Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

phân tích nội dung quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.79 KB, 8 trang )

I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền
tự do cơ bản của công dân, được ghi nhận ở Điều 70 Hiếp pháp năm 1992: “Công
dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng,
tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước”. Và đây cũng là một cơ sở quan trọng để các cơ quan có thẩm quyền
của Nhà nước xây dựng hệ thống các nguyên tắc và xác định nội dung quản lí nhà
nước về hoạt động tôn giáo.
Từ trước đến nay, ở Việt Nam tôn giáo luôn là một trong những vấn đề rất
nhạy cảm, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, chú trọng. Việc xây dựng hệ
thống các nguyên tắc quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo là cả một quá trình từ
thấp đến cao, dần được hoàn thiện và củng cố. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này,
em đã quyết định lựa chọn đề tài: “phân tích nội dung quản lí nhà nước về hoạt
động tôn giáo”.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1, Khái niệm quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo
Căn cứ theo khoản 3 và khoản 5 Điều 3 Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm
2004 quy định tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống
giáo lí, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công
nhận. Còn hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lí, giáo luật, lễ nghi,
quản lí tổ chức tôn giáo.
Xét về tín ngưỡng và tôn giáo có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên,
chúng cũng có điểm khác nhau bởi tín ngưỡng là khái niệm thuộc lĩnh vực ý thức,
tình cảm, tư tưởng, còn tôn giáo là khái niệm rộng hơn, bao gồm cả hoạt động và
tổ chức. Việt Nam là một nước đa tôn giáo, trong đó phần lớn dân cư chịu ảnh
hưởng của Nho giáo và Phật giáo. Các tôn giáo lớn ở Việt Nam là Công giáo, Tin
lành, Phật giáo, Hồi giáo, Cao đài và Phật giáo Hòa hảo.
Như vậy có thể thấy quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo là hoạt động của
các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,


1
tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, hướng các hoạt
động tôn giáo phục vụ lợi ích chính đáng của các tín đồ và phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
2, Nội dung quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo
a. Đối với việc thành lập và gia nhập các tổ chức tôn giáo
Căn cứ theo Điều 17 Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo năm 2004 quy định:
“1. Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức
trực thuộc theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.
2. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải được
sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
3. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo không thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này phải được sự chấp thuận của Thủ tướng
Chính phủ”.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn quy định về phạm vi hoạt động của Hội đoàn
tôn giáo, hay các dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo
muốn hoạt động phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tuy nhiên, để bảo đảm an ninh trật tự, và bảo đảm sự bình đẳng giữa người
theo đạo và người không theo đạo, Nhà nước có những quy định cấm không cho
nhập tu đối với những người trốn tránh pháp luật và các nghĩa vụ công dân. Việc
quy định như vậy đảm bảo cho việc nhập tu được thực hiện minh bạch, trong sáng,
tránh không cho những trường hợp nhập cư với mục đính hay động cơ nhằm trốn
tránh không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật hay thực hiện một số nghĩa vụ
công dân, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
b. Đối với việc tiến hành các nghi lễ tôn giáo và hoạt động tôn giáo khác
Nội dung này được Nhà nước khá chú trọng bởi mỗi năm ở khắp trong và
ngoài nước diễn ra rất nhiều những nghi lễ cũng như hoạt động tôn giáo. Cụ thể
Nhà nước hướng dẫn các chức sắc tôn giáo nắm vững và thực hiện đúng các quy
định của Nhà nước về hoạt động đối ngoại của các tôn giáo, về việc cử các chức

2
sắc hoặc các đoàn tôn giáo ra nước ngoài, hay đón các đoàn tôn giáo nước ngoài
vào Việt Nam.
Hàng năm, người phụ trách tổ chức tôn giáo cơ sở phải đăng kí với chính
quyền chương trình hoạt động tôn giáo diễn ra tại cơ sở đó, đặc biệt các ngày lễ
trong năm. Tuy nhiên khi có sự thay đổi quan trọng trong chương trình phải báo
cáo và được sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân cấp xã. Theo quy định tại Điều 18
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo quy định: “1. Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ
chức tôn giáo cơ sở được tiến hành sau khi có sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện nơi diễn ra hội nghị, đại hội.
2. Việc tổ chức hội nghị, đại hội cấp trung ương hoặc toàn đạo của tổ chức tôn giáo
được tiến hành sau khi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo
ở trung ương.
3. Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo không thuộc các trường hợp
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tiến hành sau khi có sự chấp thuận
của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi diễn ra hội nghị, đại hội”. Việc quy định như
vậy giúp các cơ quan phân định rõ thẩm quyền chấp nhận của mình, đồng thời
giảm thiểu tối đa những hoạt động tôn giáo “ngoài luồng”, đảm bảo tốt nhất trật tự
tôn giáo do Nhà nước quản lí.
Bên cạnh đó, Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất bản các
loại sách kinh, các ấn phẩm tôn giáo, các ấn phẩm tôn giáo, đồ dung việc đạo. Quy
định này giúp các tôn giáo có thể truyền bá một cách đầy đủ về tổ chức tôn giáo
của mình, đồng thời giúp công dân dể dàng tiếp cận, tìm hiểu và gia nhập các tôn
giáo theo nguyện vọng của mình.
c. Đối với hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, tín ngưỡng, nhà tu hành, chức
sắc
Theo quy định, các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc có quyền
thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế theo quy định của hiến chương, điều lệ
hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật Việt Nam. Để tránh
những cá nhân hay tổ chức tôn giáo lợi dung danh nghĩa để làm những việc ảnh

hưởng đến Nhà nước, nội dung này trong những năm gần đây được đặc biệt quan
tâm, Nhà nước thực hiện hướng dẫn các chức sác tôn giáo nắm vững và thực hiện
3
đúng các quy định của Nhà nước về hoạt động đối ngoại của các tôn giáo, đồng
thời cử các chức sắc hoặc các đoàn tôn giáo ra nước ngoài hoặc đón các đoàn tôn
giáo nước ngoài vào Việt Nam.
Trên thực tế, Việt Nam đã đón và làm việc với nhiều đoàn tôn giáo nước
ngoài, nhiều cá nhân và tổ chức tôn giáo, tổ chức quốc tế đến trao đổi, tìm hiểu về
tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình là đoàn của Hồng
y Crescenzio Sepe - Bộ trưởng Bộ truyền giáo Vatican sang thăm Việt Nam vào
tháng 11/2005, qua đó hai bên giao lưu, trao đổi về những vấn đề liên quan đến
Giáo hội Công giáo VN, chính sách tôn giáo của Nhà nước VN và những vấn đề
khác mà VN và Vatican cùng quan tâm. Ai cũng biết một số nước như Vantican
hay một số nước theo đạo Hồi giáo vấn đề tôn giáo được đặt ngang tầm với vấn đề
chính trị. Chính vì vậy, nội dung quản lí nhà nước về hoạt động tôn giáo ngày
càng cần chú trọng.
d. Đối với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo và tài sản của các tôn giáo
Đối với nội dung này, Nhà nước bảo hộ tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín
ngưỡng, tôn giáo và nghiêm cấm việc xâm phạm các tài sản đó. Chẳng hạn như
chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất... Đất có các công trình do cơ sở tôn giáo sử
dụng gồm đất thuộc chàu, nhà thờ, thánh thất hay trụ sở của tổ chức tôn giáo được
Nhà nước cho phép hoạt động và được sử dụng ổn định lâu dài.
Tuy nhiên, nhà, đất và các tài sản khác đã được tổ chức, cá nhân tôn giáo
chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lí thì đều thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cở sở thờ tự của tổ chức tôn giáo đã
hiến cho Nhà nước để sử dụng vào các việc công ích như trường học, bệnh viện,..
thì không đặt vấn đề trả lại. Quy định này rất phù hợp không chỉ trên cơ sở pháp
luật mà cả tinnh thần nhân đạo mà các tôn giáo hướng tới. Mặc dù vậy trên thực tế
vẫn còn nhiều mâu thuẫn phát sinh về việc tranh chấp đất đai giữa các cơ sở tôn
giáo với chính quyền địa phương (chẳng hạn như giữa Nhà thờ giáo sứ Thái Hà với

bệnh viện Đống Đa – Hà Nội, ...). Điều này đặt ra vấn đề cho Nhà nước cần có
những biện pháp can thiệp kịp thời và đưa ra những quy định cụ thể để tránh việc
các thế lực bên ngoài lợi dụng mâu thuẫn giữa các cơ sở tôn giáo với chính quyền
địa phương để chống đối hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của Nhà nước.
4
đ. Đối với việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo
Đối với nội dung này, việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bổ cử, suy
cử phải đáp ứng một số điều kiện nhất định và được thực hiện theo hướng chương,
điều lệ của tổ chức tôn giáo; trường hợp có yếu tố nước ngoài thì còn phải có sự
thỏa thuận với cơ quan quản lí nhà nước về tôn giáo ở trung ương. Và việc cách
chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn giáo được thực hiện theo hiến chương, điều lệ
của tổ chức tôn giáo.
Điều này thể hiện sự tin tưởng, tôn trọng của Nhà nước đối với hoạt động
của các tổ chức tôn giáo, không can thiệp quá sâu vào nội bộ hay cơ cấu của các tổ
chức nhằm để các tôn giáo có tính cạnh tranh lành mạnh, phát huy tối đa năng lực
của tôn giáo mình, giúp nhân dân an tâm ổn định xây dựng và phát triển đất nước.
e. Đối với việc đào tạo, bồi dưỡng nhưỡng người chuyên hoạt động tôn giáo
Nhà nước tạo điều kiện tối đa cho các tổ chức tôn giáo đào tạo chức sắc, nhà
tu hành trong nước tại các cơ sở đào tạo đã được Nhà nước cho phép. Ngoài ra, các
tôn giáo có thể cử các chức sắc, nhà tu hành đi đào tạo ở nước ngoài nếu thực sự có
nhu cầu. Nhà nước còn cho phép các giảng viên được giảng dạy ở các trường đào
tạo trong nước.
Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo phải đưa các môn học về lịch sử Việt Nam
hay pháp luật Việt Nam vào chính khóa của các trường đào tạo những người
chuyên hoạt động tôn giáo. Với quy định này, Nhà nước đã đưa đường lối, chủ
trương cũng như tôn chỉ mục đích hoạt động của đất nước đến từng tổ chức tôn
giáo, giúp nang cao vai trò, vị thế của đất nước đối với những giáo dân, mặt khác
trực tiếp tuyên truyền chính sách, hay các quy định của pháp luật nhằm giúp các
giáo dân ở các tổ chức tôn giáo thực hiện đúng đường lối – chủ trương của Đảng

và nhà nước đã đề ra.
Đồng thời, những người đứng đầu các trường, trung tâm giáo dục phật giáo
như Giám đốc Học viện Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Viện nghiên cứu Phật
giáo,.. do tổ chức tôn giáo bổ nhiệm sau khi có sự chấp thuận của Trưởng ban tôn
giáo Chính phủ. Quy định một cách cụ thể như vậy bởi những vị trí chủ chốt quan
trọng trong các cơ sở đào tạo tôn giáo là những người sẽ có tiếng nói, có ảnh
5

×