Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

đề tài “ Ý nghĩa của sự chung sống đoàn kết hòa hợp trong Phật giáo qua Kinh Kosambi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.11 KB, 18 trang )

1. DẪN NHẬP
Như chúng ta đã biết trong cuộc sống này nguy hiểm nhất chính là sự bất hòa
với nhau vì nó đưa quần thể ấy đến chia rẽ hoặc hủy diệt, từ thù hận, ganh
ghét rồi đưa đến nỗi thống khổ cho nhau… Vì thế mà bất luận đoàn thể nào,
quốc gia nào, thời đại nào hay tôn giáo nào cũng đều có những phương
hướng, phương pháp nhằm củng cố nội bộ ngõ hầu làm định hướng cho sự
phát triển xây dựng cuộc sống hoàn thiện, đưa đến một đời sống thanh cao
hơn, thánh thiện hơn, tốt đẹp hơn, nếp sống mẫu mực hơn. Qua đó: con người
sống gần nhau hơn, biết thương yêu đùm bọc nhau hơn, biết sống vô ngã vị
tha hơn. Nên bậc cổ đức dạy rằng: “dĩ hòa vi quý” nghĩa là lấy sự hòa kính
làm quý. Chính vì thế mọi cử chỉ hành vi của con người từ việc lớn hay nhỏ
nếu biết hòa thuận thì sẽ thành công hoàn mỹ và trong xã hội cũng thế nếu cứ
mỗi cá nhân biết sống hòa thuận thì gia đình hòa thuận, hạnh phúc, xã hội ấy
cũng được an lạc, nước nhà thịnh vượng, nhân loại ấm no hạnh phúc, thế giới
hòa bình, an lạc.
Đời sống tu sĩ cũng vậy, chúng ta sống trong một tập thể, một cộng đồng cùng
tu cùng học, cùng đi chung con đường mang lý tưởng giác ngộ giải thoát
nhưng đồng là con người phàm tục chưa đạt đến quả vị tu chứng thì khó
tránh những bất hòa giữa con người với nhau. Chính vì thế đức Phật đã chế
định pháp lục hòa để ngăn chặn những xung đột, những tranh chấp, tránh xa
những tư hữu thù hằn cá nhân… làm kim chỉ nam trong việc thực hành đời
sống phạm hạnh giúp cho Tăng đoàn hưng thịnh và ngày càng thăng hoa tốt
đẹp hơn mà cụ thể được đức Phật dạy trong Kinh Kosambi một cách thiết
thực nhất. Chính vì tầm quan trọng của đời sống hòa hợp làm cho Tăng đoàn
hưng thịnh được đức Phật dạy trong Kinh Kosambi là vô cùng cần thiết nên
người viết mạo muội chọn đề tài “ Ý nghĩa của sự chung sống đoàn kết hòa
hợp trong Phật giáo qua Kinh Kosambi ” để làm bài tiểu luận của học kì 5 này.
Trong bài này người viết dùng cách phân tích, quy nạp, tổng hợp, lập luận và
chứng minh để làm sáng tỏ, xoay quanh ý nghĩa sự chung sống đoàn kết hòa
hợp trong Phật giáo thông qua Kinh Kosambi mà thôi. Đề tài thì rất rộng
song kiến thức có hạn nên người viết không diễn tả hết nội dung, không làm


sáng tỏ, ý nghĩa bao hàm của mệnh đề mà mình cần triển khai. Với mong
muốn góp một phần nào đó giữa kho tàng giáo pháp của Như Lai cho hậu thế
làm tư liệu dùng để nghiên cứu sau này và nguyện làm hạt cát nhỏ giữa sa
mạc mênh mông vô tận ấy. Trong lúc hành văn không sao tránh khỏi sai sót,
kính mong giảng viên từ bi hoan hỷ bỏ qua và góp ý cho bài tiểu luận lần sau
được thành công, tốt đẹp hơn.
1. NỘI DUNG
2. Tóm tắc bài Kinh
Một thời Thế Tôn ở Kosambi, tịnh xá Ghosita. Lúc bấy giờ, các Tỷ-kheo ở
Kosambi sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh nhau, đả thương nhau bằng
những binh khí miệng lưỡi. Họ không tự thông cảm và không chấp nhận
thông cảm cho nhau; họ không tự hòa giải và không chấp nhận hòa giải. Rồi
một Tỷ-kheo đến chỗ Thế Tôn ở bạch Thế Tôn: Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo và
bảo như sau:
– Này các Tỷ-kheo, có đúng sự thật chăng?
– Bạch Thế Tôn, có vậy.
Như vậy, do biết gì, do thấy gì, các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu
tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi; và các Ông không tự
thông cảm, không chấp nhận thông cảm, không tự, không chấp nhận hòa giải
nhau. Như vậy, này các kẻ mê mờ kia, các Ông sẽ phải chịu bất hạnh, đau khổ
trong một thời gian dài.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành
tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến vô tranh luận,
hòa hợp, nhất trí.
“Thế nào là sáu?
1-3/. Vị Tỷ-kheo đối với các vị đồng phạm hạnh phải có từ thân hành, từ khẩu
hành, từ ý hành cả trước mặt lẫn sau lưng.
4/. Đối với tài vật nhận được đúng pháp cho đến những vật thâu nhận trong
bình bát san sẽ với các vị đồng phạm hạnh giới đức.
5/. Tỳ Kheo sống thành tựu các giới luật với các vị đồng phạm hạnh không có

tỳ vết đưa đến thiền định.
6/. Tỳ Kheo sống thành tựu tri kiến thuộc bậc thánh có khả năng hướng
thượng”[1] .
Này các Tỷ-kheo, trong sáu pháp cần phải ghi nhớ này, có một pháp tối
thượng, thâu nhiếp tất cả, làm giềng mối cho tất cả, chính là tri kiến này,
thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, diệt tận khổ đau. Này các
Tỷ-kheo, ví như một căn nhà có mái nhọn như ngọn tháp, có một pháp tối
thượng, thâu nhiếp tất cả, làm giềng mối cho tất cả, chính là mái nhọn vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn
dạy.
2. Những thành tựu đưa đến sự hòa hợp trong Tăng đoàn
 Sự thành tựu từ thân hành đưa đến hòa hợp
Cùng sống ở một nơi chốn, nghĩa là phải hòa đồng trên nguyên tắc hành
động, mọi hoạt động, hành vi trong cộng đồng đệ tử đức Phật đều hợp nhất:
đi cùng đi, ở cùng ở, ăn cùng ăn, làm cùng làm, nghỉ cùng nghỉ v.v…không lập
dị kiểu cách, không phách lối quan liêu, biết hoà mình, đồng sự đối với mọi
người xung quanh, không sống cô lập để rồi gây rạn nứt, sứt mẻ mối thâm
giao tình cảm đối với những pháp lữ, đồng môn cả trước mặt lẫn sau lưng, để
tạo thành mối tương thân, tương ái, tương kính và hoà hợp lẫn nhau, cho
nên đức Phật dạy trong Kinh Trung Bộ rằng: “này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an
trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng.
Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa
đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí”[2]. Chính vì vậy,
khi chúng ta sống biết hòa đồng cùng mọi người, sống không chống trái nhau
thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn, được mọi người thương yêu đùm
bọc, kính mến chúng ta nhiều hơn, mọi người dễ gần gũi bằng ngược lại nếu
chúng ta sống không biết hòa đồng mà luôn luôn tạo sự bất hòa thì khiến mọi
người ghét bỏ và từ đó chúng ta tự tách xa rời đời sống cộng đồng, đời sống
cộng trụ, đời sống tương thân tương ái. Cho nên người xuất gia sống đời đạm
bạc tam thường bất túc không để cho dư dật, thì đâu có thời giờ bận tâm

chuyện chỗ ăn chỗ ở nên sẵn sàng và hoan hỷ nhường nhịn nhau.
Hơn thế nữa, muốn được mọi người chấp nhận, chúng ta phải hòa mình
trong bất cứ hoàn cảnh nào. Tuy mỗi người làm một việc khác nhau, nhưng
một này trở thành tất cả và tất cả là một, là sự nghiệp chung, sự nghiệp của
chính ta vậy. Tinh thần thân hòa cộng trụ của đức Phật cao tột đến độ ngày
nay tuy Ngài không còn trên cuộc đời nhưng khắp năm châu, bốn biển người
người còn nhớ nghĩ đến Ngài, tiếp tục bước chân hành đạo của Ngài. Nói
cách khác, thân Phật đã hòa tan trong mọi người, hiện hữu tất cả mọi nơi.
 Sự thành tựu từ khẩu hành đưa đến hòa hợp
Nghĩa là hoà đồng trên nguyên tắc ngôn luận luôn dùng lời ái ngữ dễ mến,
tạo niềm tin yêu thật sự cho người nghe, không nên nói lời nói dối mà lời nói
thành sự thật, không nói lời thêu dệt mà nói lời ngay thẳng, không nói lời
hung ác mà nói lời từ ái, không nói lời gây chia rẽ và hận thù mà nói lời mang
ý nghĩa xây dựng và hoà giải, cho nên Ngài dạy chúng Tỳ Kheo rằng:“này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả
trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo
thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp,
nhất trí”[3]. Như vậy, chúng ta nói với nhau một cách hòa nhã, lịch sự, nhẹ
nhàng, từ tốn, khiêm cung, dù có điểm bất đồng cũng không dẫn đến tranh
cãi, lớn tiếng. Người xuất gia rõ biết “họa tùng khẩu xuất”, lại biết âm thanh
ngôn ngữ là vô thường, luôn giữ khẩu nghiệp thanh tịnh, niệm một câu Phật
tốt hơn là buông một lời xằng bậy hoặc ngôn ngữ tổn hại đến người khác. Vì
thế lời nói thể hiện tư cách, tâm trạng của con người trong mối quan hệ với
nhau. Gần gũi thân thiện hay xa lìa oán hận nhau, thường do lời nói. Cho nên
trong Kinh Pháp Cú đức Phật dạy rằng:“phàm người sống ở đời, miệng lưỡi
chính gươm đao, chửi rủa mắng nhiếc nhau, là cầm dao tự hại”[4] vậy.
Có những lúc Đức Phật im lặng, ngài im lặng như chánh pháp. Khi nói, Ngài
nói năng như chánh pháp. Lời nói của Ngài luôn ôn tồn, hiền hòa, chứa
chan sức cảm hóa. Là đệ tử Phật, cần nhớ trong bất cứ tình huống nào, ngôn
ngữ của chúng ta vẫn phải ôn hòa, từ ái, để cảm hóa người. Cố gắng không

tranh cãi, châm biếm hay nói lời hung ác vì vậy trong luật Sadi dạy
rằng: “phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trạm thân, do kì ác
ngôn”[5]. Nếu chúng ta không làm chủ lời nói thì khi nghịch duyên đến khiến
phát ngôn bừa bãi, nói năng không đúng chánh pháp khiến cho người khác
buồn phiền, gây đau khổ cho người rồi sanh tâm hờn giận, trách móc…thậm
chí người khác lại chửi mình, đánh đập mình…cho nên khi chúng ta biết được
sự thiếu nhã nhặn khiêm cung từ lời nói nên tu tập đưa đến thân hòa, miệng
hòa, phải thật sự phát xuất từ ý thức hòa hợp mới đúng như pháp và được
kết quả an vui. Trong ý thức, nếu chúng ta chưa cùng một quan điểm, một
nhận thức, một ý hướng, mà còn chứa đựng lòng ganh tỵ, thù ghét, thì thân
hay miệng hòa chỉ là biểu hiện của sự giả dối, không chân thật vậy.
 Sự thành tựu từ ý hành đưa đến hòa hợp
Ở đây là hòa đồng trên một nguyên lý chung nhất là cùng một ý chí hòa hợp,
với người đệ tử của Đức Phật không những không có một hành động xâm hại
nào đối với mọi người, mà còn không có một ý niệm hoặc tâm tưởng nhỏ nhoi
nào nghĩ đến sự xâm hại với sinh linh được chấp nhận. Như chúng ta đã biết,
ý là phần vi tế, khó kiểm soát, đóng vai trò quan trọng trong sự điều động
thân nghiệp và khẩu nghiệp. Trong buổi họp, nếu tâm ý sai khác của mỗi cá
nhân được người chủ tọa điều hòa một cách khéo léo, để cùng nhau vui
vẻ chấp nhận ý chung, là đã sử dụng được pháp ý hòa nên đức Phật dạy
rằng:“này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ ý hành đối với các vị đồng phạm
hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương
ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa
hợp, nhất trí”[6]. Cho nên người tu luôn giữ tâm ý hòa hợp và cảm thông với
nhau trong niềm vui chung. Đó là niềm vui cùng sống trong chánh pháp, niềm
vui có cùng lý tưởng hướng về giải thoát giác ngộ. Đây là niềm vui to lớn
trùm lấp tất cả những dị biệt về thân phận, hoàn cảnh, danh, tướng, sở hữu,
sở đắc. Với tâm vô ngã, người xuất gia trong giao tiếp, sinh hoạt Tăng đoàn,
luôn hòa vui với đồng môn, pháp lữ, chia sẻ và lắng nghe tâm tình và hoàn
cảnh của kẻ khác. Cho nên, khi chúng ta không làm chủ tâm ý thì dẫn đến

những tai lại bất cập của mình mang đau khổ, sân hận, si mê cho người khác,
do vậy trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy rằng:“như nhà lợp không kín, nước
mưa rơi lọt vào, ý lơi lỏng không tu, tham dục liền sanh khởi”[7]. Ở đây, Đức
Phật muốn nói đến sự ô nhiễm tâm hồn được xem như là những áng mây u
ám vần vũ trên bầu trời tâm thức của mọi chúng ta. Nếu chúng ta biết áp
dụng những lời nói của đức Phật mà tu tập thì trong cuộc sống những phiền
não, chấp chặt tà kiến, thù hằn cá nhân tan biến…thay vào đó là sự cảm
thông hòa nhau, kính mến nhau vậy. Thật vậy, nếu Đức Phật là mẫu người
thành tựu tuyệt đối nhân cách viên mãn về từ bi, trí tuệ và phúc thiện thì
những người đệ tử của Ngài được xem như là những hạt nhân, chủng tử của
sự giác ngộ và giải thoát đang nảy mầm, tươi tẩm và sinh trưởng không
ngừng, mà mảnh đất tươi tẩm cho hạt bồ đề ấy nảy mầm sinh sôi chính là
mảnh đất tâm. Nếu mảnh đất tâm này có nhiều cỏ dại của tham lam, sân hận
và si mê thì những hạt giống bồ đề của từ bi, trí tuệ ấy không sao nảy mầm
tươi tốt cho được.
 Sự thành tựu từ lợi hành đưa đến hòa hợp
Lợi hành có nghĩa là hòa đồng trên một nguyên lý quyền lợi bình đẳng, không
tham lam đố kị, không chấp tự ngã và ngã sở hữu mà là quyền lợi chung chứ
không một ai của riêng ai vậy. Với những Pháp lữ đồng tu trong tổ chức
truyền thống cộng đồng đệ tử Đức Phật, mọi quyền lợi từ vật chất cũng như
tinh thần đều cùng nhau san sẻ đồng đều bình đẳng với nhau, biết nhường
nhịn lẫn nhau, không so đo, tính toán, không ganh ghét gian tham, không tư
hữu tranh quyền đoạt lợi,…chính vì thế nên đức Phật dạy các Tỳ Kheo rằng:
“này các Tỷ-kheo, đối với các tài vật nhận được đúng pháp, hợp pháp, cho
đến những tài vật thâu nhận chỉ trong bình bát, Tỷ-kheo không phải là người
không san sẻ, các tài vật nhận được như vậy, phải là người san sẻ dùng chung
với các vị đồng phạm hạnh có giới đức”[8]. Có thể nói rằng: ở đây đức Phật là
người có trí tuệ siêu việt, một cái nhìn tổng thể và bao quát được dựa trên
nguyên tắc tinh thần bình đẳng, từ bi và bác ái. Như chúng ta đã biết, sống
trên cuộc đời này đâu phải ai cũng có phước báo giống như nhau, mỗi người

là một phước báo riêng biệt cho nên vào thời điểm đức Phật còn tại thế, Tăng
đoàn sống được đều nhờ đi khất thực mà có chứ không như đời sống Tăng
đoàn như bây giờ, mỗi khi khất thực như vậy thì có người được nhiều vật
thực có người thì ít vật thực cho nên người kia phải sang sẽ cho người này có
như vậy mới sống đúng tinh thần hòa hợp, hài hòa, vui vẻ và duy trì mọi sinh
hoạt của đời sống cộng trụ. Đó là thời đại nguyên thủy ngày nay đời sống
Tăng đoàn không đi khất thực mà sống ở tự viện, tu viện, giao tiếp xã hội, cần
có những vật sản và tiền bạc theo nhu cầu, nhưng tinh thần luôn luôn là tinh
thần vô sản, có nghĩa là sẵn sàng buông xả, bố thí, cúng dường tất cả những
gì mà cá nhân mình đang nắm giữ nếu việc buông xả này mang lại lợi ích lớn
cho người đón nhận mà không tổn hại đến quyền lợi chung cũng như làm
nặng trách nhiệm cho người khác trong Tăng đoàn, hay trong đàn na thí chủ.
Thế nên đức Phật nói rằng: “trong khi sống chung nếu có người đem cho vật
thực, y phục, mền chiếu, thuốc thang vv…thì phải đem phân quân cho tất cả,
nghĩa là chia cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt
người xấu nhưng phải láy công bằng làm trọng, được như vậy thì dù ở chung
nghìn người cũng vẫn hòa vui”[9]. Chính vì vậy mà mấy ngàn năm qua kể từ
sau khi đức Phật diệt độ, Tăng đoàn của đức Phật vẫn giữ được phong độ
xuất thế của mình trong vai trò “Vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì lợi lạc thế gian mà
làm cán cân đạo lý cho ngàn đời”. Cộng đồng đệ tử xuất gia của Đức Phật là
những người vô sản, những người không gia đình, không riêng tư nên tính
bao dung, hy sinh và phụng sự được xem là tính chất đặc trưng của Phật giáo
vậy.
 Sự thành tựu từ giới hành đưa đến hòa hợp
Giới là kỉ cương vị là hòa đồng trên nguyên tắc kỷ luật cộng đồng đệ tử đức
Phật giữ gìn Giới luật không để bị nhiễm ô, sứt mẻ đối với những người bạn
đồng tu cả trước mặt lẫn sau lưng, để tạo thành tương thân, tương ái, tương
kính và hoà hợp lẫn nhau. Như vậy: nguyên tắc này được xem là bí quyết cho
sự an lạc, hạnh phúc cho cá nhân và thịnh vượng cho tổ chức Tăng đoàn. Nếu
như trong đời sống Tăng đoàn chúng ta cùng tuân thủ, giữ gìn những giới

luật và qui tắc mà đức Phật đã chế định cùng sống chung một cách hòa hợp.
Giới luật và qui tắc của tập thể Tăng già là căn bản của giải thoát, là giềng
mối đưa đến con đường thánh thiện, đạo đức, phạm hạnh, uy nghi của bậc
trượng phu, người xuất gia biết rằng giữ gìn giới luật là phòng hộ ba nghiệp
cho thanh tịnh, là nền tảng để tiến dần đến giải thoát giác ngộ, người xuất
gia tự nguyện đặt mình trong giới luật. Giới luật và những qui tắc sống chung
là gia bảo vô giá, là mạng sống của người xuất gia cho nên đức Phật đã chế
định và dạy rằng: “này các Tỷ-kheo, đối với các giới luật không có vi phạm,
không có tỳ vết, không có vẩn đục, không có uế tạp, giải thoát, được người trí
tán thán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định, Tỷ-kheo sống thành tựu
trong các giới luật ấy với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau
lưng”[10]. Chính vì sự nghiệp giải thoát giác ngộ, người xuất gia phát
nguyện thọ trì giới cấm vui hòa với đời sống Tăng đoàn và trang nghiêm thân
tướng để làm biểu tượng tôn quí trong Tam Bảo, người xuất gia giữ gìn oai
nghi tế hạnh, quy tắc sống chung tập thể.
Ngoài ra: giới luật và quy tắc oai nghi vì vậy không phải là những kỷ luật sắt
thép gò bó các cá nhân trong đời sống tập thể, mà chính là những thệ nguyện,
những mặc ước tự nhiên giữa những kẻ xuất trần, vô ngã. Nhờ vô ngã, người
xuất gia buông bỏ các danh, tướng, địa vị, giai cấp, tầng lớp của xã hội lẫn
trong Tăng đoàn để sống vui hòa với các Tăng lữ khác trong các định chế có
khả năng phòng hộ mình. Giới luật không phải là đẳng cấp, không phải là chỗ
y cứ để phân biệt ngôi thứ, tôn ty trong Tăng đoàn, Trật tự và tôn ty trong
Tăng đoàn y cứ nơi giới đức và hạ lạp, thứ tôn ty trật tự ấy, được sắp xếp tự
nhiên bằng sự khiêm cung, vô ngã của mỗi cá nhân Tăng sĩ.
Người thế tục trong đời sống kỷ luật của tập thể, nếu không thực hành vô ngã
và nếu không thấy kỷ luật chính là mạng sống của tổ chức mình thì sẽ luôn tự
cao về đẳng cấp, tuổi đảng, tranh giành với nhau từng chỗ ngồi, địa vị mà
mục tiêu giá trị cần phải đạt được của tất cả mọi người con Phật chúng ta là
giải thoát tâm linh. Lộ trình đưa đến mục tiêu ấy là trì giới nó giúp chúng ta
thanh lọc tâm hồn, thân chứng chân lý giải thoát.

Giới luật là hàng rào bảo vệ an toàn phẩm hạnh nhân cách, ngăn ngừa điều
sai trái là phòng phi chỉ ác. Thực hiện giới hòa đồng tu nghĩa là giới đức hay
sự trong sạch, không lỗi lầm, không phải hạn hẹp trong khuôn khổ giới điều.
Những điều xã hội không chấp nhận chúng ta không làm và đối với luật lệ
chung phải tôn trọng không được phá vỡ nguyên tắc chung vì giới luật hay
luật lệ này nhằm bảo vệ cho chính mình và cho tổ chức tồn tại.
Chính vì vậy nên đức Phật dạy rằng: “trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu
không cùng nhau giữ gìn giới điều, kỷ luật, quy tắc thì chúng ta không bao
giờ sống chung với nhau được”[11]. Do đó quốc gia không luật pháp, quốc
gia suy vong, tổ chức không kỷ luật, tổ chức ô hợp, tôn giáo không giáo luật,
tôn giáo đó ô hợp và lạc hậu. Cũng vậy, Phật giáo là một tổ chức cộng đồng có
một nền giới luật chặt chẽ và nghiêm minh, nhưng có một tính chất ưu việt
hơn các tổ chức xã hội cũng như tôn giáo khác là giới luật không xem như là
một giáo luật hay tín điều đầy uy quyền do một đấng tối cao nào, hoặc cơ
quan chuyên chế pháp định nào đó ban hành, mà nó được xem là một bản
thoả thuận chung của cộng đồng đệ tử của đức Phật. Cho nên thời đức Phật
còn tại thế, sự kiết giới và chế định luật nghi, Ngài không áp đặt, mà là dựa
trên nguyên tắc phạm giới của một Tỳ Kheo nào đó nhân đây Ngài mới chế
giới. Nghĩa là: trong thực tế những sự kiện nào đã gây ra sự bất ổn, bất hạnh
cho cá nhân và cộng đồng thì đức Phật dựa vào đó mà chế định ra giới luật.
Do đó, giới luật được xem là hàng rào, là thành luỹ bảo vệ an toàn cho cuộc
sống phạm hạnh, cuộc sống đầy thánh thiện, giúp cho mọi người Phật tử tại
gia cũng như xuất gia chuyển hoá phiền não, khổ đau để thoát ly mọi hệ lụy
của tham lam, sận, si mà hướng đến thanh tịnh, từ bi và trí tuệ nhằm đem lại
sự thanh bình và an lạc cho cuộc đời. Vì vậy: mọi người đệ tử của đức Phật
phải giữ gìn cẩn thận, xem đó như con thuyền vượt bể khổ trần gian nhắm bờ
giải thoát.
 Sự thành tựu từ kiến hành đưa đến hòa hợp
Nghĩa là: cùng chia sẻ, cùng trao đổi với nhau một cách hòa hợp những hiểu
biết và kinh nghiệm trong việc thực nghiệm chánh pháp. Hiểu biết và kinh

nghiệm ấy không phải là vốn liếng riêng tư của ai để rồi bo bo gìn giữ mà
kiếm sống như các nghề nghiệp chuyên môn của người thế gian. Cho nên
trong sự sống chung cùng tu cùng học người thượng căn hiểu biết thì giải
bày cho người hạ căn hiểu được ý mình, giúp nhau cùng tiến tu trên con
đường giác ngộ giải thoát có như vậy mới thực sự có đời sống bình đẳng hòa
đồng. Người xuất gia chỉ có kiến giải và kinh nghiệm tu tập hướng về mục
tiêu giải thoát giác ngộ, mục tiêu ấy chẳng phải là cõi trời hay thiên đàng mà
người đến trước giành chỗ tốt, người đến sau bị thiệt thòi, những kiến giải
của một cá nhân, không có ý nghĩa gì trong tiến trình tu tập, giải thoát. Trí
tuệ siêu việt chỉ có thể hiển hiện nơi một bậc đạt đến vô ngã hoàn toàn, thế
nên trong tinh thần vô ngã, người xuất gia có sự hiểu biết hay kinh nghiệm
nào trong việc tu học cũng hết lòng chia sẻ, bàn bạc, lắng nghe, trao đổi,
hướng dẫn, khuyến khích đồng môn, pháp lữ của mình với tinh thần hòa kính,
tận tình chia sẽ cho nên trong Kinh Trung Bộ đức Phật có dạy rằng: “này các
Tỷ-kheo, đối với các tri kiến thuộc về bậc Thánh có khả năng hướng thượng,
khiến người thực hành chân chánh diệt tận khổ đau, Tỷ-kheo, sống thành tựu
tri kiến như vậy, cùng với các đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng.
Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa
đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí”[12]. Cho nên
sống trong tập thể chúng ta phải luôn luôn trau dồi những tinh hoa mầu
nhiệm của Phật pháp để cùng nhau tiến tu, hơn thế nữa với xã hội ngày nay
đang trên đà phát triển nhiều phát minh mới, từ đó chúng ta phải hòa mình
trong nhịp tiến của nhân loại để nắm bắt những thông tin kiến thức, nếu
không trau dồi học hỏi mà tự mãn với những kiến thức nhỏ hẹp đó thì chúng
ta bị thụt lùi, lạc hậu. Do vậy sự trao đổi kiến thức là nền tảng để phát triển
tiềm năng của tri thức của con người. như vậy chúng ta thực hiện được thì sẽ
phá bỏ bức tường ngăn cách giữa con người với con người trong lãnh vực tri
kiến, xây dựng sự hòa hợp, đem kiến thức sự hiểu biết ấy phục vụ cho sự sống
con người vậy.
3. Ý nghĩa của sự chung sống đoàn kết hòa hợp trong Phật giáo qua

Kinh Kosambi
Như chúng ta đã biết, đời sống Tăng đoàn là một tập thể xuất gia cộng trụ
sống lìa xa gia đình không có vợ con, cạo bỏ râu tóc, mặc áo nâu sòng, tam
thường bất túc cùng tu tập theo một đường lối đúng đắng, hướng thượng
tiến đến con đường giác ngộ giải thoát mà đức Phật đã tự thân chứng
nghiệm ra. Do đó với đời sống Tăng đoàn có bổn phận và trách nhiệm của
từng cá nhân phải đẩy mạnh và xây dựng trong hàng ngũ Tăng đoàn ngày
một phát triển lớn mạnh, mục đích của sự hòa hợp không gì khác hơn là đưa
đến đời sống phạm hạnh, đời sống hòa hợp sống không chống trái nhau giống
như nước hòa với sửa, đó là một thể thanh tịnh, cho nên hình ảnh chư Tăng là
thể hiện lối sống đạo đức lối sống thoát tục, lối sống của người xuất trần
thượng sĩ. Cho nên: đời sống Tăng đoàn tu tập pháp lục hòa không phải là
gượng ép mà đó là một phương châm dẫn dắt Tăng đoàn đi đến một đời sống
thánh hóa bản thân hơn. Lục hòa là một phương thức của tập thể Tăng đoàn
mà mỗi cá nhân, Tăng hoặc Ni tự nguyện áp dụng để tạo sự hòa hợp trong
đời sống chung. Sáu yếu tố được nêu ra trong lục hòa bao gồm cả ba nghiệp
thân, khẩu, ý, giới luật, kiến giải và tài sản. Sáu yếu tố này đối với đời sống
tập thể nếu có sự hòa và đồng, sẽ tạo nên trật tự, hài hòa, nhịp nhàng, không
sống trái với nhau, mỗi cá thể phải quên đi cái ngã của mình mới hòa được
với đời sống tập thể. Điều cốt lõi của lục hòa là phá ngã, vô chấp, dù đức Phật
không công khai nói ra, nhưng người xuất gia hẳn phải cảm nhận được qua
sinh hoạt tập thể từ hai ngàn năm trăm qua. Do vậy, chỉ khi chúng ta cùng vui
trong lục hòa cộng trụ lúc đó chúng ta mới thục sự là những quyến thuộc bồ
đề làm lên sức mạnh của Tăng già hòa hợp nhưng một Tăng đoàn thanh tịnh
hòa hợp không thể không có giới luật. Tăng có nghĩa là đoàn thể hoà hợp, cái
làm nên sự hòa hợp đó là giới luật. Một Tăng đoàn không giới luật sẽ trở nên
bạc nhược, cằn cỗi, không còn sức sống chính vì thế tinh thần hòa hợp là sự
nhất trí để đưa đến mọi thành tựu vậy.
Đối với Tăng đoàn, đức Phật hướng dẫn pháp lục hòa, còn đối với tại gia cư
sĩ, ngài dạy tứ nhiếp pháp. Từ khi Phật giáo phát triển với tư tưởng thực tiễn

dấn thân, Tăng sĩ có thể áp dụng cả lục hòa và tứ nhiếp pháp nhưng để áp
dụng lục hòa một cách đúng mức vào các tổ chức hầu như vẫn là điều khó
thực hành. Có chăng sự thành công của một tập thể thế gian khi áp dụng lục
hòa, cũng chỉ là trên tinh thần và một cách tương đối, trong một phạm vi nhỏ
hẹp mà thôi. Cho nên hiểu thì ai cũng hiểu nhưng để thực thi đem áp dụng
vào đời sống thì trong hai giới xuất gia và tại gia mấy ai thực hành được.
Chúng xuất gia của Phật là đoàn thể điển hình thể hiện đầy đủ pháp lục hòa,
thiểu dục tri túc. Hàng đệ tử của Ngài kết hợp đủ các thành phần xã hội, từ
những hoàng tử vương quyền cho đến hàng cùng đinh, mà không hề gây xáo
trộn. Với sự hướng dẫn giáo hóa của Đức Phật, mọi dấu vết giai cấp được xóa
bỏ. Mỗi người đều phát huy sự trong sáng của giáo đoàn và chung sống hài
hòa với nhau. Dưới uy đức của Ngài, tinh thần lợi hòa cùng hưởng bình đẳng,
tự nhiên mọi người không còn nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Mọi Phật sự đều
được thực hiện với tâm niệm lợi tha, để phục vụ con người, xây dựng xã hội
thuần thiện, an vui.
Từ tinh thần áp dụng tu tập pháp lục hòa, Tăng đoàn mọi thời đại và trú xứ
mặc nhiên cảm nhận rằng, đó không phải là một nguyên tắc khô khan cứng
ngắt, mà là một lẽ sống, một lối sống đẹp, có tình có lý. Thiếu lục hòa, Tăng
đoàn thời Phật không thể nào ổn định trật tự và đi vào nề nếp một cách nề
nết khi mà sự phân biệt giai cấp vốn là một thứ tập quán trong xã hội Ấn độ
thời bấy giờ, hơn thế nữa ngày nay pháp lục hòa của đức Phật, chúng ta nhận
thấy đó là chất keo tốt nhất gắn bó sự đoàn kết hòa hợp, an vui của Tăng
đoàn. Ngoài ra, đó còn là mô hình kiểu mẫu cho bất cứ đoàn thể, tổ chức nào
ngày nay muốn tồn tại, phát triển sinh hoạt, tất nhiên phải thực hiện quy luật
đoàn kết theo lục hòa và xa hơn nữa tuy chúng ta sống cách xa đức Phật
nhưng những lời dạy được xuất phát từ kim khẩu Ngài không bị lạc hậu mà
ngày nay vẫn còn sống mãi không phải bây giờ mà mãi mãi về sau.
4. Ứng dụng tinh thần hòa hợp vào thực dụng cuộc sống
Con người là tác giả của khổ đau và cũng chính là nạn nhân của khổ đau,
nhưng họ chưa dừng lại khi tình thương không có mặt, đổi lại đó là thù ghét,

ganh tỵ. Rồi một khi họ nhận lại món quà không như ý, họ tặng cho người
khác lại trở thành oán than, trách móc. Lục hòa Phật giáo dạy con người biết
sống trải tình thương rộng ra, biết san sẽ và luôn hòa đồng cùng mọi người,
không tham lam ích kỷ, mà hãy sống bằng những hành động cụ thể có ích lợi
cho cá nhân, cho mọi người xung quanh và cho tất cả chúng sanh, có như vậy
chúng ta mới có đời sống hỷ xã và an lạc, vô ngã và niết bàn. Cho nên trong
mỗi hành giả chúng ta biết tu tập và thực hành giáo lí mà đức Phật đã chỉ
dạy thì ngay trong cuộc sống hiện tại này chúng ta sẽ được an lạc và dứt trừ
tham sân si, những cấu uế phiền não. Chính vì thế nên chúng ta không cần tìm
kiếm nơi nào hay một thế giới an lạc nào cao xa, mơ hồ, viễn vông…mà có thể
nói rằng tịnh độ là ở đây, cực lạc cũng ở đây.
Ngoài ra chúng ta có thể áp dụng pháp lục hòa này đi vào đời để giáo hóa
chúng sanh, giúp họ sống không hiềm khích lẫn nhau, biết thương yêu và đùm
bọc, luôn san sẽ và hơn thế nữa là giúp họ bỏ được cái tâm keo kiệt bỏn sẻn,
ích kỷ của bản thân thay vào đó là tâm từ bi thương người, biết nhường cơm
sẽ áo mỗi khi người khác khó khăn.
1. KẾT LUẬN
Khi đức Phật thành lập Tăng đoàn sau 12 năm khi có các vị tỳ kheo sống ra
ngoài giới luật nên Ngài đặt một số giới luật căn bản để bảo đảm một đời
sống thật sự hòa hợp nhất trí giữa các chúng Tăng. Do vậy, Ngài dạy sáu
pháp cần phải ghi nhớ hay sáu phép hòa kỉnh. Ngài khuyên các đệ tử của
Ngài sống với nhau trong tinh thần hòa hợp hoan hỷ với nhau như nước với
sữa, nhìn nhau với cặp mắt đầy thiện cảm. Khi các Tỷ kheo ở Kosambi cãi vã
nhau, lời khiển trách của đức Phật thật nghiêm khắc và thẳng thắn nhằm
đưa đến đời sống thánh hóa bản thân của tầng cá nhân trong Tăng đoàn
Phật giáo.
Như vậy, sáu nguyên tắc hay sáu tiêu chí đưa đến đời sống hòa hợp trong
kinh Kosambi được đức Phật dạy cho chư Tỳ Kheo ở xứ Kosambi biết sống
hòa hợp, sống không chống trái nhau, đưa đến nhất trí thành tựu thánh
hạnh. Cho nên, Ngài Phật khuyên các Tỷ kheo nên làm cho Tăng đoàn được

chói sáng với hạnh kham nhẫn và nhu hòa của mình nên sống đời sống thanh
thoát và an tịnh, một đời sống thật sự hạnh phúc, khi tâm tư của chư vị đạt
được hòa bình, hòa bình trên chính mình, hòa bình trên thế giới nên trong
Kinh Trung Bộ Ngài dạy rằng: “Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp này, cần phải
ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa
đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí”[13]. Vì vậy, nếu làm cho Tăng đoàn
hưng thịnh thì phải đựa trên sáu nguyên tắc hay lục hòa này sẽ đưa đến phát
triển lớn mạnh. Qua bài kinh này ngụ ý nhắc nhở chúng ta rằng: chúng ta là
tu sĩ, sống đời sống thiểu dục tri túc, cắt ái ly gia, sống đời sống phạm hạnh
thì phải thức tỉnh trong từng phút giây, phải làm chủ chính mình mỗi khi
ngoại duyên xâm nhập, vẫn biết rằng: sống trong tập thể thì thỉnh thoảng
cũng có những chuyện không như ý sảy ra đưa đến cho chúng ta khiến ta
buồn phiền, sầu não…nhưng ngay lúc này chúng ta biết làm chủ bản thân thì
thân khẩu ý không tạo nghiệp…thì đó cũng là cách chúng ta tu tập pháp lục
hòa cộng trụ và chỉ có phương pháp này mới làm cho đời sống Tăng đoàn
thêm gần nhau hơn, có như vậy mới cùng nhau chia sẽ những kinh nghiệm tu
tập cũng như thăm hỏi và động viên nhau mỗi khi trong chúng gặp khó khăn
mà cụ thể nhất đó là mỗi kì bố tát của mỗi nửa tháng thì chư Tăng tập trung
về một trụ xứ để cùng nhau bố tát, cùng nhau ôn lại những giới điều mà đức
Phật đã dạy, ngày nào trong Tăng đoàn còn tập trung bố tát thì ngày đó Tăng
đoàn còn hòa hợp và đạo Phật còn phát triển lớn mạnh cho nên “giới luật còn
thì Phật pháp còn, giới luật mất thì Phật pháp mất” nên dù trong thời đại
nào, bất cứ nơi đâu mà chúng ta biết sống dựa trên tinh thần hòa hợp đưa
đến thanh tịnh, sống không chống trái nhau thì nơi đó có lục hòa cộng trụ,
ngược lại nơi nào không tu tập pháp lục hòa thì nơi ấy sản sinh ra chiến
tranh, gây bất hòa. Nói tóm lại trong từng giây phút mà chúng ta không giữ
cho thanh tịnh ba nghiệp thì ngày đó tâm địa bất an vậy.
Qua đây: chúng ta rút ra một bài học cho bản thân mình là đều là người xuất
gia từ bỏ tất cả thì không có gì là của ta và cái của ta chính vì điều này làm
cho chúng ta biết sống vị tha hơn, biết nhường nhịn và bao dung hơn. Do vậy,

nếu chúng Tỷ kheo thực hiện được thì sẽ đưa đến một cuộc sống an ổn, tịnh
lạc giữa chúng Tăng và đưa đến sự thanh thịnh của chúng Tăng, đem lại
nhiều phước lạc cho loài người và chư Thiên. Đây cũng là yếu tố xây dựng đời
sống Tăng đoàn hưng thịnh và phát triển một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết,
cũng là thành tố hữu cơ dùng để bồi dưỡng cho ngôi nhà Phật pháp trong
Tăng đoàn mỗi ngày tăng trưởng mà hàng xuất gia là những người mang
trọng trách duy trì mạng mạch chánh pháp, giáo hóa chúng sanh. Như vậy:
muốn thành tựu thì đòi hỏi Tăng đoàn phải áp dụng pháp lục hòa, phải sống
đời sống vô ngã vị tha.
Một xã hội có phát triển lớn mạnh hay không thì phải nhờ sự gắn bó đoàn kết
hòa hợp trong tập thể đây là mô hình thực tiễn cho bất cứ tổ chức hay quốc
gia nào muốn tồn tại và phát triển vững mạnh. Điển hình là Phật giáo Viết
Nam đã góp phần xây dựng, bảo vệ xây dựng đất nước trong nhiều thập niên
vừa qua, đạo và đời tuy hai mà một, nếu không có đời thì không có đạo vậy.
Một thế giới hòa bình an lạc không thể không tu tập pháp lục hòa cho nên
thực hành pháp lục là tô điểm cho đất nước ngày càng phồn vinh, thịnh
vượng. Muốn đạt được như vậy thì chúng ta phải thống nhất từ ý chí đi đến
hành động cùng nhau đưa con người đến chân thiện mỹ được. Nói chung đạo
Phật đi đến đâu thì mang lại hòa bình và an lạc đến đó và ở đâu có con người
thì ở đó có đạo Phật vậy.
[1] HT. Thích Minh Châu, Tóm tắt Kinh Trung Bộ, Nxb Văn Hóa Sài Gòn,
2010, Tr. 153-154.
[2] HT . Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 1, Nxb Tôn Giáo, 2012, Tr. 394.
[3] HT . Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 1, Nxb Tôn Giáo, 2012, Tr. 394.
[4] Thích Minh Quang, Kinh Pháp Cú thí dụ, THPGTP. HCM ấn hành, 1995, Tr.
107.
[5] Trí Quang dịch, Luật Sa Di, 1973, Tr. 1095.
[6] HT . Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 1, Nxb Tôn Giáo, 2012, Tr. 394.
[7] Thích Minh Quang, Kinh Pháp Cú thí dụ, THPGTP. HCM ấn hành, 1995, Tr.
121.

[8] HT . Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 1, Nxb Tôn Giáo, 2012, Tr. 395.
[9] HT Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển 1, Nxb Tôn Giáo, 2011,
Tr. 314.
[10] HT . Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 1, Nxb Tôn Giáo, 2012, Tr. 395.
[11] HT Thích Thiện Hoa, Phật học phổ thông quyển 1, Nxb Tôn Giáo, 2011,
Tr. 312.
[12] HT . Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ 1, Nxb Tôn Giáo, 2012, Tr. 395.
[13] HT Thích Minh Châu (dịnh), Trung Bộ I. 321 B.

×