Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIÊU LUÂN Giới luật Phật giáo là nền tảng xây dựng đạo đức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.26 KB, 16 trang )

1. DẪN NHẬP
Ngay từ thời cổ đại, khi con người biết tu tập nhóm họp, sinh hoạt
thành bầy đoàn và phân công lao động thì cũng chính là lúc họ biết
định đặt ra những điều lệ, quy ước để cho mọi người cùng nương
theo đó thực hành nghĩa vụ cũng như có thể nhờ đó mà bảo đảm
được lợi ích và quyền lợi của những người sống trong tập thể quần
cư đó. Dần dần theo thời gian, xã hội ngày một văn minh và phát
triển, khi họ biết xây dựng quốc gia chủng tộc thì cũng là lúc
Họ xây dựng nền hiến pháp, luật lệ của đất nước và chủng tộc ấy .
Cứ như vậy, mỗi một nhóm, tổ chức ra đời lại đặt ra những pháp
luật, nguyên tắc, luật lệ của những tổ chức đó, ngay cả giới luật của
các tôn giáo.
Như vậy, pháp luật hay giới luật là những điều ước, quy định mà
như ta thấy nhằm để bảo vệ, xây dựng và phát triển cộng đồng ấy
ngày càng văn minh, vững mạnh.
Phật giáo cũng vậy, theo quy luật tất yếu cuẩ tự nhiên, xuất hiện
trong một xã hội lắm biến động và tham vọng, con người luôn luôn
biến đổi bởi những điều kiện vật dục, tất nhiên không thể nào
không lấy giới luật làm nền tảng để bảo vệ đời sống thanh tịnh hòa
hợp của tăng già. Thế nhưng, giới luật không những bảo vệ đời
sống thanh tịnh hòa hợp của tăng già mà như chúng ta thấy, nó còn
là nền tảng xây dựng đạo đức xã hội, là con đường đưa đến bến bờ
giải thoát.
“Giới luật là thọ mạng Phật pháp, Giới luật còn là Phật pháp còn”.
[1] Vì thế cho nên trong kinh Di giáo, lúc sắp nhập Niết bàn, đức
Phật đã ân cần tha thiết dặn dò các đệ tử : “Này các thầy Tỳ-kheo,
sau khi ta diệt độ, các thầy phải trân trọng , tôn kính tịnh giới, như
người mù tối mà được mắt sang, nghèo nàn mà được vàng ngọc.
Phải biết tịnh giới là đức thầy cao cả của các thầy. Nếu ta ở đời thì
cũng không khác gì tịnh giới ấy…” (kinh Di Giáo, Ht Thích Trí Quang
dịch)


Xem thế thì đủ biết giới luật trong Phật giáo quan trọng như thế
nào. Tuy nhiên, để thấy rõ giá trị “Giới luật Phật giáo là nền tảng
xây dựng đạo đức xã hội” một cách sâu rộng, chúng ta sẽ tìm hiểu
những chi tiết dưới đây.
1. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI GIỚI LUẬT
2. Định Nghĩa
Giới luật là tiếng gọi chung cho tất cả hệ thống giới luật phật giáo.
Về đại thể thì có sự tương đồng bởi tất cả đều chỉ chung cho những
quy tắc, luật lệ nhưng về chi tiết thì chúng có sự khác nhau.
 Giới (sìla): nghĩa là “phòng ngừa tội lỗi, ngăn cấm hành động
ác, kìm hãm dục vọng và câu thúc đời sống tư hữa của mình,
hầu mong tiến dần đến quả vị giác ngộ”.[2]
Giới cũng có nghĩa là “phòng phi chỉ ác”(ngăn ngừa điều quấy,
chấm dứt điều ác). Nó chính là phương tiện để giúp cho hành giả
đạt đến một cảnh giới giải thoát cao xa bằng cách loại trừ dần dần
những tâm niệm xấu xa, vị kỷ, tư dục thấp hèn.
1. Ba La Đề Mộc Xoa (pràtimoksa): có nghĩa là Biệt giải thoát
luật nghi, Xứ xứ giải thoát hay còn gọi là Tùy thuận giải thoát.
Trong Thực Dụng Phật Học từ điển định nghĩa: “Các giới luật
mà bảy chúng lãnh thọ, mỗi mỗi đều hướng đến viêc giải
thoát ba ác nghiệp và thất chi tội, vì để phân biệt sự khác
nhau với đinh cộng giới và đạo cộng giới nên gọi là biệt giải
thoát giới. Cũng còn dịch là tùy thuận giải thoát bởi giới luật
tùy theo hai quả giải thoát hữu vi và vô vi nên gọi như vậy”.[3]

1. Luật hay còn gọi Tỳ ni (vinaya) có nghĩa là pháp luật hay cấm
chế. Tức là những quy luật, nguyên tắc, điều lệ nhằm quy định
những lối hành xử của Tăng già trên nguyên tắc hành xử pháp
yết ma của tập thể tăng già đó. Như vậy, giới là những điều
bảo vệ cá nhân người trì giới thì luật lại là những điều để bảo

vệ sự thanh tịnh và hòa hợp trong tăng già. “Giới là phương
thuốc phòng ngừa sự hư đốn của sinh hoạt Tỳ kheo, và luật lại
chính là phương thuốc ngăn ngừa sự hư hỏng của giới”.[4]
Do vậy, giới luật được ví như hàng rào , tường thành bảo vệ, như
chiếc phao nổi cứu vớt những người sắp chết chìm và cũng như
tràng hoa để trang sức. Người muốn an lạc, thánh thiện và trang
nghiêm không thể không thọ trì giới luật.
2. Phân Loại
Giới luật được đức phật tùy theo từng hạng người mà chế định
những điều giới khác nhau. Thế nhưng tóm lược thì chỉ nằm trong
ba loại chính yếu sau đây:
1. Nhiếp luật nghi giới: giữ gìn tất cả các luật nghi không cho
phạm ác pháp, bao gồm tất cả cac loại giới tại gia và xuất gia:
ngũ giới, thập thiện, sa di, sa di ni, tỳ kheo, tỳ kheo ni.
2. Nhiếp thiện pháp giới: lấy việc thực hành tất cả các các điều
thiện làm giới.
3. Nhiêu ích hữu tình giới: lấy việc nhiếp thọ, hóa độ tất cả chúng
sanh làm giới.
Ngoài ra còn có Định cộng giới là giới do tu tập thiền định mà thân
tâm thanh tịnh, giới được cụ túc. Giới định tương ưng nên gọi là
Đinh cộng giới.
Đạo cộng giới là sự giải thoát mọi trói buộc thân khẩu ý nghiệp nhờ
nơi trí tuệ, lấy trí tuệ làm giới. Do tu tập vô lậu nghiệp mà được vô
lậu trí. Giới tuệ tương ưng nên gọi Đạo cộng giới.
 NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH GIỚI LUẬT
1. Về Thời Gian
Như mọi người điều biết, không phải ngay sau khi Phật thành đạo
hay lúc thành lập tăng đoàn giới luật được ra đời, mà phải đợi đến
năm thứ 13 theo bộ Đàm vô đức (năm thứ 5 theo bộ luật Ngũ phần)
giới luật mới bắt đầu xuất hiện.

Trong thời kỳ đầu của Phật pháp, tăng đoàn Phật giáo là một tập
thể hòa hợp thanh tịnh, không cần có bất cứ một điều giới nào ràng
buộc. Tất nhiên chư tăng lúc đó được gọi là Vô sự tăng, là những
người hoàn toàn thanh tịnh, chưa có bất cứ dục vọng hữu lậu nào.
Bất cứ người nào muốn xuất gia, tham gia vào đời sống sinh hoạt
vô dục thanh tịnh và hòa hợp thì đức Phật chỉ cần nói : “thiện lai Tỳ
kheo”, tức khắc vị ấy trở thành một Tỳ kheo như pháp và là thành
viên của tăng đoàn ấy.
2. Nguyên Nhân
Càng về sau, do Tăng đoàn ngày càng đông, đời sống bắt đầu có sự
hỗn tạp cộng với sự cung dưỡng ngày càng nồng hậu của các hành
vua chúa, quý tộc nên bắt đầu có nhiều kẻ lợi dụng trà trộn vào. Do
đó nếp sống thanh tịnh hòa hợp của Vô sự tăng ngày bị ô nhiễm.
Cũng như xã hội loài người,khi chưa có sự tạo tác, cất chứa của cải
riêng tư thì con người trong xã hội ấy sống rất hòa hợp đoàn kết,
nhưng bắt đầu từ khi có sự tích tụ tài sản thì sự chiếm hữu xuất
hiện và chiến tranh giành giật xảy ra.
Như vậy, nguyên nhân dẫn đến sự đấu tranh và chiếm hữu là bởi
tích tụ tài sản. Tăng đoàn phật giáo cũng thế, trong thời gian ban
đầu, mỗi người chỉ có 3 y, bát, cụ nên Tăng già thanh tịnh. Khi có sự
chất chứa thì tâm con người vọng niệm theo, dẫn đế sự ảnh hưởng
đối với cuộc sống hòa hợp thanh tịnh của Tăng đoàn. Chính những
hữu lậu bắt đầu phát sanh ấy, để bảo vệ đến đời sống Tăng già, đức
Phật mới chế luật. Và từ đó, giới luật Phật giáo được hình thành.
1. ĐẶC ĐIỂM GIỚI LUẬT
2. Giới Luật Vì Con Người, Của Con Người
Xuất phát từ sự muốn bảo vệ thanh tịnh hòa hợp trong tăng đoàn,
cũng như tránh mọi hữu lậu phát sinh về sau để tăng thêm nguồn
an lạc cho các Tỳ kheo, giới luật được chế định. Như vậy nó đã thõa
mãn điều kiện thứ nhất là vì con người, xuất phất từ con người và

hoàn toàn không mang hình bóng của bất cứ thần thánh hay
thượng đế nào. Nó không phải là một loại giới do thượng đế áp đặt,
bắt con người tuân theo một cách tuyệt đối. Nên nói là của con
người.
2. Ba Yếu Tố Của Việc Chế Giới
Xã hội không phải là một cá nhân đơn lẻ tồn tại mà là một tập thể.
Do đó, trong cuộc sống nếu không có giới luật quy ước thì khó mà
bảo vệ được đoàn thể Tăng già và sự an lạc của tự thân, tha nhân.
Do vậy, giới luật Phật chế ra cũng không ngoài ba yếu tố:
 Phòng ngừa sự chướng ngăn thánh đạo.
1. Bảo vệ sự hòa hợp thanh tịnh trong tăng đoàn.
 Tránh sự cơ hiềm của thế gian.
3. Tinh Thần Tùy Phạm Tùy Chế.
Đây là một tinh thần mang dấu ấn sâu sắc, đặc biệt nhất mà không
phải Tôn giáo nào cũng có được. Điều ấy có nghĩa rằng tùy theo sự
hư hoại hạnh thanh tịnh và hữu lậu phát sinh tới đâu thì giới luật
của Phật giáo chế đinh đến đó. Chưa bao giờ và không bao giờ giới
luật Phật giáo đặt ra những điều vô cớ để áp đặt ràng buộc đời
sống con người. Khi một Tỳ kheo phạm phải vấn đề nào đó thì một
điều giới được ban hành. Sau đó tùy theo nhu cầu, nếu thấy vấn đề
đó cần thiết được cải đổi hay gia tăng thì Ngài liền theo đó mà chế
định. Bằng chứng là đến năm thứ 13 Ngài mới chế giới.
Có lần ngài Xá Lợi Phất nhập định thấy chư Phật trong đời quá khứ
do chế định giới luật mà chánh pháp được trường tồn. Do đó, Ngài
mới thỉnh Phât chế giới. Đức Phật liền dạy : “ Thôi Xá Lợi Phất, ta
biết thời mà, bây giờ người nhỏ nhất trong chúng ta cũng chứng sơ
quả Tu đà hoàn thì cần gì phải chế giới”.[5] Ngài từ chối lời đề nghị
này bởi Ngài biết thời cơ và lúc nào thì nên làm. Ngài không muốn
chế định giới luật theo kiểu áp đặt. Như vậy, giới luật Phật giáo là
giới luật tùy phạm tùy chế.

4. Tính Linh Hoạt Khi Trì Giới
Từ tinh thần “tùy phạm tùy chế” nên khi thọ trì giới pháp, giới luật
được vận dụng hết sức linh hoạt. Trong Ngũ phần luật, quyển 22,
đức Phật dạy: “Tuy là điều ta cấm chế, mà nơi khác không cho đó là
thanh tịnh, đều không nên dung; tuy là điều chẳng phải ta cấm chế,
nơi khác thấy cần làm nên làm, thì chẳng được chẳng làm”.[6] Tùy
theo điều kiện, hoàn cảnh, địa phương mà giới luật của Phật cũng
biến đổi khác nhau, miễn sao phù hợp với tinh thần giải thoát và
đảm bảo được sự thanh tịnh của Tăng đoàn. Tuy nhiên, những điều
khai mở và linh hoạt trên cũng chỉ thuộc về Giá giới, tức là những
phương tiện; còn Tánh giới (bản chất của việc làm ấy là ác) thì
tuyệt đối đức Phật không khai, dù bất cứ lý do gì và ở đâu. Tất
nhiên sự ngăn cấm hay linh hoạt ấy cũng chỉ vì bảo hộ chứ không
phải ràng buộc hay gò bó đời sống an lạc của chư Tăng. Trong giới
luật có rất nhiều những câu chuyện nói về tính linh hoạt này và đó
chính là nét đặc trưng quý báu thể hiện tính nhân bản, tính tự giác
của Phật giáo.
1. GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO LÀ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI
2. Quan Niệm Về Đạo Đức
Nói đến đạo đức là nói đến một phạm trù khái niệm rộng lớn được
thể hiện qua quan niệm của những tập thể, dân tộc hay quốc gia
nào đó. Có thể ở mỗi quốc gia có những quan niệm về đạo đức khác
nhau nhưng vấn đề cơ bản vẫn không ra ngoài quan niệm về luân lý
nhân sinh của con người như thiện ác, tự do, công bằng, hạnh
phúc.v.v Theo chuẩn tắc chân thiện mỹ. Và tất nhiên, nền chân lý
đạo đức phải vì con người. Socrate – một triết gia cổ Hy lạp nói :
“Một nền đạo đức thì không thể căn cứ vào một giáo lý mơ hồ, ta có
thể tạo dựng một nền luân lý không phụ thuộc vào thần học, hoàn
toàn thích hợp với những người có tôn giáo cũng như không tôn
giáo thì xã hội mới ổn định.[7]

2. Nền Tảng Đạo Đức Theo Giới Luật Phật Giáo
Đạo Phật không phải chỉ vì cá nhân mà vì cả xã hội, do đó đạo phật
tồn tại cũng không ngoài xã hội. Tuy hướng về mục đích giải thoát
nhưng tinh thần nhập thế dấn thân, đặt nền tảng lợi ích của tập
thể, của số đông lên trên mọi lợi ích của cá nhân. Chính ý nghãi của
Tăng già đã khẳng định tinh thần đó. Do vì Phật giáo luôn đề cao lợi
ích của con người nên giới luật Phật giáo không thể tách rời hay
biệt lập với nền đạo đức nhân loại.
Trong một chừng mực nào đó, có thể coi đạo đức đông nghĩa với
hạnh phúc. Do đó, nếu hạnh phúc là đích đến của xã hội thì giới luật
Phật giáo hoàn toàn đáp ứng một cách đầy đủ các điều kiện để xây
dựng nền tảng đạo đức, hạnh phúc, một xã hội tốt đẹp và thái bình.
Bởi giới luật Phật giáo được xây dựng trên nền tảng căn bản Giới
Định Tuệ. Trong Giới có Định, trong Định có Tuệ, Định và Tuệ là
điểm tựa và soi sáng cho Giới
Đời sống xã hội từ xưa đến nay luôn luôn biến động và đầy dẫy
những sự bất công, thù nghịch. Hết chuyện này đến chuyện khác, từ
sự giành giật nhau một miếng ăn nho nhỏ đến sự tranh chấp giữa
những quyền lợi cấc gia đình, xóm làng và thậm chí thôn tính lẫn
nhau; rồi nào là ỷ mạnh hiếp yếu, tàn sát những lương dân vô tội;
đâm thuê chém mướn; trong gia đình vợ chồng không tin tưởng
nhau, cha mẹ con cái bất hòa; người lường kẻ gạt; kẻ say người xỉn
dẫn đến những hình động không biết đến lương tri đạo đức.v.v
Những sự việc như vậy ta có thể bắt gặp, nghe thấy ở bất cứ thời
điểm nào. Tại sao lại như vậy, tại họ thiếu tình thương, thiếu sự
hiểu biết thông cảm lẫn nhau nên mới đưa đến những sự việc như
vậy.
Trước tình cảnh ấy, Phật giáo xây dựng nên năm giới như là thước
đo, là thành trì để bảo vệ, xây dựng hạnh phúc, đạo đức xã hội. Tuy
nhiên, năm giới là điều kiện tối thiểu mà không phải là tất cả của

người Phật tử. Nếu thực hành được năm giới này một cách hoàn
chỉnh là đã xây dựng một thế giới an bình hạnh phúc, hay một nhân
gian tịnh độ theo Phật giáo. Vậy năm giới ấy là gì? Đó là không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống
rượu.
Trong năm giới ấy, mỗi mỗi đều được kiến tạo trên tinh thần xây
dựng, bảo vệ lợi ích cá nhân và cộng đồng. Khi mình giữ giới, không
những cá nhân được lợi ích mà cả những người chung quanh cũng
ảnh hưởng những hạnh phúc theo. Như các bậc cổ nhân thường
nói: “nhất nhơn tác phước thiên nhân hưởng, độc thọ khai hoa vạn
thọ hương” là bởi ý ấy. Ngoài ra năm giới còn có một số tính chất
tiêu biểu như sau:
1. Mọi người ai cũng muốn bảo vệ đời sống, thân mạng, của cải,
hạnh phúc của mình mà không muốn có bất cứ sự xâm hại
nào từ người khác. Không muốn người làm tổn hại mình thì
cũng không làm tổn hại người. Như vậy, hạnh phúc ở đây luôn
được bảo vệ bởi tính chất hai mặt của sự thọ trì giới. Ngoài
ra, mình sẽ không bị quả báo cũng như kết những mối oán thù
bởi do mình thọ trì giới này.
2. Ý thức được rằng, nếu không thực hành những điều giới trên
thì không những cá nhân mình tổn hại mà cả gia đình, xóm
làng và xã hội mình chung sống không những không bảo toàn
được sự an lạc, hạnh phúc mà còn có thể là nguyên nhân dẫn
đến những sự đấu tranh, xung đột và có thể tiêu diệt lẫn nhau.
Do đó, không làm điều ác mà cần phải làm điều thiện; không
trộm cướp mà, của cải, phẩm hạnh mà còn phải bố thí; không
gây tổn hại mạng sống mà phải phóng sanh; không tà hạnh
mà phải bảo vệ phẩm hạnh của tất cả mọi người; không nói
dối, dua nịnh mà nói lời ngay thẳng, chân thật, lợi ích; không
uống rượu, sử dụng chất kích thích mà phải xóa tan những

thứ ấy và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
3. Thọ trì năm giới là thực hành năm sự bố thí vô hạn, hay còn
gọi là Ngũ đại bố thí. Bởi không giết hại thì mọi người chung
quanh không có còn lo sợ sát hại; không trộm cắp nên nên mọi
người không sợ mất trộm, cướp giật; không tà hạnh thì mọi
người thì mọi người không sợ bị quấy nhiễu… chính nhờ thọ
trì giới mà mọi người luôn yên ổn, hạnh phúc, tin tưởng nhau,
cuộc sống không còn sợ hãi thì tất nhiên bóng dáng của khổ
cũng không còn.
4. Giới luật của Phật giáo được xây dựng trên nền tảng từ bi và
trí tuệ, cho nên ngũ giới cũng có nền tảng từ bi và trí tuệ. Điều
cần phải chú ý khi thọ trì ngũ giới là phải luôn thực hành, xây
dựng tình thương và trí tuệ. Tình thương để bồi đắp, xây dựng
cuộc sống thêm đáng yêu đáng sống; trí tuệ để thấy, để nhận
biết những ác pháp, lỗi lầm mà tránh xa. Vì thế, trì ngũ giới
cũng chính là thực tập tâm từ bi và trí tuệ. Và đây cũng chính
là nét đặc biệt nhất của Ngũ giới hay Phật giới.
Với những điều trình bày ở trên, tuy có thể chưa đầy đủ những nét
đặc sắc của giới luật Phật giáo nhưng ở một chừng mực nào đó đã
cho chúng ta thấy được những điểm trọng yếu, cơ bản để xây dựng
nền tảng đạ đức thế gian.
1. GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI
Giới luật phật giáo ngay từ xa xưa đã khẳng định được vai trò
trọng yếu của nó trong đời sống tăng đoàn cũng như sự trường tồn
của chánh pháp. Và ngày nay, giới luật không những không còn giá
trị mà ngược lại nó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Chúng ta cần lưu ý rằng, thời Phật tại thế, tăng đoàn đa phần là
những bậc thánh giả vô lậu tu tập, sinh hoạt thế mà vẫn còn có
những hữu lậu phát sanh làm quấy nhiễu đời sống thanh tịnh, hòa
hợp đến nỗi khiến đức Phật phải chế giới luật để ngăn chặn và bảo

vệ. Còn trong thời đại ngày nay, tăng đoàn Phật giáo không những
bị lợi ích vật chất chi phối một cách sâu nặng, tâm trí u ám, nghiệp
chướng sâu dày mà bên cạnh đó còn có kẻ lợi dụng những danh
nghĩa khác nhau để trà trộn vào Phật giáo phá hủy đạo Phật. Hiện
tượng này không phải hiếm mà nhan nhãn khắp nơi, mọi tự viện và
tỉnh thành. Điều đáng buồn hơn là tăng già Phật giáo lại bị điều
khiển bởi những nhân vật này khiến cho Phật giáo không còn đúng
với nguyên nghĩa của nó. Tất nhiên trong những trường hợp ấy,
giới luật không phải không phát huy được tác dụng mà bởi vì sự
lãng quên của những người hành trì hay bởi sự cố tình vùi dập của
một vài thành phần bất chánh trà trộn trong Tăng đoàn đó.
Cũng có một số Tỳ kheo, không biết vì vô tình hay cố ý, mà rêu rao
hủy bỏ giới luật hay không công nhận những giá trị của giới luật
mang lại. Họ cho rằng giới luật thật sự không cần thiết trong thời
đại mà ta chỉ cần bấm nút là có thể lên tới cung trăng, rằng những
người thọ trì giới luật là những cổ lỗ xỉ, là lạc hậu. Đối với họ, chỉ
cần thâu thập thật nhiều kiến thức khoa học thế gian là có thể làm
thầy thiên hạ và có đủ mọi sự cung dưỡng rồi.
Tất nhiên, nguyên nhân chủ yếu vẫn là người thọ trì Phật giới ngày
hôm nay không quyết tâm, chí thiết trong thọ trì cũng như không
am hiểu về giới luật nên khi vướng mắc vào sự việc liền lúng túng
không biết cách xử sự, đôi khi thành ra phá giới, phá kiến. Đức phật
dạy: “chỉ có trùng trong sư tử mới ăn thịt của sư tử”. Cũng vậy, sự
hòa hợp thanh tịnh của tăng đoàn, sự trường tồn của Phật pháp
nếu có hoại diệt cũng bởi chính những thành phần đệ tử Phật
không thọ trì giới luật mà thôi.
 KẾT LUẬN
Cần phải hiểu giới luật không phải là điều kiện tối ưu mà là điều
kiện cuối cùng. Quan trọng nhất là phải tự giác ngộ bản thân và cải
đổi tâm ý. Khi tâm thanh tịnh thì mọi cảnh giới đều thanh tịnh,

nghiệp chướng cũng tiêu trừ. Trong trường hợp không thể bảo vệ
đời sống thánh thiện giải thoát thì lúc ấy giới luật là hàng rào bảo
vệ những phạm hạnh, đạo đức cũng như sự thanh tịnh hòa hợp.
Khi nào xã hội còn có những vướng mang trong vòng tội lỗi, khi nào
tăng đoàn Phật giáo còn có những hữu lậu phát sinh thì khi ấy vẫn
cần sự hiện hữu của giới luật.
Xã hội biến đổi, thời gian biến đổi, con người cũng thay đổi thế
nhưng giới luật vẫn giữ nguyên trạng thái cũ tất sẽ không phù hợp
với lối sống và hoàn cảnh hiện tại. Do vậy, muốn giới luật mãi còn
được lợi ích và giữ vững giá trị của nó thì đòi hỏi chúng ta cần phải
có những cái nhìn thong thoáng về giới luật. Ngoại trừ những tánh
giới, những điều còn lại chúng ta cần phải có một cái nhìn và ứng
xử cho thật linh động phù hợp.
Tuy nhiên công việc ấy thật khó khăn, khó có ai dám đảm đương.
Nhưng thiết nghĩ, thuở xưa, văn hóa tập tục khác nên dân tộc ta ăn
mặc những trang phục khác, còn thời điểm hiện tại, thuận theo trào
lưu chung, lối trang sức ăn mặc của chúng ta cũng thay đổi theo,
miễn sao không có sự lập dị và trái lại với thuần phong mỹ tục thì
sự thay đổi ấy là cần thiết.
“Nếu chúng ta giữ gìn những quy chế mà thực tế nó không có môi
trường để “dừng ác sinh thiện” thì quả là vô bổ, nhọc sức”.[8] Do đó,
thánh giới của Phật giáo sở dĩ còn mãi giá trị chính là ở tính linh
hoạt và bảo đảm được sự thanh tịnh hòa hợp trong Tăng đoàn. Một
khi giới luật không thõa mãn các điều kiện ấy thì thiết nghĩ giới
luật chỉ là một mớ giáo điều ràng buộc con người trong khổ đau mà
thôi.
[1] Thích trí thủ, tâm như trí thủ toàn tập. tphcm: nxb tphcm,
2002, tr.116
[2] Thích trí thủ, tâm như trí thủ toàn tập. tphcm: nxb tphcm, 2002,
tr102

[3] Thật Dụng Phật Học từ điển (chữ hán). Trung hoa dân quốc thứ
23, hương cảng phật kinh xuất bản, tr.918
[4] Tuệ Đăng dịch, Giới Luật Cương Yếu, tr.320
[5] Thích Đổng Minh (dịch). Luật Ngũ Phần tập I, quyển 1 (lưu hành
nội bộ).1997, tr.6
[6] Thích Đổng Minh (dịch). Luật Ngũ Phần tập II, quyển 22 (lưu
hành nội bộ).1997, tr.204
[7] Trí Hải Và Bửu Đích dịch, Câu Chuyện Triết Học của Will Durant.
Sài gòn, Tủ Thư Vạn Hạnh.1971, tr. 18
[8] Thích Minh Thông, Theo Dấu Chân Xưa. TPHCM: NXB Tôn giáo,
2003, tr. 4

×