Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích những nội dung cơ bản của luật quốc tịch năm 2008 .doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.96 KB, 13 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Quá trình hình thành và phát triển của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một quá trình liên tục, gắn liền với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trong từng thời kì, luôn quan tâm và chú trọng việc xây dựng,
củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương. Nếu như trong thời
kì của Hiến pháp 1946, Nhà nước chủ yếu là bộ máy cai trị, dùng bạo lực cách mạng để
trấn áp thù trong, giặc ngoài, duy trì trật tự, an ninh trong nước. Từ Hiến pháp 1959 đến
nay, Nhà nước dân chủ nhân dân đã làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và trở thành
người điều hành nên sản xuất xã hội. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta và
nhân dân ta phải đặc biệt quan tâm và nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ máy chính
quyền nhà nước…”. Xuất phát từ tầm quan trọng của công cuộc hoàn thiện bộ máy Nhà
nước, nhóm chúng em đã lựa chọn nghiên scứu đề tài: “So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến
pháp 1980 và Hiến pháp 1992.”
NỘI DUNG
1. Khái quát về Bộ máy nhà nước và vị trí tính chất của bộ máy nhà nước
1.1 Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước (BMNN) là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa
phương, cơ sở; tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định tạo thành một
cơ chế để thực hiện chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.Cơ quan nhà nước là một tổ chức
được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất định, có cơ cấu tổ chức
nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được quy định trong các văn
bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn của nhà nước.
Bộ máy nhà nước được hình thành và phát triển phù hợp với quy luật phát triển chung
của xã hội, các cơ quan trong bộ máy nhà nước ngày càng phong phú đa dạng và phức tạp
hơn. Sự phân định chức năng, thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ngày càng rõ ràng, cụ
thể hơn và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chúng ngày càng tiến bộ hơn.
Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một cơ chế cân đối và thống nhất
của các hệ thống cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, được tổ chức hoạt động
theo nguyên tắc chung, bảo đảm cho nhà nước ta thực hiện mọi chức năng, nhiệm vụ của


mình và thực sự là cơ chế của dân, do dân và vì dân.
Vấn đề cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, nó thể
hiện sức mạnh của nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho nhà nước thực hiện chức
năng và nhiệm vụ của mình một cách có hiệu quả nhất. Những bộ phận cấu thành của bộ
máy nhà nước là cơ quan nhà nước.
1.2 Cấu thành bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về cơ bản qua thực tế cho thấy bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm: nguyên
thủ quốc gia: chủ tịch nước (hội đồng nhà nước, đoàn chủ tịch xô viết tối cao…), do quốc
hội bầu là cơ quan đứng đầu nhà nước, thay mặt cho nhà nước về đối nội và đối ngoại
Cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại biểu nhân dân, cơ quan dân cử) bao gồm
quốc hội và hội đồng nhân dân.
Các cơ quan hành chính nhà nước (cơ quan quản lí bao gồm chính phủ, hội đồng nhân
dân các cấp).
Các cơ quan xét xử bao gồm tòa án nhân dân tối cao, tòa án nhân dân địa phương và
tòa án quân sự các cấp.
Các cơ quan kiếm sát bao gồm viện kiểm sát nhân dân tối cao, viện kiểm sát nhân dân
địa phương, viện kiểm sát quân sự các cấp.
Các cơ quan quốc phòng an ninh.
1.3 Vai trò của bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là cơ quan đại diện bảo vệ lợi ích cho giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức và nhân dân lao động. Nó vừa là bộ máy hành chính cưỡng chế
vừa là bộ máy quản lí kinh tế, văn hóa xã hội, là công cụ chủ yếu để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình. Các cơ quan trong bộ máy nhà nước có vai trò quản lí mọi mặt của
đời sống xã hội và làm cho xã hội ngày càng phát triển hoàn thiện.
2. So sánh Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992
2.1.Về phân cấp hành chính và số lượng các cơ quan
a. Về tổ chức, phân cấp hành chính
Theo điều 113 Hiến pháp 1980 và Điều 118 Hiến pháp 1992 đơn vị hành chính của
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
• Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc TW và đơn vị hành chính tương đương.

• Tỉnh chia thành huyện, thành phố trực thộc tỉnh và thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
chia thành quận huyện xã.
• Huyện chia thành xã và thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành
phường và xã.
• Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và UBND
Hiến pháp 1980 thực hiện tổ cức bộ máy nhà nước theo hướng chia nhỏ các bộ,
ngành cho phù hợp với chủ trương hoạt động chuyên sâu của các cơ quan quản lý. Ở cấp địa
phương, hiến pháp 1980 lại tổ chức theo hướng sáp nhập các đơn vị hành chính lại để củng
cố với quy mô lớn hơn( nhập tỉnh)(Bắc Thái, Nam Hà, Hà Bắc…).Bên cạnh đó ở ở Hiến
pháp 1980 còn bãi bỏ các khu tự trị; đổi tên gọi ủy ban hành chính bằng ủy ban nhân dân.
Hiến pháp 1992 lại có sự chia nhỏ đơn vị hành chính sự chia tách đã diễn ra như
(Vĩnh Phú thành Phú Thọ và Vĩnh Phúc; Bắc Thái thành Bắc Giang và Thái Nguyên...).
b. Về số lượng các cơ quan
So với Hiến pháp 1980 tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến Pháp 1992 có sự thay đổi
theo hướng luật định. Như cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao gồm các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan của Chính phủ do Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, sáp nhập theo đề nghị
của Thủ tướng Chính phủ trong hiến pháp 1980 bằng.Còn cơ cấu tổ chức của Chính phủ bao
gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan của Chính phủ do Quốc hội quyết định thành lập,
giải thể, sáp nhập theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ.
2
Như vậy bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1992 có sự thay đổi theo hướng gọn nhẹ
hơn và đề cao trách nhiệm cá nhân hơn trên tinh thần tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan. Số lương bộ, sở, phòng, ban giảm đi đáng kể
cũng như nhiều chức vụ được thay đổi hoặc bãi bỏ: Như trong chính phủ tù 1982-1987.
Trong hội đồng bộ trưởng có tới 1 chủ tịch và 17 phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng và có tới
80 thành viên của chính phủ khác, ở mỗi bộ ngành lại có nhiều bộ trưởng thay phiên nhau
giữ chức. Còn với nhiệm kỳ chính phủ 2007 - 2011 chỉ có 1 thủ tướng chính phủ và 5 phó
thủ tướng, cùng 20 bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ khác.
2.2 Hệ thống cơ quan đai diện
Theo Hiến pháp 1980 gồm có: Quốc hội, Hội đồng nhà nước và hội đồng nhân dân

các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương)
Hệ thống cơ quan đại diện theo Hiến pháp 1992 gồm có: Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã và cấp tương đương).
Hệ thống cơ quan này theo Hiến pháp 80 và 92 đều được hình thành bằng con đường
bầu cử - do nhân dân trực tiếp bầu ra theo bốn nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và
kín.
a. Về Quốc hội
Hiến pháp năm 1980 đã có những quy định đầy đủ về vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội nói riêng và cơ quan dân cử nói chung. Nếu theo hiến pháp 1959, Ủy ban
thường vụ là cơ quan thường trực của Quốc hội thì theo Hiến pháp 1980, cơ quan thường
trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
theo Hiến pháp năm 1980 về cơ bản không thay đổi so với Hiến pháp 1959, tiếp tục khẳng
định vị trí tối cao của cơ quan quyền lực cao nhất. Theo Hiến pháp 1980, Quốc hội nước ta
thống nhất về quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trong Hiến pháp năm 1980, một chế định mới
được thiết lập đó là Hội đồng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cơ quan này
vừa thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng của chủ
tịch nước.
Hiến pháp năm 1992 tiếp tục xác định tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Điều 83). Mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào Quốc hội.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tập trung trong 14 điểm tại Điều
84 Hiến pháp 1992, theo đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp;
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của công dân; Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà
nước. Quốc hội còn có thểm một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như quyết định chương
trình xây dựng luật và pháp lệnh…Tuy nhiên, hiến pháp 1992 đã bỏ quy định: “Quốc hội có
thể định cho mình những nhiệm vụ và quyền hạn khác khi xét thấy cần thiết” ghi nhận trong
các bản Hiến pháp trước đây (bao gồm Hiến pháp 1980) để tránh hiểu lầm Quốc hội hoạt

động ngoài khuôn khổ Hiến pháp.
Cơ cấu tổ chức Quốc hội có những thay đổi, trước hết là việc thành lập lại Ủy ban
thường vụ Quốc hội. Theo Hiến pháp năm 1980 thì chế định thường trực của Quốc hội được
kết hợp với chế định nguyên thủ quốc gia trong một cơ quan là Hội đồng nhà nước. Hội
3
đồng nhà nước vừa là cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội, vừa là chủ tịch tập thể
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực tiễn cho thấy cách tổ chức này có
nhiều điểm không phù hợp mà hạn chế lớn nhất là đã không phân định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan thường trực của Quốc hội và nguyên thủ quốc gia. Việc lập lại Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước là nhằm mục đích đề cao vai trò trách nhiệm của
người đứng đầu Nhà nước cũng như của tập thể thay mặt cho Quốc hội giữa hai kỳ họp.
Theo Điều 90 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan
thường trực của Quốc hội”. Ủy ban thường vụ Quốc hội do Quốc hội bầu ra, chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Số thành viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội là
do Quốc hội quyết định và các thành viên này không thể đồng thời là thành viên của Chính
phủ. Chủ tịch Quốc hội và Phó Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch và Phó Chủ tịch Ủy
ban thường vụ Quốc hội. Một số thành viên của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội
làm việc theo chế độ chuyên trách.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội được quy định tại điều 91 Hiến
pháp năm 1992. Đó là những nhiệm vụ, quyền hạn đặc trưng của cơ quan thường vụ, thường
trực. Bên cạnh đó, Ủy ban thường vụ Quốc hội còn thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn
được Quốc hội giao cho trong lĩnh vực lập pháp, hành chính nhà nước, giám sát và vì thế có
những mối quan hệ phân công và phối hợp với các cơ quan nhà nước cao cấp khác (Chủ tịch
nước, Chính phủ…)
Ngoài ra, theo quy định của Hiến pháp 1992, UBTVQH các Khóa IX, X, XI và XII đã
có sự thay đổi về số lượng và điều kiện làm việc. Số thành viên của UBTVQH đã được nâng
lên hoặc có dao động. Số thành viên của UBTVQH Khóa XII tăng lên 18 người. Nếu như ở
những khóa trước đây, các Ủy viên UBTVQH (hoặc Hội đồng Nhà nước) hầu hết hoạt động
kiêm nhiệm, thì Chủ tịch QH, các Phó chủ tịch QH và các Ủy viên UBTVQH, theo Hiến
pháp 1992 đều hoạt động chuyên trách. Đây là điều kiện thuận lợi để UBTVQH thực hiện và

hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đối với các cơ quan khác của Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 cơ bản vẫn giữ nguyên
quy định về việc thành lập Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội và về cơ quan,
không có gì thay đổi lớn so với Hiến pháp năm 1980.
Nhiệm vụ của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội được tăng cường, vai trò
được đề cao. Trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội có
điểm mới là việc quy định số đại biểu Quốc hội chuyên trách là thành viên của các cơ quan
này. Đây là những quy định mới nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
Các Hội đồng và Ủy ban thường trực của Quốc hội cũng có thay đổi. Hội đồng và Ủy
ban là những cơ quan của Quốc hội có nhiệm vụ giúp Quốc hội trong việc thẩm tra các dự án
luật, các kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác; thẩm tra các báo cáo được
Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội giao…
Thêm vào đó, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ ràng hơn về nhiệm vụ, quyền hạn, đề
cao vai trò của đại biểu Quốc hội nhằm nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu Quốc hội
nói riêng của của Quốc hội nói chung. Điều này giúp cho QH thực sự đại diện cho khối đại
đoàn kết dân tộc, bảo đảm tính đại diện tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân, của các cơ quan
nhà nước, cơ quan Đảng, đoàn thể, đại biểu của các lực lượng vũ trang nhân dân, các ngành,
lĩnh vực, các địa phương. Cơ cấu, thành phần ĐBQH theo Hiến pháp 1992 tương đối đạt yêu
cầu theo dự kiến. ĐBQH là phụ nữ đạt tỷ lệ cao hơn. Số đại biểu là người dân tộc thiểu số,
4
đại biểu trẻ tuổi và người ngoài Đảng cũng đạt tỷ lệ tương đối so với dự kiến. Hầu hết
ĐBQH trẻ tuổi có trình độ đại học, trên đại học. Cơ cấu ĐBQH đã có những thay đổi khá
toàn diện so với trước đây.
b. Về hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân (HĐND) là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là cơ quan
đại diện cho nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra.
Về tổ chức HĐND theo Hiến pháp 1992 cũng có một số thay đổi. Theo Luật tổ chức hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, thường trực HĐND được thành lập ở cả ba cấp tỉnh cấp
huyện và cấp xã (gồm chủ tịch, phó chủ tịch HĐND). Thành viên của thường trực HĐND
phải là đại biểu của HĐND và không đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp. Nhiệm kì

của thường trực HĐND theo nhiệm kì của Quốc hội.
Các ban chuyên môn của HĐND được thành lập nhằm đảm bảo hoạt động tập thể.
Theo quy định, các ban chuyên môn của HĐND chỉ được thành lập ở 2 cấp: cấp tỉnh và cấp
huyện. Còn HĐND cấp xã (phường) không có ban chuyên môn. HĐND cấp tỉnh được thành
lập 3 ban bao gồm: ban kinh tế, ngân sách; ban văn hóa xã hội; ban pháp chế (có thể thành
lập thêm ban dân tộc). HĐND cấp huyện được thành lập 2 ban: ban kinh tế và ban pháp chế.
Các ban được thành lập tại kì họp thứ nhất của HĐND và thành viên của các ban phải là
thành viên của HĐND; không đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp.
2.3Hệ thống cơ quan hành chính
Hiến pháp năm 1980 Hiến pháp năm 1992
5

×