Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

pháp luật về khuyến mại của nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.57 KB, 16 trang )

NỘI DUNG
I. Sơ lược về hoạt khuyến mại.
1.1. Khái niệm khuyến mại.
Luật Thương mại 2005 quy định khái niệm khuyến mại ở Khoản 1 Điều 88: “Khuyến
mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm xúc tiến việc mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng những lợi ích nhất định.” Như
vậy, khuyến mại có thể được biểu hiện là “cách thức, biện pháp thu hút khách hàng thông
qua việc dành lợi ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất như tiền, hàng hóa hay lợi
ích phi vật chất (được cung ứng dịch vụ miễn phí)” nhằm xúc tiến việc mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ.
Dấu hiệu dành cho khách hàng những lợi ích nhất định là dấu hiệu đặc trưng của
hoạt động khuyến mại để phân biệt hoạt động khuyến mại với các hình thức xúc tiến
thương mại với các hình thức xúc tiến thương mại khác.
I.2. Đặc điểm của khuyến mại.
Theo quy đinh của Luật thương mại, khuyến mại có những đặc điểm cơ bản sau:
+ Chủ thể thực hiện hành vi khuyến mại là thương nhân và cá nhân hoạt động
thương mại một cách độc lập thương xuyên. Tổ chức cá nhân kinh doanh có thể tự mình
tổ chức thực hiện việc khuyến mại hoặc có thể kinh doanh dịch vụ khuyến mại bằng cách
thực hiện việc khuyến mại hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác thỏa thuận với thương
nhân đó. Quan hệ này hình thành trên cơ sở hợp đồng dịch vụ khuyến mại giữa thương
nhân có nhu cầu khuyến mại với thương nhân kinh doanh dịch vụ. Pháp luật Việt Nam
không cho phép các văn phòng đại diện cho thương nhân tiến hành khuyến mại hoặc thuê
thương nhân khác thực hiện khuyến mại tại Việt Nam cho thưng nhân mà mình đại diện.
+ Cách thực hiện xúc tiến thương mại: Là dành cho khách hàng những lợi ích nhất
định. Tùy thuộc vào mục tiêu của đợt khuyến mại, tùy thuộc vào trạng thái canh tranh,
phản ứng của đối thủ canh tranh trên thương trường, tùy thuộc điều kiện kinh phí dành
cho khuyến mại, lợi ích mà thương nhân dành cho khách hàng có thể là quà tặng, hàng
mẫu để dùng thử, mua hàng giảm giá… hoặc là lợi ích phi vật chất khác. Khác hàng được
khuyến mại có thể là người tiêu dung hoặc các trung gian phân phối.
1
+ Mục đích của khuyến mại là việc bán hàng và cug ứng dịch vụ. để thực hiện mục


đích này, các đợt khuyến mại có thể hướng tới mục tiêu lôi kéo hành vi mua sắm, sử dụng
dịch vụ của khách hàng, gới thiệu một sản phẩm mới, khích thích trung gian phân phối
chú ý hơn nữa đến hàng hóa của doanh nghiệp, tăng lượng hàng hóa đặt mua… thông qua
đó tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường hàng hóa, dịch vụ.
II. Thực trạng pháp luật về khuyến mại của nước ta hiện nay.
2.1. Các hình thức khuyến mại.
Các hình thức khuyến mại được quy định rất chi tiết trong luật TM năm 2005 và nghị
định số 37/2006 NĐ-CP. Việc các nhà lập pháp đưa ra các hình thức khuyến mại đã giúp
cho thương nhân có nhiều sự lựa chọn hơn khi thực hiện những hoạt động khuyến mại
phục vụ cho mục đích kinh doanh của mình
2.1.1) Đưa hàng mẫu cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải
trả tiền
Hàng mẫu đưa cho khách hàng , dịch vụ mẫu cung ứng cho khách hàng dùng thử phải
là hàng hóa dịch vụ được kinh doanh hợp pháp mà thương nhân đang hoặc sẽ bán, cung
ứng trên thj trường.
Thực hiện hoạt động khuyến mại bằng hình thức phát hành mẫu có thể giúp thương
nhân thăm dò nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng trước khi đưa sản phẩm chính thức ra
thị trường . Bên cạnh đó hình thức này cũng cũng thể hiện được’sự hiểu biết của thương
nhân kinh doanh hàng hóa cung ứng dịch vụ về thị trường. Đó là, đối tượng khách hàng
mà thương nhân nhắm tới khi phát hành hàng mẫu.
Phát hành mẫu còn mang ý nghĩa là thương nhân tạo điều kiện cho khách hàng được
sự dungfjsanr phẩm miễn phí. Đây có thể coi là một cách đê quảng cáo cho sản phẩm
trước khi đưa ra thị trường. Người tiêu dùng có thể nhanh chóng biết đến một sản phẩm
mới qua thời gian dùng thử. Thông qua các chiến dịch phát hàng mẫu , thương nhân thể
kết hợp các hoạt động trưng cầu ý kiến của người tiêu dùng để có được sự cải tiến về chất
lượng sản phẩm trước khi phân phối rộng rãi trên thị trường.
2.1.2) Tặng hàng hóa cho khách hàng cung ứng dịch vụ không thu tiền không kèm
theo việc mua bán hàng hóa cung ứng dịch vụ.
Hình thức tặng hàng hóa cung ứng dịch vụ cho khách hàng không thu tiền cũng
thường được sử dụng khi thương nhân thực hiện hoạt động xúc tiến thương mại. Tặng quà

được thực hiện đối với khách hàng có hành vi mua sắm hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ
của thương nhân. Khi hàng hóa phân phối trên thị tường , đẻ thu hút sự chú ý của khách
2
hàng các thương nhân sẽ đính kèm quà tặng và hàng hóa của họ. Hàng hóa, dịch vụ dùng
là quà tặng có thể là hàng hóa dịch vụ mà thương nhân đang kinh doanh hoặc của thương
nhân khác.
Việc pháp luật cho phép sử dụng hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác để tặng
phát cho phép khuyến khích sự xúc tiến thương mại của các thương nhân nhằm khai thác
lợi ích tối đa. Việc tặng quà trong trường hợp này không có ý nghĩa thúc đẩy hành vi mua
bán, sử dụng dịch vụ, mà thương nhân còn có cơ hội quảng cáo, giới thiệu về hàng hóa
dịch vụ của nhau. Theo quy định của pháp luật, tặng quà được thực hiện đối với khách
hàng có hành vi mua bán hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ của thương nhân nhưng cũng có
thể không gắn liền với hành vi mua bán sử dụng dịch vụ. Hạn mức tối đa về giá trị quà
tặng ,giá trị dịch vụ tặng cho khách hàng không bị hạn chế theo đơn giá hàng hóa, dịch vụ
tức là có thể mua một tặng một hàng hóa cùng loại hoặc mua hai tặng 1 nhưng tổng giá trị
hàng hóa dịch vụ dùng để khuyến mại trong một chương trình khuyến mại ko được vượt
quá 50% tổng giá trị hàng hóa dịch vụ được khuyến mại. Quy định này có mục đích vừa
dảm bảo tính chủ độc cho thương nhân thực hiện khuyến mại vừa ngăn chặn hành vi bán
phá giá để cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc tặng cho khách hàng.
Bên cạnh đó, khi hực hiện hoạt động khuyến mại theo hình thức này các thương nhân
phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa tặc cho khách hàng,dịch vụ khng thu tiền và
phải bảo cho khách hàng đầy đủ thông tin liên quan đến việc sử dụng hàng hóa dịch vụ
đó.
2.1.3) Bán hàng cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, giá cung ứng
dịch vụ trước đó.
Hình thức khuyến mại này còn hiểu biết đến cái tên giảm giá. Giảm giá là hành vi bán
hàng , cung ứng dịch vụ trong thời gian khuyến mại với giá bán thấp hơn giá bán giá cung
ứng dịch vụ đó trước thời gian khuyến mại. Hình thức khuyến mại này thường được các
thương nhân sử dụng bởi vì nó có hiệu quả cao trong việc tác động đến tâm lý người tiêu
dùng hơn ( thích mua sản phẩm rẻ hơn so với giá đã niêm yết trước đó).

Tuy nhiên, nếu các thương nhân quá lạm dụng hình thức này sẽ dẫn đến tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh. Các nhà sản xuất sẽ đua nhau giảm giá sản phẩm của mình
thấp hơn để thu hút sự chú ý của khách hàng. Do đó, để ngăn ngừa hành vi này, việc giảm
giá phải tuân thủ các quy định về hạn mức tối da giá trị của hàng hóa. Theo quy định tại
điều 6 và Khoản 1 Điều 9 NĐ số 37/ NĐ-CP/2006 thì mức giảm hàng hóa, dịch vụ được
khuyến mại không được vượt quá 50%giá của hàng hóa dịch vụ đó trước thời gian khuyến
mại. Bên cạnh đó tại Khoản 2 Điều 9 của NĐ này pháp luật còn quy định nếu hàng hóa ,
dịch vụ thuộc diện nhà nước quản lý thì việc khuyến mại theo hình thức này được thực
3
hiện theo quy định của chính phủ cụ thể như: không được giảm giá đối với hàng hóa, dịch
vụ do nhà nước quy định giá cụ thể, không được giảm giá xuống thấp hơn mức tối thiểu
đối với hàng hóa dịch vụ nhà nước quy định khung giá hoặc giá tối thiểu.
Về thời gian thực hiện chương trình giảm giá được quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều
9 NĐ số 37/NĐ-CP/2006, tho đó thì ; Tổng thời gian thực hiện chương trình khuyến mại
bằng cách giảm giá đối với mọt loại nhãn hiêu hàng hóa dịch vụ không được vượt quá 90
ngày trong 1 năm và một trương trình khuyến mại kông được vượt quá 45 ngày.
Có thể thấy việc pháp luật quy định khá chặt chẽ về hình thức nay là hợp lý. Bởi lẽ
đây là hình thức khuyến mại dễ dàng thực hiện các thương nhân có thể áp dụng nó với
ngay hàng hóa của mình tại các đại lý.
Do đó, không thể tránh khỏi việc một số thương nhân lựi dụng giảm giá để bán phá
giá hàng hóa , dịch vụ tranh dành thị phần của các thương nhân khác. Pháp luật càng có
những quy định cụ thể về hạn mức tối đa, thời gian của trương trình giảm giá thì càng
tránh được nguy cơ của việc cạnh tranh không lành mạnh , gây ảnh hưởng xấu đến việc
kinh doanh của thương nhân khác.
2.1.4) Bán hàng cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch
vụ để khách hàng được hưởng một hoặc một số lợi ích nhất định.
Theo hình thức khuyến mại này thì khách hàng khi mua hàng hóa , sử dụng dịch vụ
của thương nhân sẽ được phát kèm phiếu mua hàng , phiếu sử dụng dịch vụ và khách hàng
sẽ được hưởng những lợi ích nhất định từ những phương thức đó. Phiếu mua hàng thường
có ý nghĩa giảm giá hoặc có mệnh giá nhất sđịnh để thanh toán cho những lần mua sau

trong hệ thống bán hàng của thương nhân. Phiếu sử dụng dịch vụ có thể cho phép sử dụng
dịch vụ miễn phí , theo điều kiện nhà cung ứng dịch vụ đưa ra. Với hình thức khuyến
mại nay các thương nhân có thể dành cho khách hàng của mình những lợi ích nhất định
vào lần sau khi họ đến mua hàng.
Hình thức khuyến mại này cũng được pháp luật quy định chi tiết về giá trị vật chất
của piếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ . Giá trị tối đa của phiếu mua hàng ,phiếu sd
dịch vụ được tặng kèm theo hàng hóa, dịch vụ trong thời gian khuyến mại không được
vượt quá 50%giá của hàng hóa dịch vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại.
ngoài ra, khi sử dụng hình thức khuyến mại này các thương nhân còn phải thông báo công
khai các thông tin liên quan như: giá trị bằng tiền hoặc lợi ích cụ thể mà khách hàng được
hưởng tờ phiếu mua hàng, phiếu sử dụng dịch vụ , địa điểm bán hàng ,cung ứng dịch vụ
và các loại hàng hóa dịch vụ mà khách hàng có thể nhận được tờ phiếu mua hàng , phiếu
sử dụng dịch vụ đó.
4
2.1.5) Bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàngđể
chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố.
Những hình thức khuyến mại ở trên có thể mang lại lợi ích vật chất trực tiếp dễ dàng
nhận thấy trước mắt cho người tiêu dùng như được tặng quà hay được mua với giá thấp
hơn của sản phẩm trước chương trình khuyến mại. Hình thức bán hàng , cung ứng dịch vụ
có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng tì không như vậy, Thông qua việc mua hàng hóa
sử dụng dịch vụ khách hàng có cơ hội tham gia một cuộc thi do thương nhân tổ chức. Khi
tham gia vào cuộc thi, khách hàng có cơ hội nhận được giải thưởng . Mục đích của thương
nhân khi áp dụng hình thức này là thu hút sự hiếu kỳ của khách hàng đối với sản phẩm
của mình từ đó đánh giá mức độ quan tâm của họ đối với hàng hóa dịch vụ đó.
Khi thực hiện khuyến mại theo hình thức này các thương nhân phải đảm bảo tổ chức
cuộc thi và mở thưởng công khai có sự chứng kiến của đại diện khách hàng và phải thông
báo cho sở Thương mại nơi tổ chức thi, mở thưởng ; việc giao giải thưởng đã công bố .
Luật Thương mại 2005 cũng quy định về nội dung của phiếu dự thi. Theo đó thì phiếu ự
thi phải thông báo công khai các thông tin như : tên của hoạt động khuyến mại, thời gian
khuyến mại, giá bán hàng hóa , giá cung ứng dịch vụ khuyến mại.

2.1.6) Bán hàng cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang
tính may rủi.
Khi khách hàng mua hàng hóa, dịch vụ sẽ được tham gia vào một chương trình do
thương nhân tổ chức và việc trúng thưởng được chọn trên sự may mắn của người tham dự.
hình thức khuyến mại này có thể gặp trong thực tế dưới một số dạng, ví dụ như : bốc
thăm, cào số trúng thưởng, bóc, mở sản phẩm để nhận được giải thưởng.. Khuyến mại
bằng cách đưa ra các chương trình mang tính may rủi cũng tạo nên sự hấp dẫn đối với
khách hàng, do tâm lý muốn thử vận may của đại đa số người tiêu dùng.
Đây cũng là hình thức khuyến mại dễ xảy ra tiêu cực nhất trong số cá hình thức
khuyến mại mà pháp luật quy định. Một số cơ sở sản xuất, kinh doanh có thể lạm dụng
hình thức này để lừa dối khách hàng. Do đó, việc pháp luật đưa ra các quy định chặt chẽ
đối với hình thức bán hàng cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình
mang tính may rủi cũng nhằm mục đích bảo vệ tối đa lợi ích người tiêu dùng. Chương
trình khuyến mại mang tính may rủi phải được tổ chức công khai, theo thể lệ đã công bố,
có sự chứng kiến của khách hàng . nếu trong trường hợp giá trị giải thưởng từ 100triệu
đồng trở lên , thương nhân phải thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước về thương mại
có thẩm quyền. Đó là sở thương mại nơi tổ chức khuyến mại.
5
Đối với chương trình khuyến mại mang tính may rủi có phát hành vé số dự thưởng
phải tuân theo các quy định của pháp luật
Pháp luật cũng quy định tổng thời gian thực hiện khuyến mại đối với một loại nhãn
hiệu hàng hóa, dịch vụ không được vượt quá 180 ngày trong 1 năm , một chương trình
khuyến mại không được vượt quá 90 ngày.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn trao thưởng , giải thưởng không có
người trúng thưởng của chương trình khuyến mại mang tính may rủi phải trích nộp
50%giá trị đã công bố và ngân sách nhà nước
2.1.7) Tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên theo đó việc tặng thưởng
cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc giá trị hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng
thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng phiếu ghi nhận sự mua hàng
hóa,dịch vụ hoặc các hình thức khác.

Thương nhân thực hiện khuyến mại theo hình thức này phải tuân thủ quy định về
thông báo các thông tin liên quan tại Điều 97 luật TM có trách nhiệm xác nhận kịp thời
chính xác sự tham gia của khách hàng vào chương trình khách hàng thường xuyên.
Thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận việc mua hàng hóa, dịch vụ phải có đầy đủ cá nội
dung chủ yếu sau:
- Tên của thẻ hoặc phiếu
- Điều kiện và cách thức ghi nhận sự tham gia của khách hàng vào chương trình
khách hàng thường xuyên, việc mua bán hàng hóa, dịch vụ của khách hàng. Trong trường
hợp không thể ghi đầy đủ các nội dung nêu tại điểm này thì phải cung cấp đầy đủ, kịp thời
các nội dung đó cho khách hàng bắt đầu tham gia chương trình.
Ngoài ra, thương nhân phải thông báo công khai thông tin về các chi phí khác mà
khách hàng phải tự chịu khi tham gia vào các chương trình khách hàng thường xuyên
được tổ chức.
2.1.8. Tổ chức cho khách hàng tham gia các chương trình văn hóa nghệ thuật, giải
trí và các sự kiện khác vì mục đích khuyến mại.
Trong bối cảnh cá mối quan hệ maketting trên thị trường ngày càng phức tạp, việc
thường xuyên tổ chức các chương trình khuyến khích dành cho khách hàng là một công
cụ quảng bá khá hiệu quả. Thương nhân cần thể hiện sự quan tâm đặc biệt đối với những
khách hàng thường xuyên tới mua hàng. Bởi vì, đây là lượng khách hàng thực sự tiềm
năng và có khả năng mang lại nhiều lợi nhuận cho hạt động kinh doanh. Các chương trình
văn hóa nghệ thuật, giải trí là cách mà thương nhân dành sự ưu đãi cho những khách hàng
này. Mục tiêu chính của hình thức này là mang chương trình văn hóa nghệ thuật đến cho
6

×