Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN_Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn vẽ trang trí ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.75 KB, 15 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, muốn giáo dục con người, điều đầu tiên là phải giáo
dục nhân cách con người qua 4 yếu tố "đức, trí, thể, mỹ". Đó là vừa là mục tiêu
giáo dục,vừa là mục tiêu phát triển con người toàn diện hiện nay. Trong 4 yếu tố
đó thì "mỹ" hay nói đầy đủ hơn là giáo dục thẩm mỹ là một trong những yếu tố
để hình thành phát triển nhân cách toàn diện. Trước đây, giáo dục thẩm mỹ chưa
được coi trọng phát triển trong giáo dục nhà trường, nhưng bây giờ, yêu tố này
rất được chú ý - thể hiện ở việc đưa các môn năng khiếu nói chung và mỹ thuật
nói riêng vào nhà trường.
Môn mỹ thuật chính là hiện thân của yếu tố thẩm mỹ. Đây là môn học vừa
giúp người học tạo ra cái đẹp bằng hình thức vẽ và vừa giúp người học cảm nhận
cái đẹp trong cuộc sống nhằm phục vụ nhu cầu vật chất, tinh thần của con người.
Chính vì lý do đó, việc con người nhận thức, thể hiện và đưa cái đẹp hỗ trợ cho
cuộc sống của mình ngày càng đa dạng, phong phú hơn. Chúng ta biết rằng, mỹ
thuật gồm nhiều loại hình nghệ thuật với đặc điểm và ngôn ngữ riêng. Cùng với
âm nhạc, kiến trúc, điện ảnh chúng hỗ trợ cho nhau để hoàn thành tác phẩm
bằng tư tưởng tình cảm của nghệ sĩ thông qua ngôn ngữ tạo hình là sử dụng
đường nét, màu sắc, hình mảng, bố cục Vẽ trang trí là một phân môn quan
trọng. Vẽ trang trí là thể hiện cái đẹp của sự trình bày bằng nghệ thuật sắp xếp
đường nét, màu sắc, hình mảng. Trang trí bắt nguồn từ thực tế đời sống xã hội.
Mỗi thời đại, trang trí có những đặc điểm và yêu cầu khác nhau, cũng như nhìn
nhận cái đẹp của trang trí qua từng thời kì xã hội, tôn giáo cũng có nhiều vẻ riêng
biệt. Trang trí luôn là một nhu cầu thiết yếu của con người, của xã hội, của nền
kinh tế quốc dân và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống (kiến trúc, đô thị
trang trí nội thất, trang trí ngoại thất, trang trí ấn loát, trang trí phục trang, trang
trí điện ảnh sân khấu )
Từ xa xưa trang trí luôn luôn gắn bó với đời sống con người, bất kỳ dân
tộc trên thế giới cũng có những màu sắc và đường nét riêng biệt, đậm đà bản sắc
dân tộc của mình. Nhìn vào lịch sử chúng ta thấy thể hiên rõ nhất ở các hoa văn,
họa tiết trong các đồ dùng (trống đồng, mũi tên, thuyền bè, cán dao, thố cẩm ),


trên các đình chùa lăng tẩm (hoa văn trên bia đá, họa tiết chim lạc ở trống đồng,
họa tiết rồng phượng, họa tiết trên các kèo cột ). Xung quanh chúng ta bất kỳ
một đồ vật nào cũng được trang trí. Từ những vật nhỏ như quyển sách, quyển vở,
cây bút đã có hình dáng màu sắc trang trí khác nhau đến quần áo, vải vóc, bàn
ghế, ấm chén, gạch hoa các công trình văn hóa (nhà hát, công viên ) thì hình
dáng màu sắc càng muôn vẻ và tinh tế. Những kết quả đó nói lên sự sáng tạo về
trang trí vô cùng phong phú và to lớn của con người.
1

Trống đồng Đông Sơn Nhãn vở Gạch lát nền .

Bìa sách Tường nhà

Tường nhà Gối.
2
Ngay trong lớp học việc quét vôi màu gì cho sáng sủa, những khẩu hiệu,
tranh ảnh nên dùng và treo như thế nào cho hợp lý, để vừa tạo sự vui mắt trong
lớp, vừa để động viên nhắc nhở việc học tập của học sinh (HS). Bàn ghế bài trí
như thế nào cho vừa đẹp mắt, vừa thuận tiện cho việc ra vào lớp của học
sinh Tất cả những việc đó cũng nằm trong lĩnh vực trang trí. Nó rất cần thiết và
có ảnh hưởng lớn tới việc học tập và tình cảm của học sinh.
HS trung học cơ sở (THCS) đang ở ngưỡng của sự hình thành phát triển
nhân cách và cuộc sống. Những kiến thức cơ bản ban đầu qua phân môn vẽ trang
trí ở nhà trường sẽ giúp các em cách nhìn nhận về cái đẹp trong cuộc sống, từ đó
sáng tạo nên cái đẹp, đưa cái đẹp vào cuộc sống của mình bằng chính khả năng
và sự cảm nhận riêng của các em.
Chính vì tầm quan trọng của vẽ trang trí trong việc giáo dục thẩm mỹ cho
học sinh trong nhà trường THCS cũng như trong đời sống xã hội nên bản thân tôi
quyết định chọn đề tài "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy phân
môn vẽ trang trí ở trường THCS" làm đề tài nghiên cứu cho sáng kiến kinh

nghiệm của mình.
Nội dung sáng kiến đã được khá nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Ví dụ
như "một số phương pháp nâng cao hiệu quả dạy học phân môn vẽ trang trí" của
cô Phạm Hồng Thư, THCS Nguyễn Tri Phương, Đông Hà, Quảng Trị; "một số
phương pháp giúp học sinh học tốt phân môn vẽ trang trí" của thầy Lê Văn Tuấn
ở Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam.
Bản thân tôi cũng đã nghiên cứu, trăn trở về vấn đề này để đưa ra một số
giải pháp phù hợp với điều kiện giảng dạy của giáo viên và điều kiện học tập của
học sinh. Điểm mới của sáng kiến này là giải quyết một số vấn đề cơ bản để việc
giảng dạy phân môn vẽ trang trí trong trường THCS hiện nay có hiệu quả hơn,
tác động tích cực đến nhận thức của học sinh về việc sáng tạo và cảm nhận cái
đẹp.
1.2. Phạm vi áp dụng của sáng kiến
Dùng cho phân môn vẽ trang trí từ lớp 6 đến lớp 9 của môn mỹ thuật ở
trường THCS.
3
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.
*Về phía nhà trường.
Là một môn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học nghiêm
túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những tiêu chuẩn
để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học. Song thực tế hiện nay cho thấy rằng cơ sở
vật chất cho việc dạy và học mĩ thuật ở THCS thiếu thốn và nghèo nàn, nhà
trường chưa có phòng dạy mĩ thuật riêng. Tranh ảnh tuy đã được nghiên cứu và
sản xuất nhưng chưa đủ đáp ứng cho dạy - học mĩ thuật, chỉ có tranh đồ dùng dạy
học của khối 6 và khối 8 nhưng chưa đầy đủ, sách đọc thêm và các tài liệu tham
khảo khác rất hiếm. Giáo viên phải tự tìm tài liệu, đồ dùng dạy học phục vụ cho
giảng dạy. Mặt khác, có một số trường còn xem mỹ thuật là môn phụ, ít quan tâm
đến kiểm tra đánh giá chất lượng, xem dạy học mỹ thuật là bề nổi, có tính chất
phong trào. Không ít giáo viên dạy mỹ thuật theo kiểu chuyên nghiệp, dạy kĩ

thuật vẽ là chủ yếu, chưa chú ý đến mục tiêu là giáo dục thẩm mỹ cho học sinh,
đồng thời chưa phát huy được khả năng độc lập suy nghĩ tìm tòi của HS.
* Về phía học sinh.
Đối với HS trường THCS Liên Thủy, các em đã được học mỹ thuật từ tiểu
học đến nay. Tuy nhiên, HS ít được quan sát, tham quan danh lam thắng cảnh và
bảo tàng. Vì thế hiểu biết về mĩ thuật, về cái đẹp chưa sâu rộng, không kích thích
các em học tập. Bên cạnh đó, học sinh chưa thực sự nhận thức đúng đắn mục
đích, vai trò, vị trí của môn mỹ thuật. Đa phần HS bị chi phối, ảnh hưởng về các
môn chính, môn phụ của xã hội, nhà trường. Các em phải tập trung cho các môn
chính, lo cho thi, lo đánh giá, phần nào bỏ qua sao lãng môn mĩ thuật. Hơn nữa,
do thiếu phương tiện học tập, phương pháp thực hành thiếu linh hoạt, nên bài vẽ
của các em thường khô khan, thiếu phóng khoáng, đôi khi gò bó, công thức.
* Kết quả thực trạng trên: Trong những năm học trước, qua khảo sát chất
lượng phân môn vẽ trang trí, tôi nhận thấy kết quả chưa được cao, cụ thể:
Khối Năm học Số
lượng
Đạt Chưa đạt
SL % SL %
6 2011 - 2012 98 81 81.6 17 18.4
7 2011 - 2012 97 80 82.5 17 17.5
8 2011 - 2012 98 81 82.7 17 17,3
9 2011 - 2012 103 83 80.6 20 19.4
Từ thực trạng trên, để việc học mĩ thuật, đặc biệt là phân môn trang trí đạt
hiệu quả tốt hơn, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm của bản thân nhằm
4
nâng cao hiệu quả của phân môn vẽ trang trí ở bậc THCS, cụ thể là những giải
pháp giảng dạy vẽ trang trí áp dụng cho từ lớp 6 đến lớp 9. Tôi nhận thấy đa phần
các em đều rất thích hoạt động tạo hình, việc vẽ, xem các tác phẩm mĩ thuật dần
dần đã hình thành ở các em. Các em hứng thú học vẽ trang trí hơn, bài vẽ của
các em đẹp hơn, có tiến bộ rõ rệt về cách dùng màu. Qua đó đã chứng minh khả

năng thẩm mĩ của các em.
2.2. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
Khi giảng dạy phân môn trang trí, giáo viên giảng dạy mỹ thuật cần phải:
2.2.1. Đảm bảo đúng nội dung chương trình.
Trang trí là một nhu cầu thiết yếu với con người, với xã hội, với nền kinh
tế quốc dân và chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống (kiến trúc đô thị, trang
trí nội, ngoại thất, trang trí phục trang, trang trí điện ảnh sân khấu…).
Phân môn trang trí ở THCS được đưa vào từ lớp 6 đến lớp 9, trong một
năm học lớp 6 có 9 tiết, lớp 7 có 8 tiết, lớp 8 có 8 tiết, riêng lớp 9 chỉ học 1/2
tiết/tuần cho nên chỉ có 6 tiết. Vì vậy nội dung cơ bản được chọn lọc hết sức cơ
bản. Khác với các trường nghệ thuật chuyên đào tạo các hoạ sĩ, bởi số thời gian
học chuyên môn ở các trường nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn ở trường THCS
(nơi dạy nghệ thuật đại trà) thời gian rất eo hẹp, mỗi bài học và làm, gói gọn
trong một tiết học (45 phút). Những bài học chủ yếu nhằm nâng cao về kiến thức
trang trí, phương pháp thể hiện cũng như thực hành ứng dụng trong đời sống và
các bài học cơ bản như (Hình vuông, hình tròn, hình chữ nhật, đường diềm) được
sắp xếp học đi học lại nhiều lần ở mỗi lớp nhằm giúp học sinh nắm vững kiến
thức trong bố cục trang trí và phát huy khả năng tìm tòi sáng tạo. Khả năng của
học sinh sẽ được nâng cao dần theo từng lớp học vì vậy việc học trang trí được
tiến hành đúng quy trình nhằm khuyến khích sự tìm tòi, sáng tạo, độc đáo của
học sinh khi làm bài. Chương trình và nội dung học trang trí ở THCS có sự sắp
xếp mang tính đồng tâm, phát triển để HS tiếp cận môn học từ dễ đến khó, từ tô
màu đến tìm màu, từ vẽ thêm hoạ tiết cho đều đến sự tìm hoạ tiết để sắp xếp…
nên việc đảm bảo đúng nội dung chương trình rất quan trọng.
2.2.2. Đảm bảo tính đồng tâm trong trang trí.
Trong trang trí có một số bài học mang tính chất bắt buộc, những bài trang
trí này được gọi là: bài học trang trí cơ bản (cách dùng màu, cách sắp xếp (bố
cục) trong trang trí, trang trí hình vuông, trang trí hình chữ nhật, trang trí hình
tròn, trang trí đường diềm…). Tuỳ theo từng bậc học, từng lớp để phân bố sao
cho phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và trình độ nhận thức của HS. Những bài cơ

bản này sẽ lặp đi lặp lại không chỉ có ở các trường tiểu học - THCS mà còn học
tới các trường cao đẳng, đại học… Các bài học trang trí cơ bản là cơ sở cho sự
nhận thức cái đẹp và giúp người học vận dụng kiến thức đó vào đời sống thực tại.
Giáo viên khi dạy các bài trang trí cơ bản cần quan tâm đến:
5
- Nâng cao dần về sắp xếp, chọn lọc hoạ tiết.
- Sự cân bằng trong tổng thể bố cục
- Phối hợp các thể thức trong trang trí áp dụng vào các bài trang trí cơ bản,
các thể thức (đăng đối, xen kẽ, phá thế, nhắc lại…)
- Sử dụng đậm nhạt và màu sắc sao cho phù hợp.
2.2.3. Đảm bảo tính thực tiễn trong trang trí đối với nhà trường phổ thông.
Nghệ thuật trang trí bao giờ bao giờ cũng gắn liền với đời sống. Nó bắt
nguồn từ cuộc sống và trở lại phục vụ cho cuộc sống, vì vậy mà chương trình, nội
dung dạy học trang trí ở trường phổ thông phải được quan tâm gắn với đời sống
của HS và xã hội. Có những bài tưởng như chỉ là trang trí đơn giản (trang trí
nhãn vở) nhưng thực chất có sự liên quan rất phong phú của những bài trang trí
cơ bản (trang trí hình chữ nhật, trang trí ứng dụng…) hoặc trong trang trí trại hè,
một bài gắn liền với đời sống sinh hoạt của HS được thể hiện bằng nhiều kiến
thức tổng hợp (kiến thức kẻ chữ, trình bày, sắp xếp và bao quát…)
Nội dung các bài trang trí trong chương trình phổ thông đều gắn liền với
sinh hoạt của HS, đòi hỏi HS luôn luôn tìm tòi, sáng tạo như các bài: Trang trí đồ
vật có dạng hình vuông và hình chữ nhật, trang trí trại hè, trang trí báo tường,
trang trí lọ hoa, trang trí bìa lịch, trang trí mặt nạ, trang trí bìa sách, trang trí túi
xách…
Giáo viên cần quan tâm khi dạy các bài có trang trí ứng dụng.
- Hướng dẫn HS không sao chép, bắt chước những hình vẽ hoặc đồ vật có
sẵn.
- Khuyến khích HS tìm tòi, linh hoạt gây ý thức tự tạo cho mình một sản
phẩm độc đáo để sử dụng (làm lấy bìa lịch để treo, làm mặt nạ, làm bìa sách,
trang trí thời khoá biểu hoặc vẽ trên đĩa treo tường…)

- Hướng dẫn các em quan tâm đến nghệ thuật trang trí ứng dụng mang tính
thực tiễn và chú ý đến cách vận dụng những kiến thức trang trí cơ bản vào trang
trí ứng dụng.
2.2.4. Đảm bảo tính dân tộc trong trang trí.
Dân tộc nào cũng có những màu sắc và những nét riêng biệt. Nhìn vào lịch
sử, chúng ta thấy thể hiện rõ nhất ở các hoa văn, hoạ tiết cổ trong các đồ dùng
(trống đồng, mũi tên, thuyền bè, cán dao thổ cẩm…) trên các đình chùa, lăng tẩm
(hoa văn trên các bia đá, hoạ tiết chim lạc ở trống đồng và hoạ tiết con rồng, con
phượng hoặc hoạ tiết hoa sen trên các kèo cột…). Để có những hoạ tiết vốn cổ
dân tộc không phải dễ dàng.
Trong chương trình THCS có 1 bài học về vốn cổ dân tộc, ngoài việc tìm
hiểu, sưu tầm các tư liệu quý báu cho phần bài giảng nhằm nâng cao lòng tự hào
dân tộc, khâm phục tài nghệ của ông cha ta, giáo viên cần lưu ý:
6
- Cho HS chép nhiều hoạ tiết dân tộc (hoa sen, hoa cúc, mặt trời…) nhằm
giúp các em quen tay đưa nét vẽ mềm mại và hướng dẫn các em:
- Biết sử dụng hợp lí những hoạ tiết cổ vào trong các bài làm trang trí.
- Biết đơn giản, cách điệu hoạ tiết mới mang hình dáng, đường nét dân tộc.
2.2. 5. Đảm bảo tính khoa học cơ bản trong trang trí.
Bản thân trang trí hết sức khoa học, khoa học về sắp xếp, khoa học về sử
dụng màu sắc. Một bức tường được sơn màu xanh nhạt sẽ cho ta cảm giác mát
mẻ, khi sơn màu hồng ta thấy ấm áp. Một bức tranh treo trong phòng tiếp khách
khác với nội dung bức tranh treo ở phòng ăn. Vì vậy chúng ta thấy trang trí
không chỉ có đẹp mà còn hết sức khoa học.
Nội dung cơ bản trong trang trí ở THCS bao giờ cũng bắt nguồn từ tính
vừa sức, HS tiếp thu được một cách thoải mái phù hợp với khả năng nhận thức
của các em. Giáo viên phải nắm vững đối tượng để truyền thụ kiến thức phù hợp
với khả năng nhận thức của HS. Một số giáo viên ít chú trọng đến sự tiếp thu của
HS, giảng lí thuyết liên miên, trình bày nhiều kiến thức, sử dụng nhiều ngôn từ
khó hiểu khiến bài giảng không đạt yêu cầu. Ngược lại, nhiều giáo viên biết định

mức kiến thức cơ bản, truyền thụ có trọng tâm, coi trọng khâu thực hành đã đem
lại kết quả tốt đẹp.
2.2.6. Nắm được yêu cầu cơ bản của dạy - học trang trí ở trường THCS.
* Yêu cầu đối với người học trang trí.
- Phải có phương tiện để học và thể hiện làm bài trang trí như: bút chì, tẩy,
thước kẻ, compa, màu bút dạ, màu sáp, giấy A
4
….
- Thông qua bài giảng, HS biết cách làm một bài trang trí theo đúng
phương pháp (tìm và sắp xếp các mảng hình chính, phụ, tìm chọn và sắp xếp hoạ
tiết, tìm đậm nhạt và tìm màu). Học vẽ trang trí HS cần có một tư duy sáng tạo và
say mê, tìm tòi để bài vẽ có hiệu quả cao.
* Đối với giáo viên:
- Phải nắm vững chương trình dạy vẽ trang trí của mỗi lớp thông qua các
bài cụ thể, mỗi bài dạy trang trí phải đảm bảo đúng kiến thức cơ bản, có trọng
tâm, mang đặc trưng môn học.
- Biết mở rộng kiến thức trong mỗi bài dạy bằng sự hướng dẫn HS tìm tòi,
sáng tạo (tìm hoạ tiết, tìm bố cục, tìm màu cho hài hoà…). Hướng dẫn HS cách
làm bài trang trí và góp ý kiến từng bài của HS.
7
*Một số họa tiết vốn cổ dân tộc
8
2.2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy phân môn vẽ
trang trí.
Ngày nay, công nghệ thông tin là một lĩnh vực vô cùng quan trọng góp
phần làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội hiện đại. Trong dạy
học cũng vậy, đặc biệt là với bộ môn mỹ thuật và phân môn vẽ trang trí vì những
tư liệu sử dụng minh họa cho bài học có rất nhiều trên internet. Ứng dụng công
nghệ thông tin, dùng máy chiếu hiển thị những kiến thức, tranh ảnh phục vụ cho
bài học sẽ giúp học sinh dễ nhận biết, dễ nhớ các bước vẽ, cách sắp xếp bố cục

làm tăng hiệu quả học tập. Hơn thế, nó còn tạo ra môi trường học tập sinh động
mà trong đó người học đóng vai trò là chủ thể, người học được hoạt động thực sự
với phương tiện. Điều đó sẽ giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian để truyền đạt
thông tin và có thời gian để tổ chức cho HS thực hành nhiều hơn.
Trước tiên, giáo viên phải tìm hiểu nội dung bài dạy, tiếp đó sẽ thu thập
nguồn tư liệu thông tin sử dụng minh họa bài dạy trên internet. Ví dụ: bài trang
trí hình vuông ở lớp 6, chúng ta sẽ tìm được rất nhiều hình ảnh tư liệu về các đồ
vật dạng hình vuông (viên gạch hoa, tấm thảm, khăn trải bàn, khăn tay, gối ) và
khá nhiều bài trang trí hình vuông của học sinh, sinh viên. Sau đó chúng ta sẽ xây
dựng kịch bản cho bài giảng dựa trên giáo án word, chúng ta sẽ sắp xếp kiến thức
theo trình tự và thêm hình minh họa vào. Sử dụng nó như một bảng phụ nhưng sẽ
đem lại hiệu quả cao so với cách dạy truyền thống. Đặc biệt, chúng ta phải rèn
luyện kỹ năng thể hiện kịch bản hay nói cách khác là thể hiện bài dạy, rèn luyện
kỹ năng liên kết giữ nội dung bài dạy và trình chiếu kiến thức.
2.2.8. Nắm vững cách thức, biện pháp tổ chức thực hiện tiết dạy vẽ trang trí.
* Cách thức, phương pháp giảng dạy trang trí cơ bản:
- Hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung bài trang trí: Mục đích nhằm phân biệt
bài trang trí thuộc loại nào: trang trí cơ bản hay trang trí ứng dụng, nếu là trang
trí cơ bản thì bố cục, hoạ tiết, màu sắc luôn có sự tìm tòi để có một bài vẽ trang
trí có bố cục đẹp, hài hoà. Còn nếu là bài trang trí ứng dụng thì phải lưu ý đến
tính thực tiễn khi sử dụng như: hoạ tiết, màu sắc, bố cục phù hợp với nội dung
yêu cầu sử dụng. Mỗi nội dung bài trang trí đều có những kiến thức chủ yếu,
thông qua giảng dạy những kiến thức chủ yếu này giúp HS hiểu được lí thuyết,
nắm được cách làm. Ví dụ trong bài: "Trang trí lọ hoa", chỉ yêu cầu HS trang trí
trên các lọ hoa sao cho đẹp. Còn phần tạo mẫu dáng lọ hoa, yêu cầu HS tìm kiểu
lọ, sao cho có được những kiểu lọ mới, lạ và đẹp. Nội dung bài học rất phong
9
phú, đa dạng song thực tế thời gian không cho phép giáo viên giảng giải lí thuyết
quá nhiều vì nếu nói nhiều sẽ thiếu thời gian cho HS thực hành. Bởi vậy mỗi nội
dung bài dạy, giáo viên phải cân nhắc, suy nghĩ để lựa chọn những kiến thức cơ

bản nhất, thiết yếu nhất, trọng tâm nhất sao cho phù hợp với nội dung yêu cầu và
đảm bảo thời gian bài học.
- Hướng dẫn HS tìm mảng hình: hướng dẫn kỹ để học sinh tìm được mảng
hình chính, phụ. Ví dụ:
Trên cơ sở các mảng hình đó để tìm các hoạ tiết phù hợp. Ví dụ:

Cuối cùng bài trang trí nào cũng phải tô màu nhưng công việc tô màu của
HS tiểu học khác với tìm màu để thể hiện ở học sinh THCS, cần phải hướng dẫn
HS biết cách sử dụng màu sắc sao cho hợp lí và hài hoà. Có thể sử dụng hoà sắc
nóng hay hoà sắc lạnh, sử dụng các gam màu trầm hay các gam màu sáng.
Trong mỗi bài vẽ trang trí phải tìm màu chủ đạo. Từ màu chủ đạo tìm các
màu khác đặt vào cho hợp lí và cân nhắc đặt các màu cạnh nhau cho hài hoà. Quá
trình vẽ một bài trang trí là quá trình tìm tòi, suy nghĩ để quyết định dùng màu
nào cho hợp lí, muốn vậy HS phải thuộc bảng pha màu, đó là cơ sở để khám phá,
tìm ra các màu mới, tạo nên các hoà sắc đẹp.
10
*Một số điểm lưu ý khi dạy trang trí:
- Hướng dẫn HS sử dụng hình mảng, đường nét: Phải dứt khoát mới tạo
nên bố cục chặt chẽ, cần tránh những bố cục lỏng lẻo hoặc nặng nề do cách sắp
xếp hình mảng không hợp lí.
- Những bố cục cần tránh:
- Những bố cục nên làm:
11
*. Phương pháp giảng dạy lí thuyết trang trí: Trong chương trình dạy phân
môn trang trí các lớp 6 - 7 - 8 – 9, không có bài lí thuyết dành riêng cho một tiết,
thường lí thuyết được giảng trước khi HS làm bài. Thời gian này chỉ chiếm
khoảng 15 đến 17 phút. Do đó những kiến thức cơ bản giáo viên phải chắt lọc có
trọng tâm để truyền thụ cho HS. HS có thể căn cứ vào đó để làm bài cho có hiệu
quả. Tuy nhiên giáo viên có thể tổ chức để mở rộng kiến thức cho HS vào các
buổi học tự chọn, ngoại khoá, nghe nói chuyện…Căn cứ vào yêu cầu của bài để

giảng cho HS, có bài rất cần nhiều thời gian như: phương pháp bố cục, phương
pháp và cách dùng màu trong trang trí, phương pháp sáng tác tranh cổ động…Dù
thời gian dài hay ngắn thì bài lí thuyết dạy trang trí cũng phải lưu ý:
- Cần xây dựng nội dung trọng tâm bài trang trí: Tìm hiểu khái niệm cơ bản,
sử dụng những dẫn chứng thực tế, hình ảnh, đồ vật cụ thể có tác dụng và sức
thuyết phục cao để minh hoạ cho khái niệm cơ bản.
- Mở rộng nội dung cơ bản bằng những dẫn chứng cụ thể như: cho HS quan
sát tranh, ảnh, đồ vật, bài làm đúng, sai, giáo viên phân tích và rút ra kết luận. Sự
liên hệ với đời sống thực tế rất cần cho bài học lí thuyết, giáo viên nên có nhiều
liên hệ thực tế để làm rõ hơn những khái niệm vừa được trình bày. Trong chương
trình trang trí hầu hết các bài đều có sự liên hệ đến thực tế.
- Ví dụ: các bài trang trí cơ bản như hình vuông, hình tròn, đường diềm,
hình chữ nhật…hoặc các bài trang trí ứng dụng như: Kẻ chữ, trang trí quạt giấy

- Giáo viên có thể sử dụng các bài học cũ của HS lớp trước để phân tích và
cũng nên tìm tòi chọn một vài đồ vật như: tờ báo, lọ hoa bằng gốm, hộp mứt các
loại…nhằm giúp HS mở rộng thêm kiến thức học trang trí gắn liền với đời sống.
12
- Phần lí thuyết chỉ giúp HS nắm vững những khái niệm cơ bản, những dự
định sẽ làm và những kiến thức tạo cơ sở ban đầu cho sự hình thành sáng tạo, tìm
tòi để HS vận dụng trong bài trang trí cụ thể, vì vậy bài lí thuyết phải có trọng
tâm. Giáo viên giảng giải vừa sức với khả năng nhận thức của HS và có nhiều
liên hệ thực tế để HS dễ hiểu và dễ làm bài. Khi giảng lí thuyết cơ bản, giáo viên
nên đặt nhiều câu hỏi, giúp các em nắm chắc hơn bài học và làm cho tiết dạy
thêm sinh động.
- Lí thuyết cơ bản không chỉ dừng ở phần giảng cho toàn lớp mà GV cần
sử dụng nó khi hướng dẫn góp ý cho từng em. Thông qua bài làm của HS, giáo
viên có thể biết ngay những phần lí thuyết các em có nắm chắc hay không và trên
cơ sở đó góp ý, nhắc lại những phần lí thuyết đã dạy, giúp các em sửa chữa, tìm
cách giải quyết mới trong bài làm trang trí.

2.2.9. Kết quả đạt được
Áp dụng các giải pháp nêu trên và qua một số bài học cụ thể, tôi khảo sát
và thấy chất lượng học môn mĩ thuật nói chung và phân môn trang trí nói riêng
của HS trường THCS Liên Thủy được nâng lên rõ rệt. So sánh năm học 2011 -
2012 và HKI năm học 2012- 2013, khảo sát phân môn vẽ trang trí :
Khối Năm học Số
lượng
Đạt Chưa đạt
SL %
6 2011 - 2012 98 81 81.6 17 18.4
HK I *2012- 2013 96 96 100 0 0
7 2011 - 2012 97 80 82.5 17 17.5
HK I *2012- 2013 98 98 100 0 0
8 2011 - 2012 98 81 82.7 17 17.3
HK I *2012- 2013 97 34 100 0 0
9 2011 - 2012 103 83 80.6 20 19.4
HK I *2012- 2013 98 98 100 0 0
So sánh kết quả, bản thân tôi nhận thấy không những đạt về số lượng mà
chất lượng bài vẽ của các em cũng được nâng cao rõ rệt, số lượng bài khá giỏi
tăng cao.
13
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
Trang trí là một phân môn khó đòi hỏi HS phải có óc sáng tạo, sự cần cù
và linh hoạt, và để làm được điều đó thì vai trò của người giáo viên rất quan
trọng, làm được đã khó, làm tốt lại càng khó hơn. Nói chung, giáo viên phải đảm
bảo nội dung chương trình, đảm bảo tính đồng tâm, tính thực tiễn, tính dân tộc,
tính khoa học trong trang trí, đồng thời phải nắm vững cách thức biện pháp,
phương pháp tổ chức bài dạy, sử dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy,
và đặc biệt là yêu cầu cơ bản đối với người dạy và người học vẽ trang trí. Làm

được những điều này, người giáo viên có thể truyền thêm hứng thú cho HS trong
khi học môn mĩ thuật và các môn học khác. Qua đó, HS có thể nắm bắt kỹ các
bước, từ đó, có thể trình bày được một bài trang trí đẹp theo cảm nhận riêng của
mình. Thông qua quá trình học tập phân môn trang trí, có thể nâng cao được hiểu
biết đối với nghề nghiệp, với xã hội, hoàn thiện nhân cách và lối sống trong sinh
hoạt cho HS.
Trên đây là toàn bộ quá trình tìm đọc và nghiên cứu về một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn vẽ trang trí trong chương trình mĩ
thuật THCS. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện và viết sáng kiến kinh nghiệm
không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong được sự góp ý chân thành của các
bạn đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Dạy mĩ thuật ở THCS là rất cần thiết, nó góp phần hình thành ở HS những
phẩm chất tốt đẹp của con người lao động mới - người lao động có tri thức khoa
học, dám nghĩ, dám làm, lao động có năng suất cao và biết thưởng thức cái hay
cái đẹp trong cuộc sống.
Tuy nhiên dạy mĩ thuật ở THCS còn nhiều vấn đề phải quan tâm, bởi từ
lâu chúng ta ít chú ý, thiếu sự chuẩn bị về trang thiết bị và cơ sở vật chất để phục
vụ cho môn học này. Vì vậy để tạo điều kiện cho việc dạy và học của thầy và trò
thuận lợi, bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn mĩ thuật cần kiến nghị và đề
xuất một số vấn đề sau:
- Phải có phòng học mĩ thuật rộng, đầy đủ ánh sáng.
- Phương tiện (bàn, ghế, giá vẽ, mẫu vẽ, giấy vẽ, màu vẽ, máy chiếu , tranh
phiên bản, các tài liệu tham khảo …) phải đảm bảo theo đặc thù của bộ môn.
*Như vậy sẽ nâng cao được chất lượng dạy và học của bộ môn mĩ thuật,
đồng thời phát triển tối đa được tính sáng tạo của HS trong môn học và đạt kết
quả cao trong học tập.
14
Liên Thủy ngày 05 tháng 5 năm 2013
Người thực hiện


Trần Thị Khánh Hoà


Đánh giá của Hội đồng khoa học nhà trường
Xếp loại:
TM/ Hội đồng khoa học
Chủ tịch:


15

×