Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Download SÁNG KIẾN kinh nghiệm, tiểu luận MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY ÂM NHẠC CHO HỌC SINH LỚP 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.69 KB, 19 trang )

SÁNG KIẾN
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY
ÂM NHẠC CHO HỌC SINH LỚP 4

1


Phần thứ nhất
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta là đào tạo những con người phát
triển tồn diện, những con người có đủ năng lực cần thiêt, đáp ứng sự đỏi hỏi
của cuộc sống hiện đại.Việc giáo dục một con người tồn diện khơng chỉ giáo
dục cho họ có đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết, nắm chắc các kiên thức khoa
học và xã hội, có sức khoẻ, biết lao động, sẵn sàng lao động mà cịn phải giáo
dục cho họ biết nhìn nhận, phân biệt, biết thưởng thức cái đẹp và biết làm đẹp
cho cuộc sống nói chung, cuộc sống của mình nói riêng.Vi vậy, có thể nói rằng
giáo dục thẩm mỹ cho con người là không thể thiếu được.
Một trong những con đường giáo dục thẩm mỹ nhanh và hiệu quả nhất là
giáo dục thơng qua các mơn học nghệ thuật.Trong đó Âm nhạc có vị trí rất quan
trọng.Trong những năm gần đây, nắm băt tình hình thực tế những địi hỏi của sự
phát triển xã hội, bộ giáo dục và đào tạo đã điều chỉnh nội dung giáo dục nghệ
thuật trong nhà trường và coi đây là môn học bắt buộc. Âm nhạc là phương tiện
hiệu quả nhất trong giáo dục thẩm mỹ.Trong nhà trường phổ thông, đặc biêt là ở
bậc tiểu học, Âm nhạc tuy không đào tạo các em thành những ca sỹ, nhạc sỹ,
nhưng thông qua môn học này đã hình thành cho các em những kiến thức ban
đầu, đặc biệt là trang bị cho các em có một thế giới tinh thần thoải mái hơn, giúp
các em phát triển hiền hồ, tồn diện hơn, từ đó gip các em học tốt các môn học
khác.
Ở các lớp 1, 2 và 3 các em được học Âm nhạc trong môn nghệ thuật. Việc
học Âm nhạc ở các lớp đó chủ yếu là học các bài hát, kết hợp với các hoạt động
phụ hoạ, thông qua học hát các em được rèn luyện về tai nghe, trí nhớ, phát triển


nhạc cảm và làm quen với việc thể hiện chính xác cao độ, trường độ của âm
thanh trên cơ sở giai điệu bài hát. Cuối lớp 3 các em mới bắt đầu được làm quen
tiếp cận với các ký hiệu đọc và ghi chép nhạc.
Sang lớp 4, Âm nhạc được tách riêng thành một mơn học, có sách giáo
khoa và hướng dẫn riêng. Từ đây ngoài việc học các bài hát, các em còn được

2


học các kiến thức ban đầu về âm nhạc, được làm quen với các nốt nhạc, được
đọc được ghép lời ca và được làm bài tập nhạc.
Như vậy, lên lớp 4 việc học âm nhạc của học sinh Tiểu học đã chuyển
sang một giai đoạn mới. Bản thân tôi là giáo viên được đào tạo và được phân
công trực tiếp giảng dạy bộ môn, tôi nhận thấy đại đa số các em rất thích bộ
mơn này. Qua thực tế giảng dạy từ những năm trước đây, đặc biệt là những năm
học mà các em được học chương trình sách giáo khoa Âm nhạc mới. Tôi nhận
thấy rằng trước một bài hát, một bài tập đọc hoặc ghi chép nhạc, để các em hiểu,
nắm được và thực hiện tốt yêu cầu của bài học người giáo viên cần có một
phương pháp truyền đạt tốt nhất, đơn giản nhất nhưng lại hiệu quả nhất, đơn
giản nhất để giúp các em nắm bắt nhanh nhất kiến thức bài học.
Trong thực tại, việc đưa ra một phương pháp giảng dạy thích hợp cho bộ
mơn Âm nhạc ở Tiểu học đang còn rất nhiều vấn đề phải bàn. Những năm trước
đây việc giảng dạy bộ môn này giao cho giáo viên đứng lớp giảng dạy, khơng có
giáo viên chun biệt. Bên cạnh đó là sự thiếu hụt các phương tiện dạy học, đặc
biệt là nhạc cụ, cùng với những phương pháp giảng dạy cũ kỹ,chủ yếu là đạy hát
và dạy đọc nhạc theo phương pháp truyền miệng khơ cứng. Do đó kết quả đạt
được là chưa cao, ít gây hứng thú cho các em trong việc học tập và tiếp thu kiến
thức của bộ môn. Từ thực tế đó, qua những dịng chữ này, tơi mạnh dạn đưa ra
Một số phương pháp giảng dạy Âm nhạc cho học sinh lớp 4. Đây là những kinh
nghiệm mà tôi đã đúc rút được trong những năm giảng dạy tại trường Tiểu học

Mạc Thị Bưởi – Eakar – Đăk Lăk.

3


Phần thứ hai
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy Âm nhạc cho học sinh ở lứa tuổi Tiểu
học ở nước ta còn hết sức mới mẻ. Vấn đề học và kết quả học tập của các em là
rất quan trọng, điều đó khơng chỉ phụ thuộc vào chương trình giảng dạy phù hợp
mang tính vừa sức mà còn phụ thuộc vào phương pháp truyền thụ của người
thầy. Hơn nữa còn phụ thuộc vào ý thức học tập của các em cùng với sự quan
tâm chăm sóc, tạo điều kiện của gia đình và tồn xã hội.
Như chúng ta đã biết, Âm nhạc là một môn học mang tính nghệ thuật cao,
nó khác rất nhiều so với mơn học khác, tuy nó khơng địi hỏi sự chính xác một
cách tuyệt đối nhưng lại địi hỏi người học phải có sự u thích, sự đam mê
thậm chí là một chút cái gọi là “năng khiếu”, điều này khơng phải học sinh nào
cũng có được. Học Âm nhạc mang đến cho học sinh những phút giây thư giãn,
thoải mái, học mà chơi, chơi mà học. Thông qua những câu hát, những lời ca,
những cử chỉ, những điệu bộ, Âm nhạc giúp các em nhận thức những hình tượng
âm thanh, giai điệu, kích thích cảm xúc của các em, giúp các em cảm thụ những
giai điệu qua từng bài hát, từng câu nhạc.
Vậy làm thế nào để các em hát đúng giai điệu, đúng tính chất các bài hát,
đọc đúng độ cao, trường độ, tiết tấu của các nốt nhạc trong một bài tập đọc
nhạc? Trước tiên phải xác định đúng tầm cữ giọng phù hợp lứa tuổi của các em,
giúp các em hiểu và phân biệt được những âm thanh cao, thấp, dài, ngắn với lực
độ khác nhau, tốc độ thể hiện khác nhau để phát triển năng lực nghe nhạc và
cảm thụ Âm nhạc. Ngoài việc xác định tầm cữ giọng phù hợp cho học sinh, để
các em có hứng thú trong học tập, người giáo viên cần truyền tải chính xác giai

điệu các bài hát, bài tập đọc nhạc. Phải giúp các em hiểu được ý nghĩa lời ca,
cảm nhận được những tình cảm tươi vui, đằm thắm, nhí nhảnh hay trầm lắng
trong giai điệu từng bài hát, từng bài tập đọc nhạc.
Là giáo viên được đào tạo chuyên ngành sư phạm Âm nhạc cho cấp Tiểu
học, qua thời gian trực tiếp giảng dạy bộ môn với lòng yêu nghề mến trẻ và sự
4


nỗ lực học hỏi của mình, bản thân ít nhiều đã đúc rút được những kinh nghiệm
trong công tác, tôi nhận thấy thực tế việc học tập và tiếp thu các kiến thức của
môn học, đặc biệt là kiến thức đọc và ghi chép nhạc của các em là chưa cao,
nhiều em còn rất lúng túng. Đứng trước những hạn chế thực tại, tôi mạnh dạn
đưa ra một số kinh nghiệm hướng dẫn các em học hát, tập đọc nhạc khá hiệu quả
mà tôi đã thực hiện tại trường.
II. NỘI DUNG.
Trường Tiểu học Mạc Thị Bưởi là một trường có phong trào văn hoá văn
nghệ khá tốt. Các hoạt động văn hố văn nghệ diễn ra rất sơi nổi trong suốt năm
học qua các đợt thi đua. Các hoạt động đó được tác động nhiều bởi bộ mơn Âm
nhạc. Do vậy để các em học tốt và có hứng thú học tập bộ mơn này, địi hỏi
người thầy phải có một phương pháp truyền đạt, phương pháp thu hút, tạo sự
hứng thú cho các em với môn học. Đại bộ phận các em còn nhược điểm rất phổ
biến là hát theo thói quen cũ, hát tự do, tuỳ tiện khơng theo một giai điệu cụ thể.
Vì vậy người giáo viên phải từng bước giúp các em có được sự tự tin, nắm được
các kiến thức, các kỹ năng cơ bản của ca hát từ đó giúp các em phát triển tai
nghe và khả năng thể hiện các tính chất Âm nhạc.
Những năm trước đây, do nền kinh tế chưa đáp ứng nên việc đầu tư trang
thiết bị cho môn học cịn hạn chế. Do đó việc truyền đạt và giúp các em tiếp thu
kiến thức Âm nhạc là hết sức khó khăn, thậm chí những kiến thức đó đến với
các em hết sức trừu tượng. Việc truyền thụ các bài hát chỉ qua phương pháp
truyền khẩu thuần tuý, ít phát triển khả năng tư duy của các em. Do đó khơng

tạo được sự thu hút, ít gây hứng thú học tập cho các em.
1. Điều tra động cơ học tập bộ môn của học sinh.
Dựa vào cơ sở lý luận đã có cùng với thời gian giảng dạy tại trường Tiểu
học Mạc Thị Bưởi, tơi đã tìm hiểu khả năng học tập bộ môn Âm nhạc của học
sinh 2 lớp 4A và 4B. Bằng việc quan sát thực tế các giờ học tôi nhận thấy việc
tiếp thu các kiến thức Âm nhạc và sự u thích học tập bộ mơn chỉ rơi vào một
số em gọi là có năng khiếu. Còn lại các em khác chỉ học theo bản năng phải học
lên ít có sự sáng tạo trong vận dụng kiến thức.
5


Trên cơ sở đặt câu hỏi qua phiếu điều tra trắc nghiệm: Em có thích học bộ
mơn Âm nhạc khơng? Vì sao thích? Vì sao khơng? Kết qua thu đươc như sau:
STT
1
2
3

Nguyên nhân

Kết quả

Lớp 4A
Lớp 4B
Do môn Âm nhạc hấp dẫn, dễ học
17/28 HS = 60,7% 15/28HS = 53,6%
Do môn Âm nhạc khó học, dễ quên 3/28 HS = 10,7%
4/28 HS = 14,3%
Do thầy dạy hay, dễ hiểu
8/28 HS = 28,6%

9/28 HS = 32,1%

2. Khảo sát trình độ học sinh.
a) Nội dung: Kiểm tra chất lượng đầu năm qua việc trình bày một bài hát
mà em ưa thích.
b) Kết quả:
Lớp

Số HS

Hoàn thành tốt (A+)

4A
4B

28
28

4 HS = 14,3%
3 HS = 10,7%

Hoàn thành (A) Chưa hoàn thành (B)
22 HS = 78,6%
20 HS = 71,4%

2 = 7,1%
5 = 17,9%

Qua kiểm tra chất lượng cho thấy các em rất thích học bộ mơn, nhưng để
học tốt thì số lượng cịn rất khiêm tốn. Thực tế khi nghe các em thực hiện bài

hát, bên cạnh những em có phong cách trình bày tự nhiên và khá thoải mái vẫn
còn một số em chưa thực sự mạnh dạn, tự tin, chỉ hát thuộc bài hoặc gần đúng
giai điệu. Việc thể hiện tính chất của bài hát là rất hạn chế.

3. Các giải pháp
Để có một tiết học Âm nhạc hiệu quả, gây hứng thú cho học sinh trước
tiên người giáo viên phải xây dựng nề nếp học tập ngay từ bài học đầu tiên. Cụ
thể như xác định thái độ, ý thức học tập đối với môn Âm nhạc. Các kỹ thuật cơ
bản như tư thế ngồi hát, kỹ năng phát âm, nhả tiếng, quan sát, nghe và cảm nhận
tầm cữ giọng, âm sắc, giai điệu... Vì vậy, giáo viên phải nắm vững các phương
pháp và các bước tiến hành để truyền thụ lại cho các em các kiến thức của bài
học một cách dễ hiểu nhất.
a) Xây dựng phương pháp dạy hát.
+ Phương pháp dạy tập hát bài mới.
6


Có rất nhiều phương pháp để hướng dẫn học sinh tập một bài hát. ở đây
chỉ đưa ra phương pháp mà theo tôi là giúp học sinh dễ tiếp thu bài học nhất, đó
là phương pháp kết hợp giữa nghe giai điệu tập hát và hướng dẫn sửa lỗi thông
qua truyền miệng từng câu. Để làm được điều này trước tiên người giáo viên
phải giới thiệu và dẫn dắt bài hát một cách sinh động, gây sự chú ý, tò mò cho
học sinh, làm cho các em cảm nhận được giai điệu của bài thông qua nghe hát
mẫu. Các em còn nhỏ, khả năng nhận thức chủ yếu theo bản năng và cảm tính.
Do đó, cho các em nghe hát mẫu và đọc lời ca của bài hát là việc đầu tiên phải
làm, ở giai đoạn này việc giải nghĩa những từ khó sẽ giúp các em hiểu được ý
nghĩa của lời ca. Việc đọc lời ca theo tiết tấu sẽ giúp các em phần nào cảm nhận
được tính chất nhịp điệu của bài, người giáo viên chỉ cần hướng dẫn rõ thêm
một chút là các em có thể hình dung được những chỗ ngân hay nghỉ sau mỗi câu
của bài hát.

VD: Trong bài “Khăn quàng thắm mãi vai em” (Nhạc và lời của Ngô
Ngọc Báu). Khi hướng dẫn đọc lời ca phải giúp các em đọc theo tiết tấu và ngắt
ở cuối câu như sau:
2
4

Khi

trông

phương

đông

vừa



ánh

em

tới

dương.
Khăn

quàng

trên


vai

chúng

trường...
Để các em đọc dúng tiết tấu và ngắt cuối câu, giáo viên chỉ bảng phụ và
hướng dẫn các em đọc câu theo mẫu.
Công việc kế tiếp sau khi giúp học sinh đọc đúng lời ca là tập lần lượt các
câu hát theo lối móc xích. Do cao độ, trường độ của các câu hát thường xuyên
thay đổi tác động rất lớn đến thanh quản của các em, để bảo vệ thanh đới, bảo vệ
giọng và giúp cho giọng của các em phát triển bình thường giáo viên phải hướng
dẫn các em qua bước khởi động, đây là giai đoạn chuẩn bị còn gọi là luyện
7


thanh. Tuy nhiên chỉ cần hướng dẫn các em thực hiện bài tập thay đổi cao độ,
tiết tấu đơn giản dễ thực hiện.
VD:



ô

nô ô ô
nô ô ô ô
nô ô ô ô

na
ô


na
ô

ô
na a a a

a

na a a a
na a a a


a
a



Khi tập hát cần tới sự đồng đều hồ giọng chính xác và diễn cảm với
những trạng thái khác nhau và đặc biệt là hát rõ lời giáo viên luôn phải đặt ra kế
hoạch hướng dẫn các em thực hiện tốt.
Việc lấy giọng một bài hát cụ thể, phù hợp đúng tầm cữ chung cho cả lớp
là hết sức quan trọng, điều đó giúp các em dễ dàng điều khiển giọng hát của
mình đúng cao độ của bài.
Để các em cảm nhận giai điệu của từng câu hát, không nhất thiết giáo viên
lúc nào cũng phải hát mẫu, việc hát mẫu tốt nhất là chỉ dùng để trình bày tồn
bài hát vào đầu tiết học giúp các em cảm nhận giai điệu, tiết tấu của bài hoặc
dùng để sửa lỗi từng câu hát cho các em, việc dùng tiếng đàn (Piano) để đàn lên
giai điệu của câu hát đó, các em nghe cảm nhận giai điệu sau đó tự hát lời ca
theo giai điệu đó là tốt nhất. Việc các em thực hiện tự vỡ bài sẽ giúp cho tai

nghe của các em phát triển nhanh hơn. Hơn nữa sự cảm nhân giai điệu và thể
hiện giai điệu đó thành câu hát của chính các em sẽ dễ dàng chuẩn xác hơn. Sau
mỗi câu hoặc mỗi đoạn, giáo viên nên tấu đàn, hát mẫu lại cho các em nghe và
kiểm tra so sánh giai điệu của bài. Việc tập hát từng câu và kết nối theo lối móc
xích sẽ giúp các em mau nhớ lời ca và hát chuẩn xác giai điệu hơn. Việc củng cố
luyện tập từng đoạn của bài hát ngoài việc giúp các em cảm nhận giai điệu và lời
ca ra còn giúp cho các em tự tin hát đúng cao độ, câu hát không rời rạc, không ê

8


a, phát âm nhả tiếng rõ lời. Đặc biệt là giúp các em loại bỏ sự chán nản khi chưa
thực hiện được bài tập.
Khi các em hát được lời ca và giai điệu của bài, để giúp cho việc luyện tập
củng cố, khắc sâu bài học giáo viên phải giúp các em vừa hát ,vừa gõ đệm nhạc
cụ để tạo sự sinh động của bài hát và giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà
không bị cuốn nhanh. Việc sử dụng các nhạc cụ để gõ đệm theo khi hát làm cho
bài hát sinh động, gây hứng thú và tránh được sự nhàm chán đơn điệu của tiết
học. Thơng thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ
đệm theo nhịp, hát gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu. Tuy nhiên tuỳ
theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp.
Để khích lệ các em trong học tập và tạo điều kiện cho các em chứng minh
khả năng cảm nhận của mình, sau khi nắm được cơ bản giai điệu của bài hát
giáo viên phải tổ chức cho các em thể hiện theo các hình thức đơn ca, song ca
hoặc tốp ca. ở giai đoạn này việc động viên, khuyến khích các em là hết sức
quan trọng cho dù các em có thể chưa thực hiện được bài hát một cách chính xác
và tốt nhất.
+ Phương pháp luyện tập, củng cố bài cũ.
Thông thường, trong chương trình học hát ở Tiểu học, việc dạy một bài
hát từ đầu đến khi hồn chỉnh phải thơng qua 3 tiết học. Trong đó, tiết đầu dạy

lời ca mới, tiết 2 củng cố; sửa chữa lời của tiết trước; dạy tiếp lời ca cịn lại (lời
2 nếu có). Luyện tập củng cố cách gõ đệm theo tiết tấu; theo phách nhạc; theo
nhịp (tuỳ theo từng bài), tiết thứ 3 là ôn luyện, tập vận động phụ hoạ và trình
bày bài hát.
Bắt đầu ở tiết thứ 2, việc chỉnh sửa cao độ, tiết tấu của từng câu hát phải
được giáo viên hướng dẫn các em thực hiện đúng nguyên tắc cơ bản. Thông
thường sau tiết 1 các em được học tiết 2 tiếp theo là sau khoảng thời gian 1 tuần.
Việc nhớ lại hồn tồn giai điệu của bài hát khơng phải học sinh nào cũng làm
được. Lúc này người giáo viên phải lấy giọng cho các em, lại phải thực hiện hát
mẫu hoặc cho các em nghe bài hát qua băng để các em nhớ lại giai điệu của
bài . Giáo viên dạo đàn, học sinh hát lại bài hát. Việc đầu tiên là phát hiện những
9


câu, những từ trong bài các em hát chưa đúng để sửa chữa cho các em. Khi các
em thực hiện đúng cao độ của các câu hát trong bài, việc tiếp theo là giúp các
em luyện tập, củng cố. Giáo viên cần đưa ra những yêu cầu, phải nêu rõ những
nhiệm vụ mà các em phải thực hiện khi luyện tập. Việc luyện tập bắt đầu từ từng
nhóm rồi từng bàn thậm chí từng cá nhân. Giáo viên lắng nghe, chữa từng lỗi sai
sót nhỏ của các em, cũng có thể dùng đàn tấu các câu các em hát chưa đúng đó
để các em nghe và tự sửa lỗi cho mình. Việc luyện tập hay sửa lỗi cho học sinh
phải thực hiện một cách tổng quát, mặc dù ở thời điểm đó có thể chỉ sửa lỗi cho
1 em.
VD: Trong bài “Khăn quàng thắm mãi vai em” câu hát các em hay hát sai
cao độ như sau:
+ Hát đúng bản nhạc:

Màu

khăn


tươi

nhắc

em ...

+ Hát sai bản nhạc:

Màu

khăn

tươi

nhắc

em ...

Giải quyết vấn đề này, giáo viên chỉ cần đàn đúng theo bản nhạc cho học
sinh nghe khoảng 2 lần, sau đó hát mẫu lại câu hát đó và băt nhịp cho tập lại
theo đúng bản nhạc.Làm như vậy sẽ giúp các em tự nhận biết và sửa lỗi cho
mình.
Việc củng cố lại bài hát không chỉ ở việc hát lại lời hát mà còn thực hiện
theo một số phương pháp khác, như gõ đệm nhạc cụ theo tiết tấu, nhắc lại tính
chất nhạc điệu của bài. Các hình thức luyện tập này vừa hiệu quả lại vừa thu hút
học sinh tham gia. Yêu cầu là giáo viên phải nêu và giao rõ nhiệm vụ cho các
em.
VD: Giáo viên đàn lại bài hát, yêu cầu học sinh gõ đệm theo nhịp, theo
phách hoặc tiết tấu. Giáo viên yêu cầu học sinh hát câu 1, nhẩm và gõ theo

10


phách câu 2 rồi lại hát câu 3, gõ đệm câu 4... cũng có thể chỉ cho các em gõ theo
tiết tấu của bài.
Tóm lại, phương pháp luyện tập củng cố 1 bài hát là hết sức đa dạng, tuỳ
theo từng thời điểm, từng bài mà người giáo viên sử dụng, lựa chọn 1 phương
pháp thích hợp, duy chỉ có 1 điều dù có thực hiện phương pháp nào thì người
giáo viên vẫn phải luôn sử dụng nhạc cụ để thực hiện, có như vậy các em mới
cảm nhận thực sự những âm thanh và đặc biệt là gây sự hứng thú cho các em.
b) Xây dựng phương pháp tập đọc nhạc.
Ở lớp 4, do mới được tiếp xúc nên yêu cầu của phân môn tập đọc nhạc đặt
ra cho các em là hết sức nhẹ nhàng, đơn giản. Ở giai đoạn đầu tiếp cận với phân
môn này, các em phải thực hành các bài tập về cao độ, về tiết tấu, người giáo
viên phải giúp các em nhận ra được âm thanh cao, thấp tương ứng với vị trí các
nốt nhạc trên khuông trong phạm vi 1 quãng 8. Sau đó, các em được tiếp cận với
thang 5 âm: Đô - Rê - Mi – Son – La và tiến tới thang 7 âm: Đô - Rê - Mi – Pha
– Son La – Si.
Về trường độ, các em được làm quen với các hình nốt và luyện tập thể
hiện các hình nốt trong mối quan hệ 2 hình nốt, rồi 3 hình nốt. Cách dạy thực
hành các hình nốt có thể thực hiện gõ theo tiết tấu, cũng có thể cho học sinh tập
đọc bằng tên gọi các hình nốt: đơn, đen, trắng. Đơi khi để đỡ nhàm chán có thể
thay bằng tiếng trống: Tùng, rinh...
Việc giúp học sinh tập đọc 1 bài nhạc cũng phải được thực hiện theo đúng
các bước nhất định. Nếu như ở tập hát, bước đầu tiên là luyện thanh thì ở tập
đọc nhạc sẽ phải là luyện tập cao độ. Cho các em đọc lại cao độ của các nốt nhạc
không chỉ giúp các em khởi động giọng mà còn giúp các em nhớ vị trí các nốt
trên khng và cảm nhận cao độ các nốt so với nhau. Muốn các em thực hiện tốt
bài tập, giáo viên phải đưa ra yêu cầu để các em tìm hiểu, nhận xét bài nhạc, về
cao gồm nốt gì? Về trường độ gồm hình nốt gì? Trong bài có sử dụng các ký

hiệu âm nhạc nào? Sau khi đã tìm hiểu, nhận xét xong bài nhạc, giáo viên đàn để
các em nghe và cảm nhận giai điệu. Nên đọc mẫu trước 2 hoặc 3 lần để các em
so sánh với cao độ của đàn. Trước khi tập đọc từng câu, từng nhịp nên cho học
11


sinh thực hiện trước tiết tấu rút ngọn của bài bằng cách gõ nhạc cụ hoặc đọc tên
nốt. Tập đọc từng câu theo đàn, giáo viên sửa lỗi truyền miệng. Luyện tập củng
cố theo nhóm, tổ hoặc cá nhân. Khi các em đọc đúng cao độ, trường độ của bài,
mới chuyển sang ghép lời ca. Cơng việc này địi hỏi sự kết hợp luyện tập nhịp
nhàng giữa đọc nhạc, hát lời và gõ đệm nhạc cụ. Cuối cùng là việc đánh giá, đây
là giai đoạn động viên khích lệ các em học tập. Phải thường xuyên động viên
học sinh, việc động viên có thể bằng lời hoặc bằng điểm số ngay cả khi các em
thực hiện bài đọc chưa thật tốt.
c) Xây dựng phương pháp ghi chép nhạc.
Ghi chép lại các bài nhạc đã học giúp các em nắm chắc vị trí các nốt trên
khng cũng như nhớ các hình nốt, ký hiệu đã học. Nếu như tập đọc nhạc mang
nhiều tính chất trìu tượng vì nó cịn phụ thuộc vào tai nghe của từng em thì ghi
chép nhạc mang tính cụ thể hơn, hiện thực hơn. Do vậy, việc hướng dẫn các em
ghi chép đơn giản và dễ thực hiện. Tuy nhiên, đơn giản khơng có nghĩa là khơng
quan trọng, ngược lại tập ghi chép nhạc là sự đúc kết giữa 2 phân môn tập hát và
tập đọc nhạc để khắc sâu kiến thức. Do đó địi hỏi phải có sự chính xác tuyệt đối
từng vị trí nốt trên khuông nhạc, quan trọng hơn nữa là qua chép nhạc các em
phải nhớ được tên các nốt nhạc là gì, nằm ở vị trí nào, cách viết các hình nốt ra
sao, các hình nốt đó có ý nghĩa gì và phải thể hiện thế nào. Việc ghi chép nhạc
còn giúp các em ghi nhớ các ký hiệu khác về âm nhạc. Các kiến thức đó bổ trợ
cho việc tập đọc nhạc hoặc thực hiện các bài hát theo yêu cầu của tác giả.
VD: Cách sử dụng dấu luyến, dấu tăng trường độ, dấu quay lại, dấu hồi đoạn,
dấu lặng đen, lặng đơn, ngắt câu...
Việc ghi chép nhạc là công việc đòi hỏi phải hướng dẫn các em thực hiện

một cách thường xuyên. Tuy nhiên không nhất thiết lúc nào cũng phải thực hiện
ngay tại lớp vì như thế sẽ mất rất nhiều thời gian. Ở lớp chỉ hướng dẫn các em
cách thực hiện việc ghi chép, nhận ra cách trình bày thế nào cho đúng, cho đẹp
còn việc ghi chép lại bài nên cho các em thực hiện về nhà.
Một phương pháp ghi chép nhạc nữa có thể nêu ra ở đây bởi phương pháp
này hỗ trợ rất nhiều cho sự phát triển tai nghêcủa các em là phương pháp “Nghe
12


đàn ghi nhạc”. Trong Âm nhạc chuyên nghiệp thì đây là một môn cơ bản,
phương pháp ghi âm. Với học sinh lớp 4, mục tiêu của phương pháp này là giúp
cá em thoải mái hơn, hứng khởi hơn, đặc biệt là giúp các em phát triển tái nghe
tốt hơn, đồng thời củng cố cho các em các kiến thức ban đầu đã học. Với học
sinh lớp 4, nghe đàn và nghi nhạc là hoàn toàn mới. Do vậy, muốn thực hiện và
có kết quả giáo viên phải hướng đẫn thật kỹ cách thực hiên cho học sinh nắm
được, đặc biệ là việc làm mẫu phải rễ hiểu để các em nắm được cốt lõi của vấn
đề. Hơn nữa, các bài tập ghi nhạc thực hành phải đơn giản, giáo viên đàn phải
thật rõ ràng, thậm chí lúc đầu giáo viên còn phải vừa đàn vừa gõ phách giúp các
em phân biệt.
Trong q trình giảng dạy thực tế tơi đã thực hiện đầy đủ các bước trên và
thấy các em rất say mê hứng thú học tập do đó kết quả đã nâng lên rõ rệt. Sau
đây tơi xin được trình bày kế hoạch một bài học cụ thể với hai nội dung: Học hát
và tập đọc nhạc ở chương trình Âm nhạc lớp 4.
Tiết 22:
- Ôn tập bài hát: Bàn tay mẹ
-

Tập đọc nhạc: Tập đọc nhạc số 6

I-Mục tiêu

Học sinh thể hiện chuẩn xác giai điệu, lời ca của bài hát, biết thực hiện một
vài động tác phụ hoạ khi hát.
Qua bài hát giáo dục học sinh những tình cảm thương yêu ruột thịt với mẹ,
người đã sinh ra các em
Học sinh đọc được thang âm: Đô-Rê-Mi-Son với âm hình tiết tấu có nốt
trắng, nốt đen và móc đơn. Đọc đúng cao độ, trường độ các nốt trong bài tập đọc
nhạc số6: “Múa vui”
II -Chuẩn bị.
- GV: Nhạc cụ ( Đàn điện tử)
Bảng phụ bài T ĐN số 6.
.

Tập một vài động tác phụ hoạ bài hát: Bàn tay mẹ.
- HS: Nhạc cụ gõ: Thanh phách, song loan, trống con, mõ...
13


Sách giáo khoa, vở chép nhạc.
III.Các hoạt động dạy- học chủ yếu.
Nội dung
A. Kiểm tra bài cũ( 5 phút).
Bài: Bàn tay mẹ.

B. Bài mới.
1- Giới thiệu bài (1 phút)
2- Nội dung bài.
a) Hoạt động 1(15 phút): Ôn tập bài
hát “Bàn tay mẹ”.
(Nhạc : Bùi Đình Thảo.
Thơ : Tạ hữu Yên)

*Luyện tập cách gõ đệm theo phách
của bài hát.
Câu hỏi:
Em hãy nhắc lại cách gõ đệm theo
phách bài hát Bàn tay mẹ?
Hát : “ Bàn tay mẹ bế chúng con...”
Gõ :
x
x x
x
* Tập hát, thực hiện động tác phụ hoạ.

* Giáo dục tình cảm cho học sinh
thơng qua bài hát
b) Hoạt động 2 (12 phút):
Tập đọc nhạc số 6: “Múa vui”
(SGK trang 31
*Luyện tập thang âm: Đô - Rê - Mi –
Son

Hoạt động của GV và HS
- GV đàn, HS luyện thanh khởi động
giọng.
- GV dạo đàn, HS hát lại bài (2 lần)
- Gọi 2 HS trình bày bài hát trước lớp.
- GV nhận xét, đánh giá HS.
- GV thuyết trình.
- Ghi đầu bài lên bàng.
- GV mở bộ nhớ đàn, hát mẫu thể hiện
bài hát (1 lần)

- Dạo đàn, HS hát ( 1lần)
- GV đàn, sửa lỗi cho HS.
- Dạo đàn, HS hát lại bài(1 lần)

- HS trả lời.
- GV gọi HS nhận xét, GV nhắc lại.
- Dạo đàn, HS hát gõ đêm nhạc cụ (1
lần)
- Gọi 1 nhóm hát, cả lớp gõ đệm (1
lần).
- GV đàn, HS gõ đệm (1 lần)
- GVnêu y/c, hướng dẫn HS phụ hoạ
- Dạo đàn, HS hát, phụ hoạ theo nhip
đàn
(2 lần)
- Gọi HS lên thực hiện bài hát trước
lớp theo hai hình thức đơn ca và tốp
ca.
( HS nhận xét, GV nhận xét, đánh giá)
- Giáo viên thuyết trình.
- Giáo viên treo bảng phụ và giới
thiệu bài tập đọc nhạc.
- Giáo viên nêu yêu cầu, học sinh
nhận xét bài tập đọc nhạc:
+ Tên nốt nhạc gồm có? (Đơ,Rê,
Mi,Son).
14


+ Hình nốt gồm có?

+ Nhịp? (Nhịp 2/4).
- Giáo viên đàn thang âm (2 lần).
- Giáo viên đọc mẫu (1 lần).
- Giáo viên chỉ bảng, học sinh đọc (2
- Luyện tập tiết tấu:
lần – theo 2 chiều đi lên và đi xuống).
- Giáo viên làm mẫu (2 lần) và hướng
............................................................... dẫn học sinh thực hiện vỗ tay (2 lần).
* Tậpđọc nhạc:

- Giáo viên đàn bài tập đọc nhạc (2
lần).
- Giáo viên chỉ bảng, học sinh tập đọc
từng câu (2 lần).
- GV đàn,sửa lỗi cho HS.
- Luyện tập từng nhóm.
- Luyện tập cá nhân.
( GV sửa lỗi)
- Giáo viên nêu yêu cầu, học sinh tự
ghép lời ca.
- Giáo viên gọi từng nhóm hát lời và
sửa lỗi cho các em.
- Gọi cá nhân học sinh hát lời (giáo
viên động viên).

3- Củng cố, dặn dò (2 phút).

- Giáo viên nhắc lại nội dung bài.
- Dạo đàn, học sinh hát lại bài (1 lần).
- Giáo viên nhận xét giờ học, nhắc các

em về ôn bài

15


Phần thứ ba
KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
I. Ý NGHĨA
Trên cơ sở từ thực tiễn giảng dạy Âm nhạc trong trường Tiểu học nói
chung và cho học sinh lớp 4 nói riêng. Xuất phát từ thực trạng khả năng nhận
thức tiếp thu những kiến thức đặc thù của bộ môn, tôi đã lựa chọn và đưa vào
thực tế những phương pháp giảng dạy của mình trên cơ sở bám sát chương trình
hướng dẫn của Bộ giáo dục - Đào tạo tôi đã thu được những kết quả đáng kể.
Qua quan sát thực tế nhận thấy các em yêu thích bộ mơn hơn, hào hứng học tập
hơn. Đặc biệt là kết quả học tập cũng như chất lượng của cơng tác phong trào
văn hố văn nghệ đã nâng lên rõ rệt, các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong khi
thực hiện.
Qua kiểm tra chất lượng cuối năm kết quả thu được như sau:
Lớ
p
4A
4B

Số HS Hoàn thành (A+)
28
28

6= 21,4%
7 = 25,0%


Hoàn thành (A)

Chưa hoàn thành(B)

22 = 78,6%
20 =75,0%

0 = 0%
0 = 0%

Khả năng nhận thức của con người nói chung, của học sinh Tiểu học nói
riêng là rất lớn và sẵn có. Điều cơ bản là người giáo viên giảng dạy phải nắm
được đối tượng, tìm hiểu cụ thể những sở thích của các em để tìm ra phương
pháp giáo dục, giảng dạy thích hợp nhất giúp các em tiếp thu kiến thức một cách
dễ dàng và tạo sự say mê trong việc vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế
cuộc sống.
II. NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG
Âm nhạc là một mơn học mang tính nghệ thuật, việc giảng dạy cho HS
cấp tiểu học địi hỏi phải có những phương pháp đặc thù riêng. Hơn nữa người
giáo viên còn phải biết lưa chon và áp dụng các phương pháp sao cho phù hợp
với từng đối tượng học sinh. Về phía bản thân, với một số phương pháp nêu
trên, qua thực tế giảng day tại trường tiểu học Mạc Thị Bưởi, tôi nhận thấy hiệu
16


quả của các phương pháp này là khá cao. Điều đó được thể hiên rõ qua thực tế
kiểm tra chất lượng bộ môn cuối năm. Tuy nhiên, khi vận dụng những phương
pháp này, các đồng chí có thể tuỳ cơ ứng biến sao cho phù hợp vói từng hồn
cảnh, từng đối tượng cụ thể để thu được kết quả tốt nhất. Và điều quan trọng là
chúng ta cùng nhau xây dựng nên những phương pháp giảng dạy hay nhất, phù

hợp nhất đối với bộ môn Âm nhạc.
III. NHỮNG Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Để nâng cao chất lượng học tập bộ môn Âm nhạc cho học sinh Tiểu học
tơi xin có một số ý kiến đề xuất như sau:
Tiếp tục bổ xung đồ dùng học tập, đồ dùng giảng dạy của bộ môn đáp ứng
nhu cầu học tập và phát triển của xã hội.
Tăng cường chỉ đạo công tác phong trào văn hoá văn nghệ hơn nữa, tạo
cơ hội để các em có thêm điều kiện giao lưu, học hỏi thể hiện mình trong lĩnh
vực nghệ thuật.
Thường xun động viên, khích lệ các em trong học tập, trong cơng tác
văn hố văn nghệ, đặc biệt là các em có năng khiếu nổi trội.
Thường xuyên cập nhật và nâng cao chuyên môn.

17


Đánh giá xếp loại của
Hội đồng xét duyệt sáng kiến các cấp
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................

.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................
.......................................................................................................................................................

18


19




×