Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.02 KB, 39 trang )

§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
Lời nói đầu
Bảo hiểm là một loại hình cần thiết cho rất nhiều hoạt động xã hội và
nó ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Riêng về Bảo hiểm tiền
gửi( BHTG) ở nước ta mới được hình thành về mặt tổ chức và mới đi vào
hoạt động( tháng7/2002).
Quá trình nghiên cứu và cho ra đời BHTG cũng là quá trình tiếp cận với
những vấn đề mới trong điều kiện hệ thống ngân hàng nước ta đang thực
hiện việc chấn chỉnh và sắp xếp lại.
Bảo hiểm tiền gửi là tổ chức bảo hiểm đứng ra bảo đảm an toàn tiền gửi
cho người gửi tiền ở các tổ chức kinh doan tiền tệ tín dụng trong trường hợp
các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng không có khả năng thanh toán cho
người gửi tiền và thuộc trách nhiệm bảo hiểm với điểu kiện các tổ chức kinh
doanh tiền tệ, tín dụng đó phải mua bảo hiểm tiền gửi theo quy tắc của tổ
chức bảo hiểm.
BHTG tạo điều cho các ngân hàng sẽ có điều kiện tăng khả năng huy
động vốn để mở rộng kinh doanh,nhất là trong cơ chế kinh tế thị trường Việt
Nam, rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng thương mại mang tính tất yếu và
phổ biến, lòng tin của người dân vào các tổ chức tín dụng đang suy giảm,
trong khi đó nhu cầu cần vốn đầu tư ngày càng tăng( nguồn nhàn rỗi từ dân
chiếm một tỉ lệ lớn).
Chính vì vậy sự ra đời của Bảo hiểm tiền gửi là rất cần thiết, nó đảm bảo
an toàn cho các tổ chức tín dụng, đảm bảo lòng tin cho người dân khi gửi
tiền, tạo điều kiện thu hút một lượng vốn lớn cho hoạt động đầu tư của đất
nước.
Trong phạm vi bài này em xin đề cập đến những điểm chung, nhưng mặt
tích cực và hạn chế của BHTG Việt Nam, trên cơ sở đó là những kiến nghị
đối với hoạt động Bảo hiểm này.
Cuối cùng em xin cảm ơn tiến sĩ, thầy giáo Nguyễn Văn Định đã giành
thời gian đánh giá và hướng dẫn, cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa, trung
tâm thư viện đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Trong quá trình làm đề án


1
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
không tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự xem xét và đánh giá
của thầy.

2
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
PHẦN MỘT
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm tiền gửi
Trong các hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động
phát triển khá mạnh mẽ.Mặc dù hoật động tín dụng đem lại lợi nhuận cao
nhưng những “rủi ro tín dụng” có thể xảy ra bất cứ khi nào gây tôn thất mất
mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập…làm cho quỹ tín dụng bị thua lỗ.
Nguyên nhân của rủi ro tín dụng có nhiều mặt, phần chủ quan do sự
bất cẩn của con người, phần khách quan do các hiện tượng thiên nhiên và xã
hội diễn biến phức tạp ngoài tầm kiểm soát của con người, khả năng dự tính,
dự báo của con người bị hạn chế.
Trong các hoạt động kinh tế, tín dụng là một trong những hoạt động phát
triển khá mạnh mẽ. Mặc dù hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận cao
nhưng những “rủi ro tín dụng” như rủi ro mất khả năng thanh toán, rủi ro lãi
suất, rủi ro tỷ giá hối đoái… có thể xả ra vào bất cứ lúc nào gây tổn thất cho
các quỹ tín dụng như mất mát, thiệt hại về tài sản, thu nhập… làm cho quỹ
tín dụng bị thua lỗ, thậm chí bị phá sản.
Rủi ro tín dụng xảy ra có thể có nhiều nguyên nhân:
- Do môi trường kinh tế chưa ổn định làm cho một số doanh nghiệp
không đứng vững trên thị trường;
- Do quản lý Nhà nước còn sơ hở, tạo điều kiện cho một số cá nhân,
doanh nghiệp có hành vi lừa đảo;
- Do trình độ quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn chế…

Cùng với những nguyên nhân trên, khách hàng cũng góp phần tạo ra
những rủi ro tín dụng. Chẳng hạn: Khách háng sử dụng vốn sai mục đích,
3
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
sản xuất kinh doanh thua lỗ; hoặc người vay cố tình không trả nợ; hoặc tài
sản thế chấp, giấy tờ pháp lý của khách hàng không đảm bảo.
Bản thân ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng gây ra những rủi ro như:
không chấp hành nghiêm túc các thể lệ tín dụng và vi phạm quá trình xét
duyệt cho vay; Không kiểm tra được việc sử dụng vốn của người vay; quá
chú trọng về lợi nhuận, đặt tiêu chuẩn lợi nhuận lên trên các nguyên tắc, điều
kiện của tín dụng; việc xem xét cho vay không chuẩn xác như cho vay sai
mục đích, chẳng hạn vay để “đánh quả” hoặc để đầu cơ tích trữ hàng hóa
chờ giá tăng, cho vay không co biện pháp đảm bảo thích hợp.
Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác tác động đến rủi ro tín dụng như
có sự thay đổi, điều chỉnh về chỉnh về chính trị, chính sách, chế độ, luật
pháp của Nhà nước, thay đổi địa giới hành chính của các địa phương…
Những rủi ro tín dụng xảy ra có thể để lại hậu quả khôn lường…
- Đối với kinh tế: Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng có liên
quan trực tiếp đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các tổ chức, các
doanh nghiệp, người gửi tiền. Nếu có rủi ro gây thiệt hại lớn hoặc làm
phá sản một vài tổ chức tín dụng sẽ tạo ra tâm lý không an tâm đối với
nhân dân, họ đua nhau rút tiền làm phá sản hàng loạt ngân hàng và tổ
chức tín dụng, làm cho nhiều doanh nghiệp mất vốn và ảnh hưởng đến
nền kinh tế nói chung.
- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Rủi ro tín dụng ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của họ như: Giảm lợi nhuận, thua
lỗ hoặc mất khả năng chi trả.
- Đối với khách hàng: có thể mất vốn dẫn đến khó khăn trong sản xuất
kinh doanh…
Để đối phó với những rủi ro tổn thất không lường trước được do các rủi ro

gây ra, có rất nhiều biện pháp khác nhau nhưng biện pháp tốt nhất là bảo
hiểm, nghĩa là chuyển những rủi ro mà mình có thể gặp phải cho các tổ
chức bảo hiểm.
Bảo hiểm tiền gửi đã ra đời nhằm bảo đảm an toàn tiền gửi cho những
người gửi tiền tại các tổ chức tham gia tiền gửi; góp phần duy trì sự ổn
4
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
định của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh
hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Tiền gửi(tài sản của người gửi tiền) là số tiền của cá nhân, các tổ chức
kinh tế-xã hội được gửi tại các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng trong một
thời gian nhất định.
Trên thực tiễn, tiền gửi là một trong những nguồn vốn chủ yếu chiếm
tỷ trọng lớn và ngày càng tăng trong tổng nguồn vốn cho vay của các nhà
kinh doanh tiền tệ tín dụng. Nguồn vốn này còn rất tiềm tàng trong dân
chúng, trong các tổ chức kinh tế-xã hội.
Đương nhiên, muốn thu hút được vốn, chúng ta phải sử dụng đồng bộ
các biện pháp như chính sách lãi suất, bảo đảm sự ổn định thị trường, giá
cả…song một khi yếu tố trên dao động ở mức “ổn định tương đối” thì điều
quan trọng có tính quyết định là phải đảm bảo “an toàn” về tiền gửi của dân
cư. Nếu tiền gửi không được đảm bảo “quay trở về” với khách hàng một
cách tuyệt đối an toàn thì dù chính sách hay thế nào, lãi suất phù hợp và
khích thích người gửi ra sao thì cũng khó có thể huy động được tiền dân.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường đã và đang hình thành và ngày càng
phát triển với một tốc độ khá nhanh ở nước ta , một khi đã chấp nhận chuyển
động theo định hướng đó thì mặc nhiên phải chấp nhận tính nghiêm ngặt
của quy luật cung cầu, tính cạnh tranh không khoan nhượng giữa các doanh
nghiệp với nhau, và do đó phá sản trong quá trình “cạnh tranh” giữa các nhà
kinh doanh nói chung và giữa các nhà kinh doanh tiền tệ nói riêng cũng là
một thực tế, không thể né tránh được. Với những lẽ đó, bảo hiểm tiền gửi đã

trở thành một yêu cầu bức xúc đòi hỏi các nhà kinh doanh tiền tệ, tín dụng
đến lúc này bắt đầu quan tâm như một lẽ đương nhiên vì nó gắn với kết quả
hoạt động của mình. Nó cũng là “tín hiệu” “tín nhiệm đầu tiên” trong quan
hệ với khách hàng.Bởi lẽ nếu không có hoặc thiếu nguồn vốn huy động thì
không thể đáp ứng nhu cầu vay vốn của xã hội và cũng coa nghĩa là không
thể nói đến kinh doanh tiền tệ tốt được.
Vậy Bảo hiểm tiền gửi có nghĩa là tổ chức bảo hiểm đứng ra bảo đảm
an toàn tiền gửi cho người gửi tiền ở các tổ chức kinh doan tiền tệ tín dụng
5
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
trong trường hợp các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng không có khả năng
thanh toán cho người gửi tiền và thuộc trách nhiệm bảo hiểm với điểu kiện
các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng đó phải mua bảo hiểm tiền gửi theo
quy tắc của tổ chức bảo hiểm.
2.Đối tượng và đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Đối tượng tham gia bảo hiểm là các quỹ tín dụng nhân dân, có nghĩa
là quỹ tín dụng nhân dân phải có trách nhiệm đảm bảo an toàn tuyệt đối tiền
gửi cho người gửi tiền và người trực tiếp mua bảo hiểm tiền gửi là quỹ tín
dụng nhân dân chứ không phải người gửi tiền.
Đối tượng bảo hiểm tiền gửi là tiền gửi. Tiền gửi là số tiền của các cá
nhân, các tổ chức kinh doanh tiền tệ, tín dụng( như ngân hàng, quỹ tín dụng
nhân dân,…) trong một thời gian nhất định.
Như chúng ta đều biết, tiền gửi thông thường chia làm hai loại: tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi không có kỳ hạn.
3.Phạm vi bảo hiểm tiền gửi.
Trong bảo hiểm tiền gửi các rủi ro sau đây được bảo hiểm:
a.Sự phá sản quỹ tín dụng
Phá sản là trường hợp quỹ tín dụng không thể trả nợ một cách đầy đủ hoặc
quỹ tín dụng không thể tiếp tục kinh doanh vì bị thiếu vốn. Trong trường
hợp này, các công việc kinh doanh của quỹ phải được giao cho ban thanh lý

tài sản xử lý các tài sản còn lại theo đúng quy định pháp lý về phá sản của
nhà nước
b.Sự giải thể bắt buộc của quỹ tín dụng
Giải thể bắt buộc là do không tuân thủ các quy tắc, luật lệ của Nàh nưứoc
hoặc có thể do chủ nợ đề nghị toà án ra lệnh tuyên bó giả thể vì quỹ tín dụng
từ chối thanh toán và chỉ có cách này mới hy vọng thu hồi được tiền.
6
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
c.Phải chấp hành lệnh thanh lý vì một khác với việc phá sản hay mất khả
năng thanh toán của quỹ tín dụng.
Trong trường hợp này xảy ra khi cơ quan có thẩm quyền xét thấy quỹ mặc
dù vẫn có khả năng thanh toán nhưng khng đúng mục đích đã đề ra, không
muốn toà án can thiệp mà quyết định thanh lý không cho hoạt động tiếp.
Trong trường hợp này, bảo hiển sẽ giải quyết bồi thường cho những người
gửi tiền nhưng sẽ được thế quyền để được hưởng số tiền thanh lý tài sản hay
đòi nợ.
d.Giải thể tự nguyện do bị đặt trong tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá
sản của quỹ tín dụng.
Tình trạng có nguy cơ dẫn đến phá sản của quỹ tín dụng là tình trạng quỹ
tín dụng bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh hoặc gặp khó khăn khi đã áp
dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn. Tuy nhiên, không muốn toà án can thiệp, các cổ đông của quỹ chấp
nhận tuyên bó giải thể. Trong trường hợp này, bảo hiểm tiền gửi có kỳ hạn
mà quỹ không thanh toán hết sau khi có quyết định giải thể.
e.Không thể thực hiện việc thanh toán cho những người gửi tiền vì một
mệnh lệnh của tòa án đối với quỹ tín dụng
4.Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
a.Sồ tiền bảo hiểm
số dư tiền gửi có kỳ hạn trong báo cáo số dư có tiền gửi của mỗi quỹ tín
dụng

b.Phí bảo hiểm
7
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
Phí bảo hiểm là số tiền quỹ tín dụng phải trả cho người bảo hiểm để
bảo hiểm số dư tiền gửi có kỳ hạn của quỹ tại thời điểm cuối cùng mỗi quỹ.
Phí bảo hiểm theo từng quý được tính theo công thức :
P=m*R/365*90
Trong đó:
P: Phí bảo hiểm theo quý
m: Số dư tiền gửi có kỳ hạn
R: Tỷ lệ phí bảo hiểm
c.Giám định và chi trả bảo hiểm
Khi xảy ra rủi ro được bảo hiểm, quỹ tín dụng phải thông báo cho
người bảo hiểm biết kèm theo các giấy tờ:
+Giấy yêu cầu bồi thường
+Giấy chứng nhận bảo hiểm
+Báo cáo thực trạng đến ngày xẩy ra rủi ro
+Lệnh của tòa án tuyên bố phá sản
+Bản kê khai danh sách những người gửi tiền có kỳ hạn chưa được
thanh toán tính đến ngày xảy ra rủi ro
+Bản kê khai chi tiết chủ nợ cho vay
Sau khi xem xét các chứng từ có liên quan đến việc trả tiền bồi
thường cho quỹ tín dụng và người gửi tiền đến và nếu thuộc phạm vi bảo
hiểm thì bảo hiểm sẽ trả tiền cho người gửi tiền.
Số tiền bồi thường cao nhất là số dư tiền gửi có kỳ hạn thực tế vào
thời điểm quỹ tín dụng xảy ra rủi ro nhưng không vượt quá số tiền ghi trong
hợp đồng bảo hiểm.
8
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
PHẦN HAI

THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM
1.Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được thành lập và khai trương hoạt
động ngày 07/07/2000, trên cơ sở Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01/09/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và Quyết định số
218/1999/QĐ-TTG ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc
thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là một tổ chức tài chính Nhà nước có tư
cách pháp nhân , có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản ở các Ngân hàng
trong nước và nước ngoài, có vốn điều lệ ban đầu 1000 tỷ đồng, địa bàn hoạt
động trên phạm vi cả nước. Trụ sỏ chính tại thủ đô Hà Nội và 6 chi nhánh
trực thuộc đặt tại các tỉnh, thành phố.
Mục tiêu hoạt động của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định
của các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh trong quá
trình hoạt động đảm bảo an toàn vốn, tự bù đắp chi phí, không vì mục tiêu
lợi nhuận.
2.Vai trò của bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
a.Đối với các tổ chức tín dụng
Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình dịch vụ nên ảnh hưởng đầu tiên của
nó là sẽ làm tăng chi phí trung gian tài chính của tổ chức tín dụng tham gia
bảo hiểm. Mặt khác tính mạo hiểm có thể có thể tăng trong hoạt động của
các tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm vì những lo sợ về tình trạng hoạt
động không tốt có thể ảnh hưởng tới hoạt động đầu vào không còn nữa.
Chính vì vậy cùng với sự ra đời của hoạt động bảo hiểm tiền gửi việc thanh
tra, giám sát hoạt động ngân hàng cũng được tăng cường.
9
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
Những tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi sẽ tạo niềm tin
cho người gửi tiền, người dân cũng thấy yên tâm rất nhiều và không lo sợ

những thông tin gây thiệt hại cho tổ chức tín dụng đóa, tạo ra sự an toàn cho
hệ thống ngân hàng. Qua đó sẽ là kênh huy động vốn có hiệu quả cho ngân
hàng.
Tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi còn có lợi ích nữa là
thường xuyên được bảo hiểm tiền gửi giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành các quy định bảo hiểm tiền gửi về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Thông qua việc kiểm tra giám sát này, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có
những ý kiến tham gia thiết thực, phát hiện những dấu hiệu làm sai chế đọ,
những hiện tượng có xu hướng không lành mạnh, những nguyên nhân gây
nên sự yếu kém của hoạt động tổ chức tín dụng.
b.Đối với người gửi tiền
Từ đầu năm đến nay, cú 5 quỹ tín dụng ở phía Nam bị giải thể, trong đó 1
quỹ tín dụng mất khả năng chi trả. Thi thoảng, người dân gửi tiền tiết kiệm
cũng nghe vài "tin đồn" gây hoang mang về hoạt động của ngân hàng này
nọ…
Chính sự hoang mang đó sẽ tạo ra một tâm lý nghi ngờ trong người dân,
họ không biết nếu chẳng may số tiền của mình rơi đúng vào ngân hàng bị
phá sản thì sẽ bị mất hết ? Đặc biệt trong tình trạng nền kinh tế của đất nước
chưa ổn định, đang trong giai đoạn hoàn thiện nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước.
Do vậybảo hiểm tiền gửi luôn tạo ra niềm tin, tạo sự an toàn cho người gửi
tiền. Người dân cảm thấy yên tâm hơn mỗi khi gửi tiền của mình vào tổ
chức tín dụng. Họ không phải hốt hoảng lo sợ các tổ chức tín dụng bị phá
sản bởi vì đằng sau họ luôn luôn có bảo hiểm tiền gửi đi kèm.
c.Đối với nền kinh tế
Bảo hiểm tiền gửi tạo ra sự an toàn, tạo niềm tin cho người dân gửi
tiền vào các tổ chức tín dụng, làm tăng nguồn vốn đầu tư, mở rộng sự phát
10
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
triển kinh tế đất nước. Đây là một vai trò rất quan trọng nhất là trong giai

đoạn hiện nay khi nền kinh tế của nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện
theo nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước cần rất nhiều vốn để
đầu tư phát triển trong đó nguồn vốn huy động từ nhân dân chiếm số lượng
lớn.
Mặt khác, kể từ khi có Bảo hiểm tiền gửi , Nhà nước có công cụ để
giám sát, xử lý hậu quả ở các tổ chức tín dụng, đặc biệt là các quỹ tín dụng
nhân dân khi các quỹ tín dụng này mất khả năng thanh toán. Điều này có ý
nghĩa quan trọng trong bối cảnh hiện nay pháp luật về phá sản các tổ chức
tín dụng còn chưa hoàn thiện.
3.Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Việt Nam đang trong giai đoạn quá độ chuyển sang nền kinh tế thị trường,
rủi ro tiềm ẩn tương đối cao,trong khi đó hoạt động tiền tệ trong giai đoạn sơ
khai, tình hình tài chính của đa số các trung gian tài chính thực sự đang ở
trong tình trạng thiếu lành mạnh, do đó việc cho ra đời bảo hiểm tiền gửi là
rất cần thiết.
Chính vì vầy, ngày 01/9/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
89/1999/NĐ- CP về bảo hiểm tiền gửi
a.Đối tượng và đối tượng tham gia
Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện
một số hoạt động ngân hàng theo qui định của Luật các Tổ chức tín dụng(bắt
buộc phải tham gia); phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt
động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi;
Các cá nhân gửi tiền băng đồng Việt Nam tại các tổ chức tham gia bảo
hiểm.
b.Về tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là một tổ chức tài chính nhà nước, hoạt
động dưới sự điều tiết của Thủ tướng chính phủ, được nhà nước cấp vốn
11
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
điều lệ, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự

bù đắp chi phí, có tư cách pháp nhân và được miễn nộp các loại thuế.Trong
trường hợp thiếu vốn tạm thời, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải báo cáo
NHNN để NHNN trình thủ tướng Chính phủ xem xét cho phép tổ chức bảo
hiểm tiền gửi được vay từ các TCTD, tổ chức khác có bảo lãnh của Chính
Phủ
c.Phí bảo hiểm tiền gửi
Mức phí hiện hành là 0,15%/năm trên số dư tiền gửi bình quân tại các
tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, được nộp làm 4 lần trong năm tài chính.
Phí phạt đối với các trường hợp nộp chậm/ ngày; nếu tình trạng tiếp tục
kéo dài tới 30 ngày, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền yêu cầu NHNN trích
tài khoản tiền gửi của các tổ chức TD để chuyển nộp phí bảo hiểm và các
khoản tiền phạt
d.Số tiền bảo hiểm
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ tiến hành chi trả tiền gửi được bảo hiểm
với giới hạn tối đa là 30 triệu đồng/cá nhân , căn cứ vào chứng từ hợp lệ và
danh sách do tổ chức bảo hiểm và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lập :
số tiền gửi vượt quá mức tối đa sê được thanh toán theo quy định của luật
phá sản
d.Loại tiền gửi cần được bảo hiểm và hình thức áp dụng
Như chúng ta đều biết, tiền gửi chia làm 2 loại: tiền gửi có kỳ hạn và
tiền gửi không có kỳ hạn, bảo hiểm tiền gửi lại là một việclàm hoàn toàn
mới mẻ ở nước ta , chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong khâu quản lý kinh
doanh bảo hiểm tiền gửi, mặt khác do tính chất luân chuyển vốn, tiền gửi
không kỳ hạn mang tính thất thường nên việc tính toán phức tạp. Do đó ở
thời kỳ đầu chúng ta chỉ nên bảo hiểm tiền gửi loại có kỳ hạn.
Để thực sự đảm bảo niềm tin cho khách hàng khi gửi tiền, khai thác
tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư phù hợp với thưc tế ở nước
ta hiện nay, việc tham gia Bảo hiểm tiền gửi mang tính chất bắt buộc.
12
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B

e.Giám sát rủi ro và các biện pháp xử lý
Các kênh thông tin về hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi
có quyền tiếp cận, bao gồm: Báo cáo định kỳ theo qui định của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi, các báo cáo đột xuất khi tổ chức tham gia bảo hiểm gặp khó
khăn về khả năng chi trả, thay đổi thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm
soát tổng giám đốc.Ban kiểm soát đặc biệt báo cáo tình hình hoạt động của
tổ chức( trong trường hợp tổ chức này bị đặt dưới sự kiểm soát đặc biệt);
Trực tiếp kiểm tra việc chấp hành các qui định tại nghị định này của các tổ
chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
d. Quyền quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi bị phá sản
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trở thành chủ nợ với tổ chức tham gia bảo
hiểm bị phá sản trên cơ sở số tiền đã chi trả cho người gửi tiền, do đó được
tham gia vào quá trình quản lý và thanh lý tài sản của các tổ chức bị phá sản
theo luật phá sản.
4.Kết quả đạt được của Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam
Trên địa bàn 11 tỉnh phía Nam do chi nhánh BHTG TP Hồ Chí Minh phụ
trách hiện có 160 TCTD tham gia BHTG và số tiền được bảo hiểm chiếm
52,11% so với tổng vốn huy động bằng tiền đồng, đạt hơn 20.496 tỉ đồng.
Số tiền không đựoc bảo hiểm khoảng 18.83 tỉ đồng là từ trái phiếu vô danh,
tiền gửi của các tổ chức
Sau hơn 4 năm hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã chi trả
bảo hiểm với tổng số tiền là 14 tỷ 668 triệu đồng cho 1.351 người đến gửi
tiền tại 32 quỹ tín dụng nhân dân bị chấm dứt hoạt động và khả năng thanh
toán ở 10 tỉnh, thành phố.
Bảo hiểm Tiền Gửi Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với chi nhánh
ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố, các cấp chính quyền sở tại và từng hội
đồng thanh lý QTDND tổ chức theo dõi sát tình hình thanh lý các QTDND
giải thể được chi trả tiền bảo hiểm, phân tích thực trạng các khoản phải thu
13

§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
và các khoản phải trả trong thanh lý của từng quỹ, tìm biện pháp thu hồi các
khoản nợ để có nguồn chi trả cho các chủ nợ theo trật tự ưu tiên thanh toán.
Công tác chi trả tiền chi những người gửi tiền được tiến hành nhanh
gọn, chính xác an toàn theo đúng quy định của pháp luật, tạo niềm tin của
nhân dân địa phương, tạo tâm lý an toàn an tâm cho người dân gửi tiền vào
các Quỹ tín dụng nhân dân chấm dứt hoạt động cũng như các địa phương
khác có Quỹ tín dụng nhân dân khác hoạt động bình thường.
Quá trình chi trả tiền gửi cho người dân không xảy ra bất cứ hiền tượng
tiêu cực nào, được cấp uỷ, chính quyền địa phương đồng tình, ủng hộ. Đặc
biệt là hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tạo điều kiện cho các Tổ chức tín dụng
thu hút được hàng trăm nghìn tỉ đồng vốn của dân, an tâm gửi vào các ngân
hàng và Quỹ tín dụng… để đầu tư cho các mục tiêu phát triển quốc gia, các
dự án và các nhu cầu vay của mọi thành phần kinh tế
Về công tác thanh lý tái 31 quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể, số tiền
phải thu là 49 tỷ 794 triệu đồng, trong 3 năm đã thu được 28%, trong đó thu
nợ cho vay đạt 28,5% thu nợ cho vay có đảm bảo bằng tài sản đạt 22,2%.
không có tài sản đảm bảo đạt 21,2%, các khoản thu khác đạt 3,6%.
5.Những vấn đề còn tồn tại của Bảo hiểm tiền gửi Viêt nam
Bảo hiểm là một loại hình cần thiết cho rất nhiều hoạt động xã hội và nó
ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Riêng về Bảo hiểm tiền gửi
(BHTG) ở nước ta mới được hình thành về mặt tổ chức và mới đi vào hoạt
động (tháng 7/2000). Quá trình nghiên cứu và cho ra đời BHTG cũng là quá
trình tiếp cận với những vấn đề mới trong điều kiện hệ thống ngân hàng ở
nước ta đang thực hiện việc chấn chỉnh và sắp xếp lại (trước đó các Quỹ tín
dụng nhân dân đã tham gia bảo hiểm trong hệ thống bảo hiểm Việt Nam).
BHTG cũng là một loại hình bảo hiểm nói chung (tương tự như bảo hiểm tàu
thuyền , bảo hiểm nhân thọ…) nhưng là một loại hoạt động đặc thù và có ý
nghĩa đặc biệt trong việc bảo đảm lòng tin của người gửi tiền vào ngân hàng
và cũng vì vậy mà các ngân hàng sẽ có điều kiện tăng khả năng huy động

vốn để mở rộng kin doanh.
14
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
Bảo hiểm nói chung và BHTG nói riêng đã hình thành và hoạt động phổ
biến ở các nước trên thế giới. Có một số nước, BHTG và bảo toàn tiền gưỉ
(BTTG) cùng song song tồn tại hoặc có nước chỉ có loại hình BTTG (như ở
Cộng hòa liên bang Đức). Khi cả hai tổ chức này cùng được hoạt động, thì
các Ngân hàng thương mại được chủ động trong việc lựa chọn cho mình một
loại hình hoặc là bảo hiểm hoặc là bảo toàn, cũng có thể vừa bảo hiểm vừa
bảo toàn.
Các quy định của Chính phủ tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày
01/01/1999, Thông tư số 03/2000/TT-NHNN5 của NHNN hướng dẫn thực
hiện điều 23 Nghị định số 89-1999/ND-CP trên là cơ sở pháp lý để tổ chức
Bảo hiểm tiền gưỉ Việt Nam đi vào hoạt động và sẽ góp phần làm sôi động
thêm các hoạt động Ngân hàng ở nước ta. Tuy nhiên, hoạt động Bảo hiểm
Tiền Gửi vẫn còn tồn tại những điểm đáng lưu ý sau:
1. Về đối tượng tiền gửi được bảo hiểm
Theo quy định của chính phủ thì đối tượng tiền gửi được bảo hiểm là
tiền gửi của cá nhân (cả tiền gửi trên tài khoản) của tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi . Trong khi đó mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam là
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền nhỏ.Nhưng thực tế thời gian
qua quy định trên lại được hiểu là bao gồm tất cả các loại tiền gửi của cá
nhân, tiền gửi của hộ gia đình và của cả các hàng kinh doanh.Từ đó gây ra
sự phức tạp trong việc phân loại tiền gửi đươc bảo hiểm và không được bảo
hiểm.
2.Hình thức Bảo Hiểm
Đây là loại hình bảo hiểm, bảo hiểm bắt buộc và là tổ chức BHTG duy
nhất, điều này sẽ nảy sinh sự bất bình đẳng trong cơ chế thị trường và sự độc
quyền.
3, Phí Bảo Hiểm

15
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
Tỉ lệ phí bảo hiểm 0,15%/năm tính trên số tiền gửi bình quân của các loại
tiền gửi bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Theo nhiều ý kiến (cả những
người quan tâm và những người tổ chức tín dụng) là cao, ảnh hưởng đến
hoạt động, đặc biệt là trong điều kiện các tổ chức tín dụng vừa phải xử lý tồn
tại cũ, vừa phải trích dự phòng rủi ro và như vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động thu chi tài chính và đời sống cán bộ, nhân viên của tổ chức tín dụng.
Đối với các TCTD Nhà nước hiện nay thì phí đóng bảo hiểm tiến gửi là lớn
nhất, nhưng việc BHTG phải can thiệp thì hầu như ít xảy ra do có những đặc
thù riêng (năng lực huy động vốn thường xuyên dồi dào, do là ngân hàng
nhà nước…)
4. Hình thức nộp phí
Những quy định về trích và nộp phí bảo hiểm còn cứng (do là bảo
hiểm bắt buộc). Mặt khác, một tổ chức tài chính của Nhà nước (thực chất
như là một công ty) Không có chức năng quản lý nhà nước (vừa thực hiện
hoạt động bảo hiểm, vừa có tính kinh doanh) nhưng lại được phép xử lý vi
phạm hành chính đối với các đơn vị tham gia BHTG (cảnh cáo, phạt tiền…).
5, Việc tổ chức giám sát rủi ro của BHTG đối với các đối tượng tham
gia BHTG là vấn đề cần phải xem xét trên các khía cạnh.
(1)- Xuất phát từ chức năng của BHTG, có cần tổ chức giám sát đến
mức như các quy định hiện có không? hay là trước mắt có thể phối hợp với
thanh tra ngân hàng để cung cấp kết quả giám sát rui ro, theo yêu cầu của
BHTG (có trong quy định hiện hành), vì hiện tại Thanh tra Ngân hàng đã và
đang tổ chức giám sát thường xuyên (cả giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ).
Các tiêu chí tài chính, yêu cầu về mẫu biểu và nội dung báo cáo của các tổ
chức tín dụng (nếu tham gia BHTG) đều có trong hệ thống báo cáo chung
của NHNN và hầu như các số liệu hoạt động của hệ thống Ngân hàng nước
ta đều có trên mạng chung trong hệ thống truyền dẫn số liệu… của Cục công
nghệ tin học Ngân hàng. Nên chăng trước mắt chỉ yêu cầu báo cáo và giám

sát những nội dung có tính đặc thù phù hợp với chức năng của BHTG để
16
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
phục vụ các yêu cầu về hỗ trợ khi đối tượng tham gia BHTG gặp khó khăn
về khả năng chi trả (ngay) và thực hiển bảo hiểm khi đối tượng tham gia
BHTG có nguy cơ phá sản.
(2)- Song song với việc này là tiến hành xây dựng một hệ thống giám
sát riêng của BHTG tương tự như hệ thống giám sát từ xa của thanh tra
NHNN hiện nay.
17
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
6.Những hạn chế ngay trong cơ quan bảo hiểm tiền gửi.
Do mới thành lập và đi vào hoạt động nên các tổ chức bảo hiểm tiền
gửi Việt Nam không thể không có sai sót. Những sai sót này có thể kể đến
là:
Thứ nhất: Trong công tác kiểm tra giám sát.
-Do kết hợp với thanh tra ngân hàng nhà nước trong quá trinh kiểm tra,
giám sát nên còn có sự chồng chéo giữa bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và
thanh tra ngân hàng nhà nước.
-Chưa tích cực đôn đốc các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nộp
phí và các loại báo cáo theo quy định.
- Trong quá trình kiểm tra phát hiện thấy có những tổ chức tiến dụng
vi pham nhưng chỉ nhắc nhở và xử phạt nhẹ đã làm ảnh hưởng đến tính
nghiêm minh của luật.
-Đối tượng tham gia bảo hiểm tiền gửi rất rộng từ trung ương đến cơ
sở nhưng tổ chức bảo hiểm tiền gửi mới chỉ có 6 chi nhánh cơ sở nên việc
kiểm tra giám sát còn bị hạn chế.
Thứ hai: Trong công tác chi trả.
Thời gian qua bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chi trả một khoản tiền
khá lớn và việc chi trả cho những người gửi tiền tại các quỹ tín dụng nhân

dân cơ sở nằm rải rác trên 9 tỉnh, nên việc tiến hành thẩm định hồ sơ và
tiến hành chi trả đã gặp rất nhiều khó khăn.Hơn nữa việc chi trả lại toàn
bằng tiền mặt thông qua UBND xã phường hoặc tổ chức tiến dụng tại nơi bị
phá sản.
Thứ ba: Về trình độ cán bộ.
Do mới được tách ra từ ngân hàng nông nghiệp nên hầu hết các cán bộ
của tổ chức BHTGVN là cán bộ từ nghành ngân hàng chuyển sang và lại
chưa được đào tạo kịp thời về nghiệp vụ bảo hiểm .Vì vậy nên họ đã gặp rất
nhiều khó khăn trong công việc kiểm tra giám sát bởi họ vẫn còn chuyên về
những nghiệp vụ ngân hàng hơn , từ đó làm ảnh hưởng đến hoạt động của cả
tổ chức.Hơn thế vì không nắm rõ nghiệp vụ bảo hiểm nên họ đã gặp không
18
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
ít khó khăn trong việc tuyên truyền, giải thích cho người dân hiểu đúng về
bảo hiểm tiền gửi.
Bên cạnh những khó khăn, hạn chế ngay trong phạm vi hoạt động của
mình,bảo hiểm tiền gửi còn gặp phải những hạn chế khác từ phía các tổ
chức tiến dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi.Về việc chấp hành những quy
định chung của nhà nứoc, về nghĩa vụ tham gia bảo hiểm tiền gửi của
mình.Không những vậy mà các quỹ tín dụng đã tham gia bảo hiểm tiền gửi
thì lại không quản lý chặt chẽ các khoản cho vay, chưa giám sát được mục
tiêu sử dụng vốn vay của người đi vay, từ đó tạo ra những rủi ro tiến dụng và
dẫn đến nguy cơ giải thể quỹ tiến dụng.
7.Khó khăn trong công tác thanh lý QTDND bị giải thể
Công tác thanh lý tại 31 QTDND bị giải thể, số tiền phải thu là 49 tỷ
794 triệu đồng, thu nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản đạt 22,2%, thu nợ
cho vay không có tài sản đảm bảo đạt 36,1%, thu cho vay các tổ chức tín
dụng khác đạt 100, thu thanh lý tài sản đạt 21,2%, thu các khoản phải thu
khác đạt 36%. Đáng chú ý là việc thu hồi bồi thường vật chất và quy trách
nhiệm chỉ đạt 3,8%. Một số hạn chế tồn tại của công tác thanh lý các

QTDND bị giải thể được BHTGVN đánh giá là hiệu quả thấp, có dấu hiệu
của sự trì trệ tại Hội đồng thanh lý dẫn đến kết quả thu hồi chỉ đạt 28% tổng
các khoản phải thu và 27% tổng các khoản phải trả không đạt tiến độ thanh
lý theo phương án được duyệt.
Nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trên cũng được dánh giá là một
số cán bộ tham gia thành viên Hội đồng thanh lý chưa nhận thức đúng ý
nghĩa của công tác thanh lý đối với việc củng cố chấn chỉnh hoạt động của
hệ thống QTDND nên chưa tập trung quan tâm chỉ đạo thực hiện; nhiều cán
bộ địa phương kiêm nhiệm công tác, trình độ năng lực thấp, nên không phát
huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập đối
với những khoản nợ không còn khả năng thu, qui định về chi phí thanh lý
hay hướng dẫn về trình tự và thủ tục kết thúc thanh lý khi khong còn khả
năng thu nợ và thanh toán nợ.
19
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
Bảo Hiểm Tiền Gửi Với Tâm Tư Người Trong Cuộc.
Sau khi Thông tư số 03/2000/TT-NHNN ngày 16/3/2000 của Ngân hàng
Nhà nước hướng dẫn thi hành nghị địng 89/1999/ND-CP của Chính phủ về
bảo hiểm tiền gửi được ban hành, đã có không ít ý kiến trao đổi giữa các nhà
ngân hàng. Những người chủ yếu có liên quan tới việc thực thi chế độ
BHTG nói trên trong hoạt động kinh doanh tiền tệ hàng ngày. Sau đây là
một số trong những ý kiến phản ánh tâm tư của những người trong cuộc:
1-Nếu chế độ bảo hiểm tiền gửi được thực thi, điều này có hấp dẫn được
khách hàng hay không? Sự hấp dẫn ở đây cần được hiểu theo 2 khía cạnh:
BHTG có hấp dẫn được các khách hàng của mình (là các tổ chức tham gia
BH), và TC tham gia BH, đến lượt nó, có hấp dẫn được khách hàng (gửi
tiền) nhờ việc tham gia vao BHTG hay không?
Xin được đề cập đến khía cạnh thứ nhất:
Bất cứ chế độ bảo hiểm nào nói chung sẽ có sức hấp dẫn và khả năng bắt
rễ, hòa nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế – xã hội một quốc gia, khi và chỉ

khi nó chứng minh được rằng những thủ tục và biểu hiện của nó đã tạo thuận
lợi tối đa (với những chi phí tối thiểu nhất có thể) để các đối tượng tham gia,
người được bảo hiểm và các bên liên quan khác, nếu có, thực sự được hưởng
các tiện ích và quyền lợi mà nó hứa hẹn mang lại.
Theo quy định hiện của Thông tư hướng dẫn nói trên về bảo hiểm tiền gửi,
thì khả năng Tổ chức tham gia bảo hiểm nhận được sự hỗ trợ của BHTG
trong trường hợp cần thiết cấp bách, điều kỳ vọng lớn lao mà các TCTD chờ
đón từ BHTG (nhằm ngăn ngừa và cứu vãn nguy cơ mất khả năng thanh
toán và đổ vỡ do hoảng loạn dây chuyền) vẫn còn tỏ ra quá mơ hồ và phụ
thuộc vào thiện chí chủ quan của phía cơ quan BHTG, điều này chưa thể
hiện tính chất bình đẳng, sòng phẳng và công khai về quyền lợi và nghĩa vụ
20
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
cần có giữa hai chủ thể trong một quan hệ kinh tế và đã làm giảm đi tính hấp
dẫn của BHTG đối với các khách hàng của nó.
Phải chăng do tính chất bắt buộc “phải tham gia” bảo hiểm (tựa như hiện
nay người ta buộc phải “mua điện” của Ngành điện lực) mà cơ quan BHTG
chẳng cần quan tâm đến tính hấp dẫn của sản phẩm trong cơ chế thị trường?
Khía cạnh thứ hai: Vẫn còn quá sớm để đánh giá về hiệu quả của chế độ
BHTG mới ban hành đối với khách hàng, dân cư cứ gửi tiền tại các TCTD.
Song, xét dưới góc độ của người đi huy động vốn, thì có thể thấy ngay được
rằng với quy định giới hạn tối đa số tiền được bảo hiểm (30triệu
VNĐ/người, cả gốc và lãi) như hiện nay, thì các NH cũng không có thêm cơ
may để gia tăng được đối tượng khách hàng cá nhân thường xuyên có số dư
tiền gửi lớn. Thậm chí, nếu các khách hàng thuộc đối tượng này mà đồng
loạt vận dụng cách đối phó theo kiểu đánh “du kích” (như một khách hàng
đã thổ lộ: chia tách số tiền lớn ra làm nhiều món đứng tên người gửi khác
nhau, hoặc chia ra gửi ở nhiều nơi, nhằm tối đa hóa số tiền được BH bồi
thường, nếu có bất trắc xảy ra), thì tất yếu sẽ làm tăng thêm chi phí ấn chỉ,
chứng từ và phí quản lý của một hoặc nhiều TCTD đối với cùng một số tiền

gửi mà thôi. Đó là sự lãng phí, mà lãng phí thì đồng nghĩa với giảm hiệu quả
kinh tế, nó “bào mòn” khả năng tài chính – một trong những yếu tố sống còn
trong hoạt động kinh doanh của hệ thống TCTD – và từ đó đe dọa tính an
toàn cho tiền gửi của dân cư. Vô hình dung kết quả này sẽ đi ngược lại mục
đích tư thân của BHTG.
2- Với việc các ngân hàng phải tham gia đóng BHTG, liệu lãi suất tiền gửi
sắp tiền gửi sắp tới của các ngân hàng có bị giảm đi không? Đó là mối băn
khoăn hòa trộn với niềm hy vọng vừa le lói của người gửi tiền, khi nghe nói
các ngân hàng sắp tới sẽ mua bảo hiểm cho tiền gửi của dân cư tại ngân
hàng.
Với mức phí bảo hiểm hiện hành (0,15%/năm) thì chi phí đóng bảo hiểm
của mỗi kỳ 3 tháng sẽ tương đương với việc lãi suất huy động vốn bị tăng
thêm 0,0375% so với trước kia tính trên cùng một số dư vố huy động bình
quân trong kỳ. Có nghĩa là chi phí đầu vào sẽ càng trở lên tốn kém nếu
21
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
TCTD càng nỗ lực huy động tiền gửi của cá nhân, trong khi mà “đầu ra” còn
nhiều quản ngại. Qua đó có thể tiên liệu khả năng một số TCTD càng lỗ lực
huy động tiền gửi của cá nhân, trong khi mà đầu ra còn nhiều quả ngại. Qua
đó có thể tiên liệu khả năng một số TCTD buộc phải có động thái điều chỉnh
giảm lãi suất huy động tiền gửi của dân cư, khi không còn khả năng nào
khác để cân đối thu chi.
3- Sức hấp dẫn của Ngân hàng TMCP so với Ngân hàng quốc doanh sẽ
như thế nào nếu áp dụng BHTG?
BHTG ra đời, thoạt nhìn tưởng như chí ít cũng đã đặt được các TCTD cổ
phần vào một “sân chơi bình đẳng”, thậm chí còn tăng được sức hấp dấn so
với các ngân hàng quốc doanh. Tuy nhiên, do mức vốn tự có và đặc biệt là
mức độ uy tín còn “mong manh”, liệu các TCTD cổ phần có đủ lực để chơi
bình đẳng hay không, lại là chuyện khác. Thật vậy, với việc phải tăng thêm
chi phí cho hoạt động nguồn vốn của mình, thì TCTD nào mà cơ cấu nguồn

vốn có tỷ trọng lớn về tiền gửi của khách hàng là TCKT, pháp nhân (với lãi
suất huy động thấp) thì vẫn có khả năng cân đối thu chi nguồn vốn cho phép,
giữ nguyên lãi suất huy động tiền gửicá nhân, kể cả khi áp dụng BHTG, từ
đó sẽ thực sự tạo thêm được một lợi thế cạnh tranh thu hút khách hàng.
Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, lợi thế này vẫn đang nghiêng về
phía các Ngân hàng thương mại quốc doanh.
Mặt khác, BHTG áp dụng một mức phí “khoán chung” cho tất cả các đối
tượng tổ chức nhận tiền gửi dân cư, chưa có tiêu chí phân loại, đánh giá lựa
chọn các TCTD hoạt động an toàn, có hiệu quả để đề ra được và công khai
hóa chế độ khuyến khích ( về mức phí, về các nghĩa vụ khác, nếu có) cho
phù hợp với mức độ rủi ro của TCTD đó, nên dưới con mắt của cộng đồng
dân cư, cho dù một Ngân hàng thương mại cổ phần nào đó hoạt động rất tốt
thì cũng chẳng có gì để phân biệt hơn so với một Ngân hành thương mại
quốc doanh, khi mà cả hai cùng tham gia bảo hiểm tiền gửi.
8.Về Bảo Hiểm Tiền Gửi Và Bảo Toàn Tiền Gửi
Bảo tòan tiền gửi
22
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
- Là tổ chức tài chính do bản thân chủ ngân hàng lập lên, mang tính tự
nguyện, liên kết nhằm hỗ trợ nghề nghiệp, đảm bảo an toàn cho hoạt động
kinh doanh vừa cho ngân hàng, vừa cho người gửi tiền.
- Là sở hữu chung của các thành viên tham gia BTTG và đặt dưới sự giám
sát của của Hiệp hội ngân hàng.
- vì là chủ sở hữu, hơn nữa lại là vì mục đích tương hỗ, liên kết nghề
nghiệp nên BTTG dễ dàng có các hình thức hỗ trợ, ứng cứu kịp thời, linh
hoạt và thích hợp mà không sợ phải lệ thuộc vào các nguyên tắc hành chính.
- Góp phần chống độc quyền, đa dạng hóa các hình thức đảm bảo tiền gửi.
Nâng cao tính cạnh tranh và chủ động hội nhập với khu vực và quốc tế.
- Góp phần chống ỷ lại vùa dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước. Điều
đó cũng góp phần nâng cao tính tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh và

chống rủi ro đạo đức.
Nêu lên nhưng đặc trưng đó, và từ kinh nghiệm nhiều năm của các nước
có nền kinh tế thị trường ông Oánh cho rằng cần thiết lập mô hình Quỹ bảo
toàn tiền gửi trong quá trình triển khai Luật các TCTD và đưa ra mô hình
mẫu mang tính nguyên tắc sau:
1- TCTD bắt buộc tham gia BTTG hoặc tham gia BHTG, hoặc cả hai.
Quỹ BTTG hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, được miễn thuế.
2- Đối tượng tham gia: các TCTD trong nước và nước ngoài, kể cả các
QTDND.
3- Phạm vi bảo toàn: Tiền gửi bằng VND và ngoại tệ bao gồm: Tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn và không kỳ hạn của dân cư, kỳ phiếu và trái phiếu
ngân hàng đích danh, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng đích danh.
4- Hình thức sở hữu: Tài sản Quỹ BTTG thuộc sở hữu chung của các
thành viên tham gia, khi không tham gia nữa, thành viên có quyền rút
phần tài sản tương ứng hiện có của Quỹ với một số điều kiện nhất định.
5- Nguồn vốn của Quỹ BTTG:
a- Vốn tự có: Đó là vốn điều lệ do thành viên đóng góp được trích từ vốn
tự có. Vốn này dùng để xây dựng trụ sở và mua sắm phương tiện làm
việc của Quỹ.
23
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
b- Vốn bảo toàn: Bao gồm:
- Vốn góp: Trích từ vốn huy động của thành viên tham gia (tính theo tỷ
lệ % trên số tiền gửi được bảo toàn). Vốn này vẫn thuộc sở hữu của người
góp và người được trả lãi (với mức thấp hơn thị trường).
- Lệ phí bảo toàn: được ghi vào chi phí. Nếu TCTD tham gia BHTG và
BTTG thì lệ phí cũng được phân chia theo 1 tỷ lệ nhất định.
Nguyên tắc lệ phí:
* Số tiền gửi được bảo toàn càng lớn lệ phí càng thấp.
* Mức rủi ro càng lớn, phí càng cao (Quỹ dự phòng rủi ro/tài sản có

càng lớn, lệ phí càng thấp).
* Thành viên mới tham gia phải đóng góp phí lần đầu cao hơn so với
thành viên cũ.
* Quỹ càng lớn, phí càng thấp.
- Tiền lời: Tiền gửi do sủ dụng vốn nhàn rỗi chủa Quỹ đem lại.
- Phí bảo toàn: do người gửi tiền mua bảo đảm tiền gửi (hình thức này
được áp dụng ở một số nước. Việt Nam có thể áp dụng khi có điều kiện).
6-Sử dụng vốn của Quỹ BTTG: Quỹ BTTG chỉ được sử dụng trong trường
hợp thành viên mất khả năng trả nợ (Slovency).
a- Tạm thời mất khả năng trả nợ:
Khi thành viên tạm thời mất khả năng trả nợ sẽ được Quỹ BTTG:
- Cho rút phần vốn đã đóng góp.
- Cho vay: thông thường là khoản cho vay ngắn hạn từ tháng 6 tới
1 năm với lãi suất thấp.
- Tài trợ: Nếu 2 biện pháp trên chưa giải quyết được khó khăn tạm
thời của thành viên thì Quỹ sẽ hỗ trợ vốn không lấy lãi, nhưng áp
đặt một chế độ quản lý chặt chẽ. Khi tình hình ổn định kinh
doanh có lãi thì người được hỗ trợ nộp cho Quỹ BTTG 10% số
lợi nhuận thu được trong một vài năm.
c- Phá sản: Khi thành viên phá sản Quỹ sẽ chi trả tiền gửi theo tỷ lệ, hoặc
mức quy định. Lúc này quỹ sẽ trở thành chủ nợ đối với các khế ước
cho vay của thành viên.
24
§Ò ¸n m«n häc Ph¹m Xu©n Trêng – BH 43B
d- Ta có mô hình so sánh BHTG và BTTG
25

×