I) Khái niệm Thu ngân sách nhà nước; Chi ngân sách nhà nước; Phân phối
thu, chi giữa các cấp ngân sách và sự cần thiết phải phân phối nguồn thu,
nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
1. Thu ngân sách nhà nước.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật ngân sách năm 2002 thì: “Thu ngân
sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức cá
nhân; các khoản viện trợ; và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”.
Việc thu ngân sách nhà nước nhằm huy động một bộ phận giá trị sản phẩm
xã hội, vì vậy hoạt động này luôn gắn chặt với thực trạng kinh tế của đất
nước, với mức độ phát triển của nền kinh tế. Hoạt động thu ngân sách nhà
nước được thực hiện thông qua hai cơ chế pháp lý điển hình là bắt buộc và tự
nguyện, trong đó cơ chế bắt buộc được xem là chủ yếu.
2. Chi ngân sách nhà nước.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thì:
“Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi
trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật”.
Như vậy: Chi ngân sách nhà nước là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân
sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nhà nước
để chi dùng vào những mục đích khác nhau. Từ đó chi ngân sách nhà nước
chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng
như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. Hoạt
động chi ngân sách nhà nước nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài
chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực
hiện được các chức năng nhiệm vụ của mình. Chi ngân sách nhà nước là hoạt
động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể: nhóm chủ thể đại diện cho Nhà
nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách
nhà nước; nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước.
1
3. Phân phối thu, chi giữa các cấp ngân sách và sự cần thiết phải phân phối
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
- Phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước là việc
xác định mỗi cấp ngân sách được tập trung những nguồn thu nào và mức độ
tập trung đến đâu đồng thời đề ra nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp ngân sách.
Theo pháp luật hiện hành, việc phân phối thu, chi giữa các cấp ngân sách là
thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh. Tại Điều 3 Luật
ngân sách nhà nước năm 2002 có quy định: “Quốc hội quyết định dự toán
ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán
ngân sách nhà nước”. Và cũng tại Điều 4 khoản 2 điểm c có quy định: “Hội
đồng nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp
chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn”.
- Việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể giữa các cấp ngân sách
của hệ thống ngân sách là hết sức cần thiết. Bởi việc phân giao nguồn thu cụ
thể cho phép định lượng được các khoản thu của từng địa phương trên địa
bàn chính quyền địa phương quản lý. Từ đó có thể dự doán được khả năng tự
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách và phần còn thiếu mà ngân sách
cấp trên phải chi điều tiết bổ sung nhằm bảo đảm khả năng cấp phát, chi trả,
thanh toán của cấp ngân sách đó hoặc phần thừa có thể điều hòa cho các địa
phương khác hoặc cho ngân sách cấp trên để đảm bảo khả năng thanh toán,
chi trả của từng cấp ngân sách cũng như của toàn bộ hệ thống ngân sách. Đề
ra nhiệm vụ chi cụ thể cho các cấp ngân sách cũng là tiền đề giúp cho việc
định lượng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách để có thể chủ động bố trí kế
hoạch thu, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu đó.
- Việc phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách góp phần
khắc phục những hạn chế trong thu chi ngân sách nhà nước. Nếu chỉ phân
giao nguồn thu mà không quy định nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách sẽ
dẫn đến tình trạng không tận dụng được số bội thu ở một số địa phương để
2
điều động cho các địa phương khác còn nằm trong tình trạng bội chi. Và kết
quả là ngân sách trung ương phải gánh chịu các khoản trợ cấp cho các địa
phương bội chi trong khi đó ở một số địa phương khác tồn quỹ ngân sách lại
vượt định mức. Ngược lại nếu chỉ quy định nhiệm vụ chi cho các cấp ngân
sách mà không phân bổ nguồn thu sẽ dẫn đến tình trạng một mặt, các địa
phương bị hạn chế tiềm năng và thế mạnh trong việc huy động các nguồn tài
chính phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương;
mặt khác, việc không được phân giao nguồn thu, các địa phương sẽ ỷ lai,
trông chờ vào sự ban phát kinh phí từ ngân sách trung ương từ đó có thể làm
nảy sinh tiêu cực, tùy tiện trong quá trình sử dụng vốn của ngân sách trung
ương cấp phát cho các địa phương để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi mà
địa phương được giao phó.
- Việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp theo pháp
luật hiện hành được xây dựng trên cơ sở quán triệt tinh thần phát huy những
kết quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại trong suốt quá trình thực thi
Luật ngân sách nhà nước năm 1996; đồng thời để tăng nguồn thu cho ngân
sách địa phương, khuyến khích địa phương chăm lo đầu tư phát triển kinh tế -
xã hội, bồi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, thực hành tiết kiệm chi để tự cân
đối ngân sách và tăng cường đóng góp cho ngân sách nhà nước. Để làm được
điều đó, chế định phân phối nguồn thu, chi giữa các cấp ngân sách cần đề ra
những nguyên tắc về phân phối thu chi cũng như phân định cụ thể nguồn thu
và nhiệm vụ chi cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
II) Quy định về phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương
theo Luật ngân sách nhà nước năm 2002.
a. Thẩm quyền quyết định và nguyên tắc trong phân phối nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho ngân sách địa phương.
- Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thì việc phân phối
thu, chi chỉ được Quốc hội quyết định chi tiết cho hai cấp ngân sách là cấp
trung ương và cấp tỉnh. Việc phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể cho
từng cấp ngân sách huyện và xã thuộc địa bàn mỗi tỉnh do Hội đồng nhân dân
3
từng tỉnh quyết định phù hợp với đặc thù, khả năng và nhu cầu của địa
phương mình: “Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
ngân sách các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh
tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn”
(điểm c khoản 1 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước năm 2002). Như vậy Luật
ngân sách nhà nước năm 2002 đã đề cao trách nhiệm và quyền hạn của chính
quyền nhà nước cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác
quản lý, điều hành ngân sách các cấp ở địa phương.
Tuy nhiên mỗi địa phương có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau,
đời sống của người dân cũng có sự phân hóa…nên việc trao quyền quyết định
việc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong khi cơ chế quản lý giám sát chưa thực sự chặt chẽ, nghiêm minh dẫn
đến tình trạng lạm thu khó kiểm soát. VD theo quy định tại điểm c khoản 8
Điều 25 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 có quy định Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh còn có nhiệm vụ quyền hạn: “Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản
đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật”. Từ quy định trên dẫn
đến một thực tế là các địa phương (Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương) quyết định thu không phù hợp với khả năng đóng góp của
nhân dân dẫn tới không đảm bảo công bằng, việc sử dụng các khoản thu đó
không hiệu quả dẫn đến thất thoát gây bất bình trong nhân dân…Điều này đặt
ra yêu cầu cần có sự sửa đổi, bổ sung trong quy định về thẩm quyền của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi đối với
ngân sách địa phương…
- Quyết định phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương
của Hội đồng nhân dân phải tuân theo nguyên tắc được quy định tại khoản 1
Điều 34 Luật ngân sách nhà nước năm 2002. Những nguyên tắc đó đã có sự
phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp
dưới, có quy định cụ thể % từng cấp ngân sách địa phương được hưởng.
b. Các quy định về phân phối nguồn thu cho ngân sách địa phương
4
- Nếu nguồn thu của ngân sách trung ương chủ yếu từ hai nhóm lớn là các
nguồn thu được tập trung toàn bộ vào ngân sách trung ương và các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương; thì nguồn thu của ngân sách địa phương gồm bốn nhóm lớn; ngoài
hai nhóm thu tương tự như ngân sách cấp trung ương (những nguồn thu được
tập trung toàn bộ vào ngân sách địa phương và những nguồn thu theo tỷ lệ
phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương); thì địa
phương còn được thu bổ sung từ ngân sách cấp trên và thu từ huy động vốn
của các tổ chức cá nhân.
- Theo quy định tại Điều 32 Luật ngân sách năm 2002 thì Nguồn thu của
ngân sách địa phương gồm:
“1. Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%:
a) Thuế nhà, đất.
b) Thuế tài nguyên, không kể tài nguyên thu từ dầu, khí.
c) Thuế môn bài.
d) Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
đ) Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
e) Tiền sử dụng đất.
g) Tiền cho thuê đất.
h) Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
i) Lệ phí trước bạ.
k) Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
l) Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự
trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương.
m) Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá
nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương.
n) Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu
khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật.
o) Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác.
p) Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
5