lại. Lãnh đạo
phải áp dụng các biện pháp bồi dưỡng, giáo dục trong thực tiễn, ra sức đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận. Đây không chỉ là nguyên tắc mà còn là nhiệm vụ
chiến lược không thể thiếu của người lãnh đạo.
3.9/- Khích lệ, yêu mến, bảo vệ, thưởng phạt phân minh đòi hỏi phải đánh
giá một cách chính xác đúng, sai trong quá trình công tác của cán bộ:
Để đánh giá chính xác đúng, sai lãnh đạo phải làm gương cho cấp dưới, thúc
đẩy lập công, ngăn ngừa sai lầm; quyết không được ngăn cản việc lập công, thúc
đẩy hoặc che đậy sai lầm. Những người lãnh đạo mà công thì vơ về mình, sai lầm
thì đổ cho cấp dưới thì không thể làm gương, không phải là người dồn hết sức lực,
độc lập, dám chịu trách nhiệm trong công tác. Đối với cấp dưới, người lãnh đạo

phải yêu mến, quan tâm, phải bồi dưỡng, phải khẳng định tất cả thành tích, ưu điểm
của họ. Đối với cán bộ trẻ có tinh thần khai phá, dám lao vào thực tiễn, tuy có
thành tích công lao nhưng vẫn vấp phải sự phê phán, chỉ trích thì cán bộ lãnh đạo
càng phải khẳng định, biểu dương Khi cán bộ cấp dưới vấp phải sự đả kích không
công bằng, không đúng sự thật thì người lãnh đạo càng phải bảo vệ, ủng hộ về mặt
tinh thần; lúc này sự bảo vệ quan trọng hơn cả biểu dương.
Người lãnh đạo còn phải công minh trong việc thưởng phạt, với những người
có thành tích phải trọng thưởng, những người lơ là chức trách phải bị xử phạt,
người vi phạm kỷ luật thì phải xử lý kỷ luật, kẻ phạm pháp phải đưa ra xét xử.
Triển khai thi đua, tổ chức cạnh tranh lành mạnh liên tục, rộng khắp để khích lệ cán
bộ. Khích lệ cán bộ tránh đố kỵ và người cán bộ tuyệt đối tránh đố kỵ vì đố kỵ là kẻ
thù lớn nhất trong công tác tuyển chọn, sử dụng nhân tài, trở ngại lớn cho việc nỗ
lực phấn đấu của nhân tài. Quan tâm đến những khó khăn, hoàn cảnh, tâm tư
nguyện vọng của cán bộ; đồng cam cộng khổ với họ thì mới xây dựng được mối
quan hệ tốt đẹp và tác dụng khích lệ nhau cùng vươn lên.
Về nhận xét, đánh giá chính xác cán bộ sau khi xem xét toàn diện cấp dưới
bao gồm ưu điểm, khuyết điểm, thành tích, sai lầm một cách cầu thị, toàn diện, lịch
sử và phát triển.
KẾT LUẬN
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt
để của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để
ấy, nên khi nhìn nhận và đánh giá vai trò của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ),
Người không bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của
Hồ Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh
phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của quần
chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng "chăn dân" của
những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và đây,
cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một chủ
nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư
tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối
lãnh đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá
trình Đảng lãnh đạo công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục
được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung
tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công cuộc xây
dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Thực hiện nhất quán quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử
dụng cán bộ, nhân tài để thực hiện các nguyên tắc lựa chọn người hiền tài của
người lãnh đạo là một chức trách, một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của người lãnh
đạo. Nắm chắc và kiên định các nguyên tắc trong khi tuyển dụng cán bộ hiện nay là
một yêu cầu đòi hỏi người lãnh đạo phải thực hiện.
Thành công của nhân tài và việc tuyển dụng nhân tài không chỉ dựa vào nỗ
lực cá nhân mà đòi hỏi phải có sự bồi dưỡng của tổ chức, sự ủng hộ, giúp đỡ của
lãnh đạo các cấp. Chỉ khi nào lãnh đạo thực hiện tốt chức năng bồi dưỡng, đào tạo
nhân tài, thì nhân tài sẽ xuất hiện ngày càng nhiều.

×