I) Khái niệm Thu ngân sách nhà nước; Chi ngân sách nhà nước; Phân phối
thu, chi giữa các cấp ngân sách và sự cần thiết phải phân phối nguồn thu,
nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
1. Thu ngân sách nhà nước.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật ngân sách năm 2002 thì: “Thu ngân
sách nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ
hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức cá
nhân; các khoản viện trợ; và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật”.
Việc thu ngân sách nhà nước nhằm huy động một bộ phận giá trị sản phẩm
xã hội, vì vậy hoạt động này ln gắn chặt với thực trạng kinh tế của đất
nước, với mức độ phát triển của nền kinh tế. Hoạt động thu ngân sách nhà
nước được thực hiện thông qua hai cơ chế pháp lý điển hình là bắt buộc và tự
nguyện, trong đó cơ chế bắt buộc được xem là chủ yếu.
2. Chi ngân sách nhà nước.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thì:
“Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi
trả nợ của nhà nước; chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của
pháp luật”.
Như vậy: Chi ngân sách nhà nước là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân
sách, là quá trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nhà nước
để chi dùng vào những mục đích khác nhau. Từ đó chi ngân sách nhà nước
chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật và theo kế hoạch chi ngân sách cũng
như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực nhà nước quyết định. Hoạt
động chi ngân sách nhà nước nhằm vào mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài
chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, đảm bảo cho Nhà nước thực
hiện được các chức năng nhiệm vụ của mình. Chi ngân sách nhà nước là hoạt
động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể: nhóm chủ thể đại diện cho Nhà
nước thực hiện việc quản lý, cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách
nhà nước; nhóm chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước.
1
3. Phân phối thu, chi giữa các cấp ngân sách và sự cần thiết phải phân phối
nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách.
- Phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách nhà nước là việc
xác định mỗi cấp ngân sách được tập trung những nguồn thu nào và mức độ
tập trung đến đâu đồng thời đề ra nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp ngân sách.
Theo pháp luật hiện hành, việc phân phối thu, chi giữa các cấp ngân sách là
thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh. Tại Điều 3 Luật
ngân sách nhà nước năm 2002 có quy định: “Quốc hội quyết định dự toán
ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán
ngân sách nhà nước”. Và cũng tại Điều 4 khoản 2 điểm c có quy định: “Hội
đồng nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp
chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, quốc
phịng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn”.
- Việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể giữa các cấp ngân sách
của hệ thống ngân sách là hết sức cần thiết. Bởi việc phân giao nguồn thu cụ
thể cho phép định lượng được các khoản thu của từng địa phương trên địa
bàn chính quyền địa phương quản lý. Từ đó có thể dự doán được khả năng tự
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách và phần còn thiếu mà ngân sách
cấp trên phải chi điều tiết bổ sung nhằm bảo đảm khả năng cấp phát, chi trả,
thanh toán của cấp ngân sách đó hoặc phần thừa có thể điều hòa cho các địa
phương khác hoặc cho ngân sách cấp trên để đảm bảo khả năng thanh toán,
chi trả của từng cấp ngân sách cũng như của toàn bộ hệ thống ngân sách. Đề
ra nhiệm vụ chi cụ thể cho các cấp ngân sách cũng là tiền đề giúp cho việc
định lượng nhu cầu chi tiêu của cấp ngân sách để có thể chủ động bố trí kế
hoạch thu, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu đó.
- Việc phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách góp phần
khắc phục những hạn chế trong thu chi ngân sách nhà nước. Nếu chỉ phân
giao nguồn thu mà không quy định nhiệm vụ chi cho các cấp ngân sách sẽ
dẫn đến tình trạng khơng tận dụng được số bội thu ở một số địa phương để
2
điều động cho các địa phương khác còn nằm trong tình trạng bội chi. Và kết
quả là ngân sách trung ương phải gánh chịu các khoản trợ cấp cho các địa
phương bội chi trong khi đó ở một số địa phương khác tồn quỹ ngân sách lại
vượt định mức. Ngược lại nếu chỉ quy định nhiệm vụ chi cho các cấp ngân
sách mà không phân bổ nguồn thu sẽ dẫn đến tình trạng một mặt, các địa
phương bị hạn chế tiềm năng và thế mạnh trong việc huy động các nguồn tài
chính phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương;
mặt khác, việc không được phân giao nguồn thu, các địa phương sẽ ỷ lai,
trơng chờ vào sự ban phát kinh phí từ ngân sách trung ương từ đó có thể làm
nảy sinh tiêu cực, tùy tiện trong quá trình sử dụng vốn của ngân sách trung
ương cấp phát cho các địa phương để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chi mà
địa phương được giao phó.
- Việc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi của ngân sách các cấp theo pháp
luật hiện hành được xây dựng trên cơ sở quán triệt tinh thần phát huy những
kết quả đã đạt được và khắc phục những tồn tại trong suốt quá trình thực thi
Luật ngân sách nhà nước năm 1996; đồng thời để tăng nguồn thu cho ngân
sách địa phương, khuyến khích địa phương chăm lo đầu tư phát triển kinh tế xã hội, bồi dưỡng nguồn thu, chống thất thu, thực hành tiết kiệm chi để tự cân
đối ngân sách và tăng cường đóng góp cho ngân sách nhà nước. Để làm được
điều đó, chế định phân phối nguồn thu, chi giữa các cấp ngân sách cần đề ra
những nguyên tắc về phân phối thu chi cũng như phân định cụ thể nguồn thu
và nhiệm vụ chi cho ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
II) Quy định về phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương
theo Luật ngân sách nhà nước năm 2002.
a. Thẩm quyền quyết định và nguyên tắc trong phân phối nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho ngân sách địa phương.
- Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thì việc phân phối
thu, chi chỉ được Quốc hội quyết định chi tiết cho hai cấp ngân sách là cấp
trung ương và cấp tỉnh. Việc phân giao nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể cho
từng cấp ngân sách huyện và xã thuộc địa bàn mỗi tỉnh do Hội đồng nhân dân
3
từng tỉnh quyết định phù hợp với đặc thù, khả năng và nhu cầu của địa
phương mình: “Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa
ngân sách các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh
tế - xã hội, quốc phịng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn”
(điểm c khoản 1 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước năm 2002). Như vậy Luật
ngân sách nhà nước năm 2002 đã đề cao trách nhiệm và quyền hạn của chính
quyền nhà nước cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác
quản lý, điều hành ngân sách các cấp ở địa phương.
Tuy nhiên mỗi địa phương có trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau,
đời sống của người dân cũng có sự phân hóa…nên việc trao quyền quyết định
việc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong khi cơ chế quản lý giám sát chưa thực sự chặt chẽ, nghiêm minh dẫn
đến tình trạng lạm thu khó kiểm sốt. VD theo quy định tại điểm c khoản 8
Điều 25 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 có quy định Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh cịn có nhiệm vụ quyền hạn: “Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản
đóng góp của nhân dân theo quy định của pháp luật”. Từ quy định trên dẫn
đến một thực tế là các địa phương (Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương) quyết định thu không phù hợp với khả năng đóng góp của
nhân dân dẫn tới không đảm bảo công bằng, việc sử dụng các khoản thu đó
khơng hiệu quả dẫn đến thất thốt gây bất bình trong nhân dân…Điều này đặt
ra yêu cầu cần có sự sửa đổi, bổ sung trong quy định về thẩm quyền của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi đối với
ngân sách địa phương…
- Quyết định phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương
của Hội đồng nhân dân phải tuân theo nguyên tắc được quy định tại khoản 1
Điều 34 Luật ngân sách nhà nước năm 2002. Những nguyên tắc đó đã có sự
phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp
dưới, có quy định cụ thể % từng cấp ngân sách địa phương được hưởng.
b. Các quy định về phân phối nguồn thu cho ngân sách địa phương
4
- Nếu nguồn thu của ngân sách trung ương chủ yếu từ hai nhóm lớn là các
nguồn thu được tập trung toàn bộ vào ngân sách trung ương và các khoản thu
phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương; thì nguồn thu của ngân sách địa phương gồm bốn nhóm lớn; ngồi
hai nhóm thu tương tự như ngân sách cấp trung ương (những nguồn thu được
tập trung toàn bộ vào ngân sách địa phương và những nguồn thu theo tỷ lệ
phần trăm giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương); thì địa
phương cịn được thu bổ sung từ ngân sách cấp trên và thu từ huy động vốn
của các tổ chức cá nhân.
- Theo quy định tại Điều 32 Luật ngân sách năm 2002 thì Nguồn thu của
ngân sách địa phương gồm:
“1. Các khoản thu ngân sách địa phương hưởng 100%:
a) Thuế nhà, đất.
b) Thuế tài nguyên, không kể tài ngun thu từ dầu, khí.
c) Thuế mơn bài.
d) Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
đ) Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
e) Tiền sử dụng đất.
g) Tiền cho thuê đất.
h) Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước.
i) Lệ phí trước bạ.
k) Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
l) Thu hồi vốn của ngân sách địa phương tại các tổ chức kinh tế, thu từ quỹ dự
trữ tài chính của địa phương, thu nhập từ vốn góp của địa phương.
m) Viện trợ khơng hồn lại của các tổ chức quốc tế, các tổ chức khác, các cá
nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương.
n) Các khoản phí, lệ phí, thu từ các hoạt động sự nghiệp và các khoản thu
khác nộp vào ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật.
o) Thu từ quỹ đất cơng ích và thu hoa lợi cơng sản khác.
p) Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.
5
q) Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước.
r) Thu kết dư ngân sách địa phương theo quy định tại Điều 63 của Luật này.
s) Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
2. Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm(%) giữa ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật
này.
3. Thu bổ sung từ ngân sách trung ương.
4. Thu từ hoạt động đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng theo quy
định tại khoản 3 Điều 8 của Luật này.”
- Như vậy: Các khoản thu ngân sách địa phương được hưởng 100% là các
khoản thu phát sinh trên địa bàn địa phương nào thì ngân sách địa phương đó
được hưởng tồn bộ. Cũng tại khoản 1 Điều 22 Nghị định số 60/2003/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách nhà nước năm 2002
đã hướng dẫn chi tiết và có quy định cụ thể, bổ sung các khoản thu mà ngân
sách địa phương được hưởng 100%: “ Tiền thuê mặt nước không kể tiền thuê
mặt nước thu từ hoạt động dầu khí; Tiền đền bù thiệt hại đất; Các khoản phạt,
tịch thu và thu khác của ngân sách địa phương theo quy định của pháp luật;
Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên; Thu chuyển nguồn từ ngân sách địa
phương năm trước sang ngân sách địa phương năm sau;”. Tuy pháp luật hiện
hành đã quy định tương đối rõ về các khoản thu mà ngân sách địa phương
được hưởng 100%; điều này đảm bảo tăng nguồn thu cho cấp địa phương,
thuận lợi cho việc thu. Tuy nhiên các quy định trên còn chung chung và chưa
quy định cụ thể về định mức thu cho từng khoản là bao nhiêu dẫn đến tình
trạng là sự lạm quyền và thu những khoản thu không hợp lý, khơng phù hợp
với tình hình của địa phương và trong cùng một loại thu có sự khơng đồng
nhất giữa các địa phương. Điều này đã khiến có sự bất bình đẳng trong thu
ngân sách ở các địa phương. Đây là vấn đề cần được hoàn thiện để pháp luật
về thu ngân sách thực sự đảm bảo được sự công bằng và đem lại hiệu quả, tạo
nguồn tài chính cho địa phương đảm bảo vận hành cơ cấu tổ chức, các nhiệm
vụ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của địa phương.
6
- Các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa ngân sách địa phương và
ngân sách trung ương. Đây là các khoản thu phát sinh trên địa bàn địa
phương nào thì ngân sách địa phương đó được hưởng một tỷ lệ nhất định,
phần còn lại phải nộp cho ngân sách trung ương. Theo quy định tại khoản 2
Điều 30 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 và tại khoản 2 Điều 20 Nghị
định số 60/2003/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân
sách nhà nước 2002 thì: Các khoản thu phân theo tỷ lệ % giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương gồm:
“a) Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hóa
nhập khẩu quy định tại điểm a Khoản 1 Điều này và thuế thu nhập doanh
nghiệp thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
b) Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp
của các đơn vị hạch tốn tồn ngành quy định tại điểm d Khoản 1 Điều này và
thuế thu nhập doanh nghiệp từ hoạt động xổ số kiến thiết.
c) Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, khơng kể thuế quy
định tại điểm đ Khoản 1 Điều này.
d) Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hóa, dịch vụ trong nước không kể
thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
đ) Phí xăng, dầu”.
Như vậy việc thu các loại thuế trên và tỷ lệ hưởng giữa ngân sách địa
phương và ngân sách trung ương sẽ góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách
địa phương, tuy nhiên pháp luật chưa quy định cụ thể tỷ lệ % một cách khoa
học, phù hợp với tình hình và cơng tác quản lý thu cịn lỏng lẻo dẫn đến tình
trạng thất thoát, khai man trốn nộp, và sự phân phối nguồn tiền này chưa hợp
lý dẫn đến hiệu quả chưa cao. Hơn nữa quá trình thu các khoản thu này có sự
can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính q sâu của trung ương tạo ra sự bị
động, lúng túng của cơ quan có thẩm quyền ở địa phương. Đây là vấn đề cần
được điều chỉnh và hoàn thiện các quy định pháp luật góp phần cho ngân
sách địa phương vừa có sự chủ động, tự chủ, tự cân đối theo cơ cấu chung mà
Quốc hội đã thông qua.
7
- Các khoản thu bổ sung từ ngân sách trung ương gồm: các khoản thu bổ
sung để cân đối thu, chi ngân sách địa phương và các khoản thu bổ sung có
mục tiêu giúp địa phương thực hiện những nhiệm vụ mà pháp luật quy định.
Tuy nhiên nguồn thu bổ sung này cần được Quốc hội, cơ quan chủ quản có
thẩm quyền cân nhắc kĩ lưỡng, tránh tình trạng nơi cần bổ sung thì khơng
được, nơi chưa cần thiết bổ sung thì lại được bổ sung. Hơn nữa quy định này
dẫn đến tình trạng xin bổ sung khơng đúng mục đích, khơng thực sự có nhu
cầu mà vẫn xin bổ sung. - Các khoản thu từ huy động vốn của các tổ chức, cá
nhân để đáp ứng nhu cầu đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng
thuộc phạm vi cấp tỉnh đảm nhiệm nhưng ngân sách cấp tỉnh khơng đủ kinh
phí để thi cơng cơng trình. Đây là những cơng trình thuộc danh mục đầu tư
trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định nhưng
vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh trong năm dự toán.
=> Như vậy việc phân phối nguồn thu cho ngân sách địa phương là do Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định với cơ cấu tổng số thu, mức, tỷ
lệ, khoản thu được hưởng 100% và khoản thu chia tỷ lệ, và do Hội đồng nhân
dân quy định phù hợp với thực tế địa phương trên cơ sở pháp luật. Ngoài ra
việc phân phối nguồn thu cho ngân sách địa phương còn thể hiện sự tự chủ
của Hội đồng nhân dân trong việc phối kết hợp với các cơ quan khác trên
phạm vi địa phương trong lĩnh vực huy động vốn xây dựng cơng trình thuộc
danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được thông qua.
c) Các quy định về nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương
- Theo quy định tại Điều 33 Luật ngân sách nhà nước năm 2002 thì nhiệm vụ
chi của ngân sách địa phương gồm:
“1. Chi đầu tư phát triển
a) Đầu tư xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do địa
phương quản lý;
8
b) Đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
tài chính
của Nhà nước theo quy định của pháp luật;
c) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
2. Chi thường xuyên
a) Các hoạt động sự nghiệp, kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn
hóa thơng tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ,
môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do địa phương quản lý;
b) Quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (phần giao cho địa
phương)
c) Hoạt động của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương;
d) Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp ở địa phương theo quy định của pháp luật;
đ) Thực hiện các chính sách xã hội đối với các đối tượng do địa phương
quản lý;
e) Chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho địa phương quản lý;
g) Trợ giá theo chính sách của Nhà nước;
h) Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
3. Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền huy động cho đầu tư quy định tại
khoản 3 Điều 8 của Luật này;
4. Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh;
5. Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới.”
Như vậy, so với nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương, nhiệm vụ chi của
ngân sách địa phương có nhẹ hơn cả về khoản mục chi cũng như nội dung
của từng khoản mục chi.- Tuy nhiên pháp luật , đặc biệt là Luật ngân sách
nhà nước năm 2002 mới quy định về các nhiệm vụ mà ngân sách địa
phương phải chi; trong khi đó cơ chế chi ngân sách như thế nào, sự kết hợp
giữa các cơ quan trong việc chi ngân sách, lĩnh vực nào cần thiết phải chi,
đặc biệt là chi cho xây dựng cơ bản; việc giám sát việc sử dụng nguồn vốn
9
đã chi; việc quyết tốn báo cáo lại chưa có sự quy định chi tiết cụ thể. Vì
vậy trong thời gian qua việc bội chi ngân sách, lạm dụng chi ngân sách, thất
thoát ngân sách địa phương là vấn đề mà gây bức xúc cho dư luận.
d. Phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách cấp huyện và cấp
xã.
- Việc phân giao cụ thể nguồn thu và nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách
huyện và xã do Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định. Như vậy, Hội đồng nhân
dân tỉnh có quyền chủ động phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân
sách cấp dưới trên cơ sở căn cứ vào tình hình cụ thể của từng địa phương
mình quản lý và phải quán triệt nguyên tắc pháp lý nhất định. Theo quy định
tại Điều 34 Luật ngân sách địa phương năm 2002 quy định:
“1. Căn cứ vào nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách địa phương theo quy
định tại Điều 32 và Điều 33 của Luật này, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết
định phân cấp cụ thể nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp ngân sách của
chính quyền địa phương theo nguyên tắc:
a) Phù hợp với phân cấp nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh đối
với từng lĩnh vực và đặc điểm kinh tế, địa lý, dân cư của từng vùng và trình
độ quản lý của địa phương;
b) Trong các nguồn thu của ngân sách xã, thị trấn; ngân sách xã, thị trấn
được hưởng tối thiểu 70% các khoản thu thuế chuyển quyền sử dụng đất,
thuế nhà, đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất
nơng nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất;
c) Trong các nguồn thu của ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh; ngân
sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí
trước bạ, khơng kể lệ phí trước bạ nhà, đất;
d) Trong phân cấp nhiệm vụ chi đối với thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải có
nhiệm vụ chi đầu tư xây dựng các trường phổ thông quốc lập các cấp, điện
chiếu sáng, cấp thốt nước, giao thơng đơ thị, vệ sinh đơ thị và các cơng
trình phúc lợi công cộng khác
10
2. Căn cứ vào tỉ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu do Thủ tướng
Chính phủ giao và các nguồn thu ngân sách địa phương hưởng 100%, Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định tỉ lệ phần trăm (%) phần chia các khoản
thu giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương.”
Như vậy thẩm quyền quyết định việc phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi
cho ngân sách cấp huyện và cấp xã là do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Điều
này thể hiện vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương của Hội
đồng nhân dân. Hơn nữa, trong việc phân phối nguồn thu của ngân sách cấp
xã, thì ngồi các khoản thu được tỉnh phân bổ, chính quyền xã và các cấp
tương đương được phép huy động các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ
chức, cá nhân để xây dựng các cơng trình kết cấu hạ tầng của địa phương
mình. Tuy nhiên việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn thu này phải tuân
thủ quy định của pháp luật. Điều này tạo sự chủ động cho chính quyền địa
phương và tăng ngân sách cho việc xây dựng cơ bản trong khi nguồn phân
bổ cịn hạn chế.
III. Một số kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực phân phối
nguồn thu, nhiệm vụ chi cho ngân sách địa phương.
- Quốc hội cần quy định các chỉ tiêu về cơ cấu mà không quyết định về số
tuyệt đối tổng số thu, chi ngân sách địa phương. Căn cứ vào tình hình kinh
tế - xã hội của cả nước, và đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương,
Quốc hội nên đưa ra chỉ tiêu chung cho cả nước và chỉ tiêu cho những lĩnh
vực thu, chi cho ngân sách địa phương. Không nên đưa ra con số tuyệt đối,
bởi việc đưa ra con số này dẫn đến sự bị động của ngân sách địa phương và
gây khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Cần có quy định về cơ chế thu các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần
trăm (%) giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Đặc biệt là có
sự khuyến khích, ưu đãi hợp lý hơn về tỷ lệ % để thúc đẩy việc thu ngân
sách ở các khoản thu này; tránh thất thu, thu sai…Cần ban hành cơ chế thu
linh hoạt, thuận tiện hơn cho cả người thu, người nộp, tránh can thiệp quá
sâu bằng cơ chế mệnh lệnh hành chính.
11
- Cần bổ sung quy định về rà soát và có tiêu chuẩn cụ thể, xem xét khách
quan cơng bằng khi bổ sung Ngân sách trung ương cho Ngân sách địa
phương. Hơn nữa cần nâng cao chức năng của cơ quan giám sát, báo cáo
việc xin bổ sung, sử dung ngân sách địa phương, tránh tình trạng ỷ lại, cơ
chế “xin cho”, sử dụng khơng đúng mục đích.
- Cần ban hành quy định cụ thể, thống nhất trong lĩnh vực chi ngân sách, đặc
biệt đối với chi ngân sách địa phương về trình tự, thủ tục, cách thức chi…
Việc liệt kê các lĩnh vực chi của ngân sách địa phương như hiện nay mang
tính mơ tả, chưa đem lại hiệu quả cao trong q trình kiểm sốt chi ngân
sách địa phương. Hơn nữa cần có sự đánh giá, xem xét, giám sát của Hội
đồng nhân dân trong lĩnh vực chi tiêu công, chi xây dựng cơ bản, để hạn chế
bội chi như hiện nay.
- Không nên quy định chung chung, tạo tính mở “dễ dãi” cho Ngân sách cấp
xã được quyền huy động các khoản đóng góp. Cần bổ sung ngay quy định
khơng chỉ trao quyền mà có quy định về nghĩa vụ báo cáo, quyết toán cụ thể,
điều kiện nào thì ngân sách cấp xã được huy động đóng góp của nhân dân…
tránh việc lạm thu, thu khơng đúng mục đích.
đáng quan tâm để đóng góp những kiến nghị tích cực, mang tính xây dựng
vào việc hồn thiện khung pháp luật về vấn đề này.
12