Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Các giải pháp phòng, chống tệ nạn nghiện ma túy trong thanh niên Hà Nội ở giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1019.99 KB, 116 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





ĐOÀN THỊ KIM HOA





CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG TỆ NẠN
NGHIỆN MA TUÝ TRONG THANH NIÊN HÀ NỘI
Ở GIAI ĐOẠN HIỆN NAY




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC













HÀ NỘI - 2005
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





ĐOÀN THỊ KIM HOA




CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG TỆ NẠN
NGHIỆN MA TUÝ TRONG THANH NIÊN HÀ NỘI
Ở GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 5.01.02


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ XUÂN THẢO








HÀ NỘI - 2005

MỤC LỤC
Mở đầu
Chương 1. Thanh niên nguồn lực phát triển của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước
1.1. Nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
1.2. Thanh niên một trong những nguồn lực quan trọng của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1

7

7

19
Chương 2. Thực trạng công tác phòng, chống tệ nạn nghiện ma tuý
trong thanh niên Hà Nội.
2.1. Tình hình kinh tế - xã hội và tình hình thanh niên Hà Nội.
2.2. Thực trạng tệ nạn nghiện ma tuý trong thanh niên Hà Nội.
2.3. Những kết quả, hạn chế và tồn tại của công tác phòng,
chống tệ nạn nghiện ma tuý trong thanh niên Hà Nội

37

37
43

55
Chương 3. Các giải pháp phòng, chống tệ nạn nghiện ma tuý trong
thanh niên Hà Nội.
3.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng, Nhà nước và Thành phố
Hà Nội về công tác phòng chống tệ nạn ma tuý.
3.2. Các giải pháp chủ yếu về phòng, chống tệ nạn nghiện ma
tuý trong thanh niên Hà Nội.
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị.

73

73

78
93
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
102
104




1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn và hùng hậu, là nguồn lực quan trọng

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong công
cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thanh
niên và công tác thanh niên có vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: "Sự nghiệp
đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng
trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đ-
ường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tùy thuộc vào lực lượng thanh niên, vào
việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên, công tác thanh niên là vấn đề sống còn
của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng
Việt Nam". Do vậy việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thanh niên là một trong
những định hướng mang tính chiến lược của Đảng nhằm phát huy sức mạnh nguồn
lực thanh niên, một trong những nguồn lực con người quan trọng và quý giá nhất.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những
yêu cầu bức bách và đòi hỏi chúng ta phải đào tạo, bồi dưỡng một thế hệ
thanh niên có đạo đức, có tri thức, có sức khỏe, giàu ước mơ hoài bão, có lý t-
ưởng cao đẹp, kế tục trung thành, xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng,
của dân tộc. Song hiện nay, thanh niên đang đứng trước những khó khăn,
thách thức, những tác động tiêu cực của các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn
ma tuý. Tệ nạn ma túy đang tấn công vào lớp trẻ, trở thành hiểm họa không
chỉ cho một dân tộc, một quốc gia mà còn là hiểm họa chung của toàn nhân
loại.
Việt nam không nằm ngoài tình trạng trên. Từ những năm 90 trở lại
đây, tệ nạn ma túy diễn ra hết sức phức tạp, nghiêm trọng cả về quy mô, mức
độ và tính chất. Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc

2
lần thứ VIII Đảng ta chỉ rõ: "Các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy và mại
dâm đang lan rộng". Tại văn kiện Đại hội thành phố lần thứ XIII khi đề cập
tới những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay cũng chỉ rõ: "Tệ nạn ma túy, mại
dâm, mê tín có chiều hướng gia tăng".

Hồi chuông báo động về sự phát triển của tệ nạn nghiện ma túy trong
thanh niên đang vang lên, theo số liệu điều tra cả nước hiện có 142.000 người
nghiện có hồ sơ quản lý và con số đó ở Hà Nội là 15.697 người, trong đó
thanh niên luôn chiếm tỷ lệ cao (70% - 80%). Tệ nạn nghiện ma túy đã và
đang đánh vào tính ưu việt của chế độ xã hội ta, gây ra những hậu quả nghiêm
trọng trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Ma túy đang hàng ngày, hàng giờ
làm tha hóa, băng hoại đạo đức, nhân cách, lối sống, đến thể lực, sức khỏe của
một bộ phận thanh niên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nguồn nhân
lực trẻ. Tệ nạn nghiện ma túy trong thanh niên đang là vấn đề cấp bách, nóng
bỏng, là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của cả nước nói chung và
của Thành phố Hà Nội nói riêng.
Đứng trước thực trạng trên, từ nhiều năm nay, Đảng, Nhà nước và
Thành phố Hà Nội đã có nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm đẩy
lùi và bài trừ tệ nạn ma túy nói chung và tệ nạn nghiện ma túy trong thanh
niên nói riêng. Từ năm 2000 đến nay, ở Thành phố Hà Nội nhiều băng nhóm
buôn lậu ma túy đã bị triệt phá, tòa án nhân dân các cấp đã xét xử hàng ngàn
vụ, với hàng ngàn tên tội phạm ma túy đã bị bắt và lĩnh án tử hình. Trong 5
năm qua, Thành phố đã tổ chức cai nghiện tập trung tại các trung tâm cho
hàng nghìn lượt người nghiện
Mặc dù chúng ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, nhưng tệ nạn nghiện ma
túy, đặc biệt trong tầng lớp thanh niên không giảm mà đang phát triển với tốc
độ đáng báo động. Tỷ lệ tái nghiện trong thanh niên rất cao, số thanh niên đi
cai nghiện thành công chỉ vào khoảng 10 - 20%.

3
Vì sao chúng ta càng chống, tệ nạn nghiện ma túy trong thanh niên lại
càng có chiều hướng gia tăng với quy mô, mức độ, tính chất ngày càng phức
tạp? Một trong những nguyên nhân hết sức cơ bản đó là, do chúng ta còn
thiếu các giải pháp đồng bộ về phòng, chống tệ nạn nghiện ma túy trong thanh
niên hiện nay.

Bởi vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp đồng bộ để đấu tranh
loại bỏ ma túy ra khỏi đời sống của thanh niên, nhằm góp phần xây dựng
nguồn nhân lực thanh niên có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thủ đô và đất nước, là một trong những
nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, khi ma túy trở thành tệ nạn xã hội làm tha
hóa, băng hoại đạo đức, lối sống và sức khỏe của một bộ phận thanh niên, đã
có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này; cụ thể có một số đề tài và tổng luận
sau:
- Năm 1995, Trung ương đoàn Thanh niên Cộng sản đã chỉ đạo xây
dựng "Tổng luận phân tích về phòng chống lạm dụng ma túy trong thanh niên
và những giải pháp của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tham gia phòng chống ma
túy trong thanh niên"
- Đề tài cấp bộ KTN.95-05 "Những giải pháp thực tiễn trong việc ngăn
chặn tệ nạn mại dâm, ma túy trong thanh thiếu niên" do Thạc sĩ Nguyễn Thị
Bích Điểm (Viện nghiên cứu Thanh niên) làm chủ nhiệm.
- Đề tài cấp bộ KTN.97-04 "Vai trò của tổ chức Đoàn, Hội, Đội trong việc
tham gia phòng chống các tệ nạn xã hội trên địa bàn dân cư" do Tiến sĩ Nguyễn
Thị Minh Tâm (Viện nghiên cứu Thanh niên) làm chủ nhiệm.

4
- Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội - Đề tài khoa học "Tình
hình lạm dụng ma túy trong sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, THCN
- một số biện pháp phòng ngừa ngăn chặn."
- Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội - Đề tài khoa học "Nghiên cứu các
biện pháp giáo dục phòng chống ma túy trong các trường học"
- Nguyễn Vi Hùng "Phương hướng, chính sách, giải pháp đối với công
tác phòng chống ma túy và chữa trị cho người nghiện ma túy" (chuyên đề
khoa học)

Những nghiên cứu trên ít nhiều đã đề cập và đưa ra các giải pháp phòng
chống tệ nạn ma túy trong thanh, thiếu niên. Nhìn chung các đề tài đều nghiên cứu
ở góc độ rộng đó là tệ nạn ma túy, nó bao gồm cả tình trạng nghiện ma tuý, tội
phạm về ma tuý và các hành vi trái phép khác về ma túy; ở đề tài này chỉ đề cập và
đi sâu vào nghiên cứu, đề xuất các giải pháp phòng, chống tệ nạn nghiện ma túy
trong thanh niên Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Nghiên cứu về con người, nguồn lực con người và thực trạng công tác
phòng chống tệ nạn ma tuý và đề ra các giải pháp chủ yếu để phòng chống tệ
nạn nghiên ma tuýtrong thanh niên Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên đề tài có nhiệm vụ:
- Hệ thống hoá có lựa chọn và phân tích một số vấn đề chung về vai trò
của nguồn lực con người và nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tệ nạn nghiện ma túy trong thanh niên và
công tác phòng chống tệ nạn nghiện ma túy trong thanh niên Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn
nghiện ma túy trong thanh niên Hà Nội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn

5
4.1. Đối tượng:
Bao gồm các giải pháp phòng, chống tệ nạn nghiện ma túy trong thanh
niên.
4.2. Phạm vi:
Luận văn chủ yếu nghiên cứu thực trạng tình hình, nguyên nhân, hậu
quả tệ nạn nghiện ma túy trong thanh niên trên địa bàn Hà Nội và đặt nó trong
mối quan hệ với thanh niên Việt Nam nói chung ở giai đoạn hiện nay (từ năm
2000 đến 2004).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và của Thành phố Hà Nội về vấn đề nguồn nhân lực và công tác phòng,
chống tệ nạn ma túy hiện nay.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp
các thông tin thứ cấp và phương pháp khảo sát, so sánh, đánh giá.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của nguồn nhân lực nói chung
và nguồn lực thanh niên nói riêng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
- Đánh giá thực trạng tình hình, những nguyên nhân và hậu quả của tệ
nạn nghiện ma túy trong thanh niên Hà Nội giai đoạn hiện nay và bước đầu đề
xuất những giải pháp nhằm góp phần phòng, chống tệ nạn nghiện ma túy
trong thanh niên.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác
phòng chống tệ nạn xã hội, xây dựng kế hoạch phòng, chống tệ nạn ma túy trong

6
thanh niên Hà Nội; hoặc có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác tuyên truyền về
phòng, chống tệ nạn ma túy trong thanh niên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tư liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết
Chương 1: Thanh niên - nguồn lực phát triển của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chương 2: Thực trạng công tác phòng, chống tệ nạn nghiện ma túy
trong thanh niên Hà Nội.

Chương 3: Các giải pháp phòng, chống tệ nạn nghiện ma tuý trong
thanh niên Hà Nội.
























7









Chương 1
THANH NIÊN - NGUỒN LỰC PHÁT TRIỂN
CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.1. Nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Con người và nguồn lực con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Vấn đề con người:
Con người luôn là vấn đề trung tâm của mọi thời đại. Từ buổi bình
minh của lịch sử loài người cho đến nay, trong đấu tranh ý thức hệ, vấn đề
con người luôn là tâm điểm. Con người đã được rất nhiều trường phái triết
học, nhiều công trình, nhiều nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm, tuy nhiên
con người là gì, hiện nay chưa có một định nghĩa nào hoàn tất, đầy đủ và thỏa
mãn với mọi người. Rút Xô trong "Khế ước xã hội" đã cho rằng: Con người
đã khám phá cho mình biết bao nhiêu tri thức về tự nhiên, xã hội, mỗi lần
khám phá như vậy con người được nâng lên. Nhưng có một tri thức con người
tỏ ra kém cỏi nhất đó chính là những tri thức về chính bản thân mình. Vì vậy,
có thể khẳng định rằng tìm hiểu về con người là quá trình lâu dài, là vấn đề
xưa nhất, đồng thời là vấn đề luôn luôn mới, chừng nào loài người còn tồn tại,
vấn đề con người vẫn là đối tượng nghiên cứu của nhiều khoa học.

8
Trải qua các thời kỳ cổ đại, trung đại những lý thuyết về con người đã
từng bước được đề cập và xuất hiện, đã làm sáng tỏ được nhiều yếu tố thuộc
về bản chất con người, đề cập đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên,

với xã hội, song tất cả đều chưa tiếp cận đến chân lý khoa học.
Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, thời kỳ giai cấp tư sản còn đóng vai
trò cách mạng, tiến bộ, nhiều thành tựu khoa học mới về con người đã xuất
hiện đưa lịch sử tự nhận thức của con người sang một giai đoạn mới. Nhưng
khi bước sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa có nhiều lý thuyết xuất hiện mâu
thuẫn với lý tưởng tốt đẹp của loài người và trái ngược với chủ nghĩa nhân
văn tư sản thời kỳ đầu. Các lý thuyết đó đã che đậy một sự thật đã trở thành
phổ biến đó là đông đảo những người lao động bị đẩy vào tình trạng nghèo
khổ, bị áp bức bóc lột.
Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, Chủ nghĩa Mác xuất hiện trên cơ
sở sự chín muồi của những điều kiện vật chất, tinh thần do loài người tạo ra,
đã dẫn đến sự biến đổi cách mạng trong nhận thức của loài người về chính
bản thân mình.
Triết học Mác ra đời đã khắc phục "2 cái quên" lớn nhất trong lịch sử t-
ư tưởng từ xưa đến nay trong quan niệm về con người:
1. Quên mất điểm xuất phát là hiện thực khách quan (đó là chủ nghĩa duy
tâm, coi phạm trù con người là ý niệm, khái niệm, biểu tượng ).
2. Quên mất vai trò của chủ thể là con người (đó là chủ nghĩa duy vật
siêu hình, điển hình là Phoi-ơ-Bắc).
Triết học Mác thống nhất hoàn chỉnh: Thế giới quan phương pháp luận
và hệ tư tưởng. Phạm trù "con người hiện thực" của triết học Mác là nghiên
cứu con người với tư cách là một chỉnh thể, con người được nghiên cứu cả
bản thể và nhận thức.

9
Khi nghiên cứu về con người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng các khái
niệm “con người là thực thể tự nhiên có tính người”, “con người là một sinh
vật xã hội ”, “là một sinh vật có tính loài”, “con người bẩm sinh đã là sinh vật
có tính xã hội” thể hiện tư tưởng coi con người là một chỉnh thể thống nhất
giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội. Sau này ở giai đoạn chín muồi về lý

luận, các tác phẩm của Ph.Ăngghen tiếp tục khẳng định và vạch ra một cách
toàn diện những quan điểm duy vật của mình: Tự nhiên là cái có trước, con
người là sản phẩm của quá trình tiến hoá tự nhiên. C.Mác đã viết: Cũng như
sự tồn tại của con người là kết quả của một quá trình trước đó mà cuộc sống
hữu cơ đã đi qua. Chỉ đến một giai đoạn nào đó của quá trình này, con người
mới trở thành con người. Ph.Ăngghen dựa theo những tư liệu đã có chứng
minh con người là kết quả tất nhiên của quá trình tiến hoá “Con người ta lúc
ban đầu bước ra khỏi loài động vật (theo nghĩa hẹp hơn của từ này) như thế
nào thì họ cũng bước vào lịch sử như thế ấy" [22, tr.251-252].
Con người bước vào lịch sử trong những điều kiện cho sự tồn tại không
có sẵn như ở động vật, con người phải lao động để sáng tạo ra. Như vậy, bản
thân cái sự kiện là con người từ động vật mà ra cũng quyết định con người
không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật. Ở
con người cái sinh vật đã được cải tạo, nhưng không hề bị xoá bỏ, nó vẫn tác
động tới toàn bộ đời sống con người, nếu con người không làm chủ, không ý
thức, không kiểm soát được thì cái bản năng sẽ trỗi dậy. Quá trình người hoá
là quá trình duy nhất diễn ra trong sự tương tác giữa yếu tố sinh vật và yếu tố
xã hội theo quan điểm mác xít, cho phép chúng ta đánh giá đúng mặt tích cực
và tiêu cực của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội của con người. Thừa nhận
yếu tố sinh vật của con người, nghĩa là thừa nhận những quy luật sinh học
chung của con người, những đặc điểm về cơ cấu và chức năng của cơ thể, đời
sống sinh lý, đặc tính di truyền các nhân tố này ảnh hưởng đến năng lực,
phẩm chất của con người. Yếu tố sinh vật của con người chính là sự chuẩn bị

10
về một chương trình di truyền sinh học tất yếu tiếp thu hình thái xã hội của
vận động vật chất. Khác với con vật, con người ngoài chương trình di truyền
sinh học còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội giữa các thế hệ. Đó là văn
hoá theo các giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra. Nói đến
con người là nói đến con người có ý thức và hành vi lao động sản xuất.

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, con người là một thực thể xã hội, mang bản
chất xã hội, đồng thời là một thực thể tự nhiên, một cấu trúc sinh học. Do đó, để đưa
con người từng bước vươn tới sự hoàn thiện, cần đồng thời khám phá sự tác động
của các quy luật xã hội và các quy luật tự nhiên trong nó. Mức độ giải phóng con
người không chỉ tuỳ thuộc vào kết quả của công cuộc cải tạo các mối quan hệ xã
hội để mỗi con người đựơc sống trong môi trường xã hội tốt đẹp, giàu tính người
mà còn tuỳ thuộc vào kết quả của việc phát triển lực lượng sản xuất, đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng kinh tế để mức sống vật chất của con người ngày càng được nâng
cao.
Khi đề cập đến mặt tự nhiên và mặt xã hội của con người, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng, mặt tự nhiên và mặt xã hội trong con người không tách
rời, đối lập nhau, ngược lại, hai mặt đó thống nhất biện chứng và tác động qua
lại lẫn nhau. Chịu sự tác động của các mặt xã hội, mặt tự nhiên trong con
người được nâng lên trên trình độ các động vật khác. Chính vì thế, khác với
quan niệm thô thiển từ chỗ chỉ coi con người là một loài động vật giống như
mọi loài động vật hạ đẳng khác đến chỗ bênh vực cho những hành vi thú tính
của những kẻ đã mất tính người, C.Mác quan niệm: con người là một thực thể
tự nhiên loại đặc biệt, một thực thể tự nhiên đã nhân loại hoá.
Bản chất con người là gì? C.Mác viết: “Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [20, tr.11]. Con người
nhờ có lao động sản xuất để tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại của
mình và xã hội, nhờ đó con người được giải phóng khỏi tự nhiên, tách khỏi
loài vật và xây dựng cho mình một môi trường xã hội. Đây là điểm để phân

11
biệt con người với động vật, hay có thể nói chính lao động đã sáng tạo ra bản
thân con người. Như vậy, bản chất con người chỉ có thể được hình thành,
được nhận thức thông qua các quan hệ xã hội của nó. Khi nói bản chất con
người là tổng hoà các quan hệ xã hội, nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội vật
chất - tinh thần đều góp phần vào việc hình thành bản chất con người chứ

không riêng một quan hệ nào. Trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò quyết
định nhất. Tất nhiên khi đề cập đến vấn đề này chúng ta phải thấy mối quan
hệ tác động lẫn nhau giữa môi trường xã hội với con người và ngược lại, đây
là mối quan hệ nhân quả có quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Trong
mối quan hệ này C.Mác cho rằng: Bản thân xã hội sản xuất ra con người với
tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế [21,
tr.169].
Con người là vấn đề hết sức phức tạp, có nhiều quan niệm khác nhau về
con người. Các quan điểm mác xít là tinh thần cốt lõi của phương pháp tiếp
cận lịch sử - xã hội, hoạt động - nhân cách đối với việc nghiên cứu con người.
Chúng ta có thể tiếp thu các quan niệm trên, đặt toàn bộ cấu trúc người trong
mối quan hệ giữa bản thân với bản thân và một loạt các quan hệ khác: mình
với người khác, bản thân với xã hội, với tự nhiên và với vũ trụ
Trên tinh thần đó, tôi tán thành quan niệm về con người của một viện sĩ
người Nga - Phrôlốp: “Con người là chủ thể của quá trình phát triển xã hội -
lịch sử, của nền văn hoá vật chất tinh thần trên trái đất; đó là một thực thể
sinh vật - xã hội, gắn liền một cách di truyền với những hình thức khác của sự
sống mà con người đã tự giải thoát khỏi đấy nhờ có khả năng sản xuất ra đ-
ược các dụng cụ và nhờ có một ngôn ngữ nói và một ý thức” [15, tr.112].
Quan niệm này đã khái quát được một cách bản chất nhất về quan
niệm con người theo quan điểm mác xít: khẳng định sự thống nhất cái sinh
vật – cái xã hội của con người; bản chất con người mang tính xã hội - lịch sử.
Con người là chủ thể của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức; lao

12
động sản xuất, ý thức, ngôn ngữ là điểm cơ bản để phân biệt giữa con người
và con vật.
Tóm lại: Khi xem xét con người trên quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, chúng ta cần chú ý tới những vấn đề có tính chất phương pháp luận
sau:

- Nghiên cứu con người phải xem xét mối quan hệ giữa cái sinh học và
cái xã hội trong phạm trù con người. Con người là một thực thể có tính chất
song trùng một mặt là sinh học, một mặt là xã hội. Chúng ta chỉ có thể tách
tính sinh học, tính xã hội trong nghiên cứu, trong thực tiễn không thể tách rời
hai mặt đó được, trong cái sinh học của con người có chứa đựng cái xã hội,
trong cái xã hội của con người luôn phải dựa trên nền tảng của cái sinh học,
mất đi cái sinh học không có con người hiện thực, mất đi cái xã hội là hạ thấp
con người chỉ còn là cái sinh vật.
- Nghiên cứu con người cần phải xuất phát từ chính những con người
hiện thực trong lịch sử phát triển của nó, nghĩa là từ những con người hành
động tồn tại thực sự của một xã hội, của một giai đoạn lịch sử nhất định với
tất cả những mối quan hệ tự nhiên, xã hội hiện hữu của nó.
- Con người là một thực thể tự nhiên - xã hội. Trong quan niệm của Mác,
mặt tự nhiên của con người không chỉ giới hạn trong sự xem xét nguồn gốc của loài
người, mà còn ở sự tồn tại cá thể, tồn tại loài của con người.
- Con người phải được nghiên cứu, phân tích trong những mối quan hệ
xã hội cụ thể. Trong số những quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người thì
Mác đặc biệt chú ý đến những quan hệ kinh tế - cái quan hệ, suy cho cùng,
quyết định mọi quan hệ xã hội khác.
- Yếu tố quyết định tính tích cực của con người trong các hoạt động của
nó, tuân theo nguyên tắc duy vật lịch sử - đó là nguyên tắc tồn tại xã hội của
con người quyết định ý thức của họ. Vì vậy, phải chú ý đến vai trò của hoạt

13
động thực tiễn trong việc tạo lập sự phù hợp giữa những biến đổi hoàn cảnh
với biến đổi ý thức của con người. Điểm này có thể được xem là tư tưởng
quan trọng cần phải chú ý, đặc biệt trong công tác giáo dục, bởi vì chính thực
tiễn đấu tranh cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội là môi trường tốt nhất để hình
thành năng lực, nhân cách con người phù hợp với thời đại.
- Nguồn lực con người (hay nhân tố con người)

Khái niệm “nguồn lực con người” có phạm vi bao quát rộng, đó là tổng
thể những yếu tố thuộc về thể chất và tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ
tri thức, vị thế xã hội tạo thành năng lực của con người, năng lực đó khi
được sử dụng, phát huy sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, bao
gồm một số tiêu chí sau:.
- Là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần,
sức khoẻ, trí tuệ, năng lực và phẩm chất.
- Là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng thể hiện
sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên, cải tạo xã
hội.
- Đó là sự kết hợp thể lực và trí lực cho thấy khả năng sáng tạo, chất
lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người.
- Nguồn lực đó còn là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo,
có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục
tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại.
Theo ý nghĩa đó, chúng ta có thể hiểu, nguồn lực con người là tổng hoà
các tiềm năng của con người và tổ chức xã hội có thể khai thác và thu hút vào
quá trình phát triển xã hội.
Nguồn lực con người, được hiểu đó là quá trình đầu tư cho sự phát triển và
nó được so sánh trong tương quan với các nguồn lực khác của phát triển bao gồm:
nguồn lực thiên nhiên (vị trí địa lý, môi trường, tài nguyên, khoáng sản); nguồn lực

14
về vốn, tín dụng; khoa học và công nghệ Giá trị và ý nghĩa của nguồn lực con
người chỉ được hiểu một cách hợp lý khi nó gắn liền và thông qua các nguồn lực
khác theo hai phương diện:
+ Những nguồn lực khác là tiền đề cho sự phát triển nguồn lực con
người, là điều kiện phương tiện của nguồn lực con người.
+ Là nhân tố hoạt động sống, có khả năng tái sinh và tiềm năng vô tận
của trí tuệ tinh thần con người.

Thực tế cho chúng ta thấy, vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên là những nhân
tố tự nhiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, nhưng chúng
hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng khai thác của con người. Ở một số nước, điều
kiện tự nhiên thuận lợi là nhân tố làm cho đất nước giàu mạnh; nhưng ở một số
nước khác, điều kiện tự nhiên cũng tương tự, hoặc còn thuận lợi hơn, nhưng đất
nước lại ngày một nghèo nàn kiệt quệ. Bởi trường hợp thứ nhất: con người tái tạo
thiên nhiên; còn trường hợp thứ hai: con người tước đoạt thiên nhiên biến nó thành
hoang mạc.
Vốn ban đầu - tiền tệ - là nhân tố quan trọng cho sự phát triển của bất
cứ nước nào. Nhưng C.Mác đã rất có lý khi cho rằng, tiền tệ chỉ trở thành tư
bản thông qua sức lao động của công nhân, vì nhờ vậy, nó tạo ra giá trị lớn
hơn giá trị ban đầu. Trong thời đại “mở cửa”, nhiều nước có thể thu hút vốn
từ nước ngoài, nhưng vốn ấy chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực khi được
con người sử dụng vốn một cách hợp lý để phát triển nền sản xuất trong nước.
Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định, nguồn lực con người là một trong những
nguồn lực quan trọng, quý giá nhất, là nguồn lực đóng vai trò quyết định đối với sự
phát triển nhanh, bền vững của mỗi quốc gia, dân tộc.
1.1.2. Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
- Vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá:

15
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) là bước đi tất yếu trong
tiến trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc nhằm vươn tới văn minh hiện
đại. Chính vì vậy mà ngya từ những năm 1960 Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng Lao động Việt Nam (ngay nay là Đảng Cộng sản việt Nam)
đã đề ra đường lối và coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt
trong cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó đến nay qua các
kỳ Đại hội, Đảng ta đều không ngừng phát triển, nâng cao nhận thức và cụ thể
hoá đường lố công nghiệp hoá. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần

thứ 7 khoá VII, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức văn
minh nhân loại về công nghiệp hoá vào điều kiện cụ thể ở nước ta trong thời
kỳ phát triển mới , Hội nghị đã khẳng định công nghiệp hoá hiện nay ở nước
ta phải gắn liền với hiện đại hoá và đưa ra khái niệm: Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Như vậy, đối với đất nước ta, CNH, HĐH là một quá trình biến đổi
toàn diện, từ tư duy phát triển, đến việc biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội,
từ kết cấu hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng. Có thể nói, CNH, HĐH là một
cuộc cách mạng căn bản và triệt để về mọi mặt, nhằm xây dựng đất nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực l-
ượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định từ nay đến năm 2020 ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

16
Đặc điểm chung quan trọng nhất và quyết định nhất của CNH, HĐH là
sự thay thế kỹ thuật thủ công bằng máy móc trên quy mô toàn bộ nền kinh tế
quốc dân; đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá, tạo
ra bước ngoặt trong việc nâng cao năng suất lao động xã hội, biến đổi một xã
hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp tiên tiến. Trong giai
đoạn hiện nay CNH, HĐH còn bao gồm cả những yếu tố của một xã hội tin
học, hậu công nghiệp. Như vậy, thực chất của CNH là sự phát triển công
nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (cả công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ) từ trình độ thấp lên trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một quá trình phát triển từ
trình độ thấp lên trình độ cao của toàn xã hội với 3 yếu tố quan trọng nhất là:
Văn hoá (văn hoá ở đây hiểu theo nghĩa hẹp, là bao gồm bản sắc dân tộc; lịch
sử dựng nước và phát triển; hệ thống các phong tục, tập quán xã hội; truyền
thống của hoạt động sản xuất và kinh doanh v.v.); môi trường cho sự phát
triển (bao gồm niềm tin của nhân dân; trình độ dân trí; hệ thống kết cấu hạ
tầng xã hội; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế); và yếu tố tri thức (bao gồm
chất lượng đội ngũ những người lao động trí óc, sáng tạo trong mọi lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội; cơ sở vật chất về kho tàng tri thức, thông tin
khoa học và công nghệ; hiệu quả lao động sáng tạo đối với phát triển kinh tế -
xã hội hay hàm lượng tri thức, hàm lượng khoa học, công nghệ trong từng sản
phẩm xã hội. Trong 3 yếu tố căn bản trên, nếu văn hoá làm nền cho sự phát
triển, môi trường là yếu tố quyết định, thì tri thức chính là động lực của sự
phát triển.
- Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Trong lịch sử tư tưởng kinh tế, kể từ thời A.Smith với quan niệm “lao
động là cha, đất là mẹ” đã hướng sự chú ý vào vai trò lao động của con
người, coi như một tác nhân đặc biệt sản xuất ra của cải.

17
Kinh tế chính trị học mácxít coi con người là lực lượng sản xuất hàng
đầu, có vai trò quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là một quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin khi xem xét vai trò của con người
trong lịch sử phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, khi phân tích các yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất, V.I.Lênin đã khẳng định: “Lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân lao động” [17, tr.430].
Khẳng định vai trò to lớn của nguồn lực con người trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ Tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lực
lượng của dân rất to, dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu

cũng xong” [25, tr.149]. Khi nói về nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách
mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả
những thắng lợi đó không phải là công lao riêng của Đảng ta. Đó là công lao
chung của toàn thể đồng bào ta trong cả nước. Cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng” [23, tr.192].
Trên cơ sở nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chi Minh và của Đảng cộng sản Việt nam luôn quan tâm đến con người, đánh
giá cao vai trò to lớn của nguồn lực con người trong sự nghiệp cách mạng.
Thắng lơị của cách mạng Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử qua, chính là
sự thắng lợi của việc đánh giá đúng vai trò con người và nguồn lực con người
trong sự nghiệp cách mạng. Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, Đảng ta khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của
Đảng đã chỉ ra một trong sáu quan điểm chỉ đạo về tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước là: “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [7, tr.21]. Tiếp đó, tại Hội
nghị Trung ương lần thứ hai, khoá VIII, Đảng ta đã khẳng định rõ thêm chủ
trương coi con người là một nguồn lực quan trọng nhất đối với sự phát triển

18
kinh tế - xã hội của nước ta: “Để thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đại hội
VIII đã đề ra, cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó
nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với
nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp” [6, tr.9].
Nói đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhằm mục đích phát triển
toàn diện ba hệ thống: kinh tế - xã hội - môi trường, để phát triển toàn diện
con người. Phát triển con người là đặc trưng bản chất của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, con người là chủ thể, là nhân tố năng động
nhất, sáng tạo nhất trong mối quan hệ của ba hệ thống đó. Nói đến công

nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là nói đến xây dựng một lực lượng sản
xuất hiện đại, trong đó con người là lực lượng sản xuất hàng đầu. Muốn nâng
cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, yếu tố quyết định khả năng cạnh
tranh lại chính là nhân tố con người. Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước trong điều kiện tồn tại những thuận lợi và những khó
khăn, thời cơ và nguy cơ luôn tác động đan xen nhau, thời cơ rất lớn nhưng
đồng thời nhiều thách thức đang đặt ra cho chúng ta. Làm thế nào để tận dụng
được thời cơ, đẩy lùi các nguy cơ và “đi tắt, đón đầu” thực hiện các mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá tuỳ thuộc có tính quyết định vào nguồn lực con
người. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì con người và dân tộc Việt Nam. Việt
Nam đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng trí tuệ của mình, nhân cách
của mình, dựa trên một nền văn hiến lâu đời của dân tộc.
Trong chiến lược phát triển của nhiều nước trên thế giới trong những năm
gần đây người ta nói nhiều đến yêu cầu phát triển nguồn nhân lực, như là một nhân
tố quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững của các quốc gia, bất kể quốc gia đó
đang ở trình độ phát triển nào (các nước phát triển G7, các nước công nghiệp mới
NIC hay các nước đang phát triển). Theo tính toán của các chuyên gia Mỹ vào
những năm 1940 chất lượng lao động góp phần làm tăng năng suất lao động lên
40% thì chỉ số này trong những năm 1980 là 80%. Nhiều nhà nghiên cứu cũng đề

19
cập đến vấn đề mối quan hệ tư bản - lao động và tiến bộ kỹ thuật trong tăng trưởng
kinh tế ở mỗi nước. Các tác giả Robert Solon. John Kendnich và Edwand Denison
khi nghiên cứu vấn đề này đã đi đến kết luận là: tăng trưởng lao động 1% sẽ làm
cho sản lượng tăng gấp 3 lần so với tăng 1% tư bản.
Kinh nghiệm của nhiều nước phát triển trên thế giới cũng như kinh
nghiệm của các nước Đông Á, Đông Nam Á cho thấy con người là vốn quý
nhất, là nguồn gốc, nguyên nhân của những thành tựu kinh tế cũng như của
những thất bại, khủng hoảng về tài chính - tiền tệ thời gian qua.
Bởi vậy trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam Đảng ta

luôn xác định: “Tăng cường đầu tư vào phát triển con người Đảm bảo nguồn
nhân lực về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá” [9, tr.331 - 332].
Như vậy, nói đến nguồn lực phát triển, bao gồm: nguồn lực thiên nhiên (vị
trí địa lý, môi trường, tài nguyên, khoáng sản); nguồn lực về vốn, tín dụng; khoa
học và công nghệ thì nguồn lực con người đóng vai trò quyết định nhất. Bởi vì,
nguồn lực con người được coi là nguồn lực vô tận, phong phú, quý giá nhất, duy
nhất sáng tạo và có khả năng sinh ra giá trị lớn hơn nhiều lần bản thân nó trong
quá trình sản xuất xã hội. Các nguồn lực khác chỉ là nguồn tiềm năng muốn phát
huy tác dụng phải thông qua nhân tố con người. Khả năng sáng tạo, tích cực, chủ
động của nhân tố con người cho phép khai thác tính vô tận của đối tượng sản xuất
và quy trình công nghệ. Ý thức tinh thần, đạo đức của nhân tố con người quy định
tính nhân đạo, nhân văn cho sự phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định: trong các yếu tố phát
triển nhanh và bền vững, thì nguồn lực con người là yếu tố cơ bản nhất. Bởi
vì nguồn nhân lực con người sẽ quyết định đúng đắn, phương hướng, nội
dung, bước đi, biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sẽ quyết định việc tổ
chức và thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá , trên ý nghĩa đó,

20
việc xây dựng nguồn nhân lực đủ số lượng, có chất lượng cao, đồng bộ là một
yêu cầu khách quan, là nhân tố quyết định đảm bảo thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển nhanh, bền vững của cách
mạng Việt Nam.
1.2. Thanh niên - nguồn nhân lực quan trọng của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Vai trò của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
- Về thanh niên:
Thanh niên là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác

nhau, tuỳ theo nội dung tiếp cận, góc độ nhìn nhận hoặc cấp độ đánh giá mà
người ta đưa ra các định nghĩa khác nhau về thanh niên.
Về mặt sinh học, thanh niên đựơc coi là một giai đoạn phát triển trong
cuộc đời con người được đánh dấu bởi sự chuyển tiếp qua giai đoạn trẻ em để
trở thành người lớn, người trưởng thành. Đặc điểm rõ nhất của giai đoạn này
là sự tăng trưởng nhanh chóng về thể chất, cường tráng về thể lực, trưởng
thành về các chức năng của cơ thể và trưởng thành về mặt xã hội. Các nhà
tâm lý học thường nhìn nhận thanh niên gắn với những quy luật biến đổi tâm
lý lứa tuổi như: sự phát triển khả năng phân tích và suy luận, ham thích cái
mới, say mê sáng tạo, sự tự khẳng định, tự ý thức coi đó là yếu tố cơ bản để
phân biệt với các lứa tuổi khác. Từ góc độ xã hội học thanh niên lại được nhìn
nhận là một giai đoạn xã hội hoá cá nhân, giai đoạn tiếp thu các giá trị xã hội
để hình thành nhân cách; là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ bị phụ thuộc sang
xác lập vai trò cá nhân qua các hoạt động độc lập với tư cách là công dân, là
một trong những chủ thể của xã hội.
Từ những cách nhìn nhận của các ngành khoa học, hiện nay có một số
khái niệm về thanh niên như sau:

21
Theo Từ điển tiếng Việt: Thanh niên là người còn trẻ, đang ở độ tuổi
trưởng thành. Khái niệm này bao hàm: thanh niên là người có độ tuổi còn trẻ
và đang trưởng thành và khái niệm thanh niên hoàn toàn được hiểu theo lứa
tuổi.
Trong cuốn sách quản lý Nhà nước về công tác thanh niên trong thời kỳ
mới, đồng chí Vũ Trọng Kim - nguyên Bí thư thứ nhất Trung Ương Đoàn
thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm thanh niên Việt Nam
như sau: “Thanh niên là một nhóm nhân khẩu - xã hội đặc thù bao gồm những
người trong một độ tuổi nhất định (từ 15 đến 35 tuổi), có quan hệ gắn bó mật
thiết với mọi giai cấp, tầng lớp xã hội, có mặt trong mọi lĩnh vực hoạt động
xã hội, có vai trò to lớn trong hiện tại và giữ vai trò quyết định sự phát triển

trong tương lai của xã hội” [16, tr.14].
Dự thảo Luật Thanh niên: Thanh niên quy định trong luật này là công
dân Việt Nam từ đủ 16 tuổi đến đủ 30 tuổi. (Nguồn từ UBTN Việt Nam)
Từ những khái niệm trên, ta thấy thanh niên có những đặc điểm sau:
+ Thanh niên không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc
thù;
+ Thanh niên có độ tuổi nhất định, khoảng từ 15 đến 35 tuổi.
+ Thanh niên có những đặc điểm về tâm lý, sinh lý; có tâm tư, nguyện
vọng, có nhu cầu và hoài bão, khát vọng theo lứa tuổi và giới.
+ Thanh niên Việt Nam có mặt trong tất cả các giai cấp và tầng lớp xã
hội: thanh niên nông dân, thanh niên công nhân, thanh niên viên chức, thanh
niên học sinh - sinh viên, thanh niên các lực lượng vũ trang
+ Thanh niên có mặt trong tất cả 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt
Nam
+ Thanh niên có mặt và giữ vai trò quan trọng trong các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước.

22
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu: Thanh niên là một nhóm nhân khẩu - xã
hội đặc thù, có độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, là người chủ hiện tại và tương lai
của nước nhà.
- Vai trò của thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Bất kỳ thời đại nào và ở quốc gia nào, thanh niên cũng có vai trò hết
sức to lớn. Họ là sức sống hiện tại và tương lai của một quốc gia, dân tộc.
Thanh niên là lực lượng xung kích trong các cuộc đấu tranh sinh tồn, cũng
như trong các cuộc đấu tranh cách mạng, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
lịch sử xã hội; là lực lượng lao động hùng hậu đi đầu trong việc áp dụng khoa
học kỹ thuật và công nghệ mới.
Nhìn nhận và đánh giá vai trò, vị trí của thanh niên trong quá trình phát
triển lịch sử - xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng

định, đó là một lực lượng xã hội hùng mạnh, có khả năng cách mạng to lớn và
luôn hướng tới lý tưởng tiến bộ của thời đại. Theo đó, các Đảng của giai cấp
công nhân cần phải giáo dục thanh niên, tập hợp họ trong tổ chức của những
người cộng sản trẻ tuổi, chuẩn bị lực lượng làm nguồn bổ sung sinh lực mới
cho các Đảng Cộng sản.
Khi bàn về thanh niên, C.Mác chỉ rõ “Những công nhân tiên tiến ý thức
một cách đầy đủ rằng, tương lai của giai cấp họ, qua đó cũng là tương lai
của cả loài người phụ thuộc hoàn toàn vào nhiệm vụ giáo dục thế hệ công
nhân trẻ” [19
,
tr.
118]
. Những công nhân trẻ mà C.Mác nói ở đây là những ng-
ười đi theo lý tưởng của Đảng, phấn đấu vì mục tiêu của Đảng với tư cách
Đảng là đội tiên phong chiến đấu, bộ tham mưu lãnh đạo của giai cấp công
nhân. Qua đó C.Mác cũng đề ra nhiệm vụ cho các Đảng cộng sản là phải lãnh
đạo việc phát triển, hình thành thế giới quan khoa học cho thanh niên, coi đó
là công việc thiết thực để xây dựng Đảng, bởi lẽ, theo C.Mác: “Đảng của
chúng ta là Đảng của tương lai, mà tương lai thuộc về thanh niên. Chúng ta

×