Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 57 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA MARKETING
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: Quản lý nhà nước đối với sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng
hóa của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (National office of intellectual
property of Viêt Nam) tại địa bàn Hà Nội
Họ và tên sinh viên: Phan Văn Hùng
Chuyên ngành: Marketing
Lớp: Quảng Cáo
Khóa: 46
Hệ: Chính quy
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Lưu Văn Nghiêm
HÀ NỘI, NĂM 2008
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Phụ lục
Lời mở đầu ............................................................................................................................1
o
Lời mở đầu
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu hóa, mỗi sản phẩm hóa/ dịch vụ
không mang nhãn đều cung ứng cho người tiêu dùng một số giá trị vật chất và phi vật
chất nào đó và thông thường, luôn có nhiều nhà sản xuất khác nhau cùng đưa ra thị
trường một loại sản phẩm tương tự nhau về cấu tạo, chức năng và thẩm mỹ. Vậy làm
cách nào để có thể phân biệt được đâu là hàng hóa chúng ta cần? Các DN nên làm gì
để người tiêu dùng có thể dễ dàng nhận ra sản phẩm nào là do DN đó sản xuất? Cách
duy nhất là tạo dựng một nhãn hiệu riêng, dễ nhận biết, từ đó xác lập quyền sở hữu
nhãn hiệu bằng cách đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa.
Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và bảo hộ nhãn hiệu nói riêng đóng
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. BHNH
tạo điều kiện thuận lợi cho các DN quảng bá, lưu động, bảo vệ, phát triển các sản


phẩm của mình trên thị trường nội địa và quốc tế, đồng thời bảo đảm một môi trường
cạnh tranh lành mạnh để thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. BHNH - bảo hộ tài
sản trí tuệ là việc làm không thể thiếu đối với các DN trong việc xây dựng và phát
triển thị trường, bảo hộ có hiệu quả đối với nhãn hiệu góp phần khuyến khích đầu tư
và tạo niềm tin cho nhà đầu tư trong hoạt động kinh doanh của mình. Và trong khuôn
khổ của đề tài này em xin được đi sâu vào phân tích một số khía cạnh chính của lĩnh
vực tuy đã được nhiều doanh nghiệp cũng như người dân biết đến khá lâu nhưng lại
không phải được mọi người hiểu rõ,chính xác và đầy đủ của vấn đề SHTT nhãn hiệu
hàng hóa thông qua việc tìm hiểu hoạt động quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu
hàng hóa của Cục SHTT Việt Nam.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Em xin chân thành cảm ơn thầy Lưu Văn Nghiêm đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên
đề tốt nghiệp và các cô chú trong Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã chỉ bảo và giúp đỡ
em trong thời gian thực tập tại Cục.
Chương I
Quản lý Nhà nước đối với sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa
1/ Lịch sử hình thành và phát triển nhãn hiệu hàng hóa
1.1/ Trên thế giới
a/ Nhãn hiệu là gì?
Thuật ngữ tiếng Anh “brand"(nhãn hiệu) bắt nguồn từ chữ "burning" (đốt cháy),
một từ thông dụng theo nghĩa kinh doanh có nghĩa là đốt cháy lên da hoặc lông của
các con thú nuôi, gỗ, kim loại đúc hoặc các hàng hóa khác thời xưa để in ký hiệu
riêng lên đó. Đến thế kỷ XIX, theo từ điển Oxford, từ này đã mang nghĩa là dấu hiệu
của nhãn hiệu thương mại. Vào giữa thế kỷ XX, từ '"branơ" phát triển rộng ra để bao
gồm cả những hình ảnh về một sản phẩm được ghi lại trong tâm trí người tiêu dùng
tiềm năng hoặc cụ thể hơn là quan niệm về một người hay vật nào đó.
Ngày nay, thuật ngữ brand được thay thế và sử dụng phổ biến bằng cụm từ “trade
mark” nghĩa là nhãn hiệu thương mại; trong khi đó brand được nhiều người coi là
thương hiệu. Trên thực tế thương hiệu hoàn toàn không có gì khác biệt so vơi nhãn

hiệu - được hiểu là tổng hòa tất cả các thông tin về một sản phẩm, dịch vụ hay một
Công ty được truyền đạt tới đối tượng mục tiêu bằng tên gọi hoặc các dấu hiệu nhận
biết khác, như logo hoặc hình tượng. Nhãn hiệu không phải là cái tên: một tên Công
ty nào đó mà không truyền đạt tới đối tượng mục tiêu thông điệp hay thuộc tính gì thì
không thể gọi là một nhãn hiệu. Các thuộc tính của nhãn hiệu tồn tại trong mắt của
người sở hữu và phản ánh sự tích luỹ các thông điệp truyền thông mà đối tượng mục
tiêu đã nhận được liên quan đến sản phẩm, dịch vụ hay Công ty và những “kinh
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nghiệm" mà người tiêu dùng đó đã trải qua với sản phẩm, dịch vụ hay Công ty đó.
b/ Lịch sử của quản trị nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Những người cổ đại thời kỳ đồ đá
vẫn thường trao đổi với nhau những vũ khí được thiết kế khác biệt với vẻ ngoài đem
lại cảm tưởng sẽ giúp họ thành công hơn trong săn bắn. Những người đóng tàu
Viking cũng có những "nhãn hiệu” tàu biển khác nhau. Về sau này, khi loài người biết
đúc kim loại, nhiều người đã đúc lên sản phẩm tên họ của mình như một chứng tích
khẳng định chất lượng của sản phẩm.
Trên thực tế, định nhãn, hay việc sử dụng các biểu tượng để truyền đạt các thông
tin về một sản phẩm hay dịch vụ có thể được coi là một hoạt động chỉ riêng gặp ở con
người. Đây cũng là nền tảng của thương mại: nếu không có thông tin về danh tiếng
của một người sản xuất hay người bán, hoạt động thương mại hẳn nhiên sẽ bị ngừng
trệ. Tuy nhiên, quyền lực thực sự của các nhãn hiệu lại có từ khi dấu hiệu này được
truyền từ một cá nhân nào đó sang một cộng đồng kinh doanh lớn hơn. Quá trình
chuyển đổi này tăng cường giá trị nhãn hiệu, mở rộng mức độ ảnh hưởng của nó và
kết quả là nó tạo ra của cải vật chất cho người sở hữu.
Josiah Wedgood thường được coi là cha đẻ của quản lý nhãn hiệu hiện đại Từ những
năm 1760, Wedgwood đã đặt tên của ông lên các bình gốm sứ để chỉ rõ nguồn gốc và
chất lượng của chúng. Tuy nhiên, ông này không chỉ dừng lại ở đó. Gần 200 năm
trước khi các phương tiện truyền thông đại chúng được phát minh, Wedgwood đã biết
sử dụng chiêu "tiếp thị truyền khẩu”, ông dùng các sản phẩm tinh xảo của mình tặng

cho Hoàng gia, rồi dùng các hình ảnh Hoàng gia làm công cụ để tạo ra lối truyền
miệng về giá trị của các sản phẩm gốm sứ do ông sáng tạo từ đó tăng thêm giá trị
nhãn hiệu của mình.
Về sau, quản trị nhãn hiệu đã thoát thai từ cách làm của Wedgwood để du hành
vào thế kỷ XX. Với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc
biệt là tivi và nền kinh tế phục hồi với tốc độ tăng trưởng mạnh tại nhiều nước tư bản
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sau Thế chiến II, một thị trường quy mô lớn dần dần hình thành. Nhu cầu và tiêu
chuẩn sống gia tăng khiến marketing lên ngôi trong thời kỳ này.
Các Công ty quảng cáo (ad agency) tranh thủ cơ hội này đã phát triển nhanh
chóng, tạo ra các chiến dịch truyền thông để thu hút người tiêu dùng đến với các nhãn
hiệu. Lúc đâu các quảng cáo truyền hình và báo chí rất đơn giản, nhưng đến thời điểm
hiện tại, quảng cáo đã phát triển rất mạnh để trở thành những tác phẩm đích thực. Tại
Mỹ, giải bóng chày quốc gia Super Bowl thu hút số lượng khán giả đông nhất nước
không chỉ vì tính hấp dẫn của giải này mà còn một phần là vì các nhãn hiệu lớn nhất
và nổi tiếng nhất ở Mỹ sẽ tung ra các chiến dịch quảng cáo mới vào dịp Super Bowl
để khai thác sự tập trung đông đảo khán giả vào "thời khắc vàng" này.
Trong khi mô hình an agency đã thống trị hoạt động quản tri nhãn hiệu từ nhiều
năm nay và vẫn đang có ảnh hưởng to lớn tới việc xây dựng nhãn hiệu của các tập
đoàn, đang có những thay đổi lớn lao đặt ra nhiều thử thách cho các an agency. Trong
suốt 2 thập kỷ qua, cái gọi là "lợi thế thị phần lớn" đã đần dần giảm tác dụng. Lợi thế
thị phần được hiểu là quan điểm coi trọng thị phần của các nhãn hiệu sản phẩm hoặc
dịch vụ: thị phần càng cao thì càng tốt. Ngày nay, các doanh nghiệp coi trọng lợi
nhuận và tăng trưởng thị giá cổ phiếu hơn, hay nói chung là giá trị đem lại cho cổ
đông và người đầu tư. Những tập đoàn có thị phần lớn nhưng thua lỗ và không đem
lại giá trị tăng thêm đã không còn được ưa chuộng. Thị trường quy mô lớn cũng dần
dần biến mất và thay vào đó, nó bị phân hoá thành nhiều thị trường nhỏ hẹp được
định hình bởi các nhu cầu tập trung hơn và do đó các chiến dịch quảng cáo siêu lớn
không còn thích hợp. Ngành truyền thông đại chúng cũng đang chuyển mình nhanh

chóng trước sự xuất hiện của nhiều phương tiện truyền thông mới có thể tác động vào
các phân mảng thị trường hẹp hơn nhiều.
Thêm vào đó, nền kinh tế dịch vụ hình thành đã làm thay đổi các quan niệm
truyền thống trong quản trị nhãn hiệu: trước đây, quản trị nhãn hiệu chỉ giới hạn trong
khoảng từ nhận thức của người tiêu dùng tới quyết định mua hàng. Nay, quá trình này
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
mở rộng ra thành mối quan bệ lâu đài giữa người tiêu dùng với nhãn hiệu và sự tương
tác qua lại giữa hai chủ thể này.
Kết quả của các quá trình trên là có nhiều quan niệm sai lầm về nhãn hiệu đã tồn
tại trong bối cảnh hiện nay. Việc hiểu rõ các quan niệm sai lầm này có tác dụng lớn
tới việc xem xét lại chiến lược nhãn hiệu của mỗi tập đoàn.
Các quan niệm sai lầm khác:
* Nhãn hiệu chủ yếu được xây dựng thông qua quảng cáo trên các phương tiện
thông tin đại chúng
Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, có một yếu tố đang dần thay thế vai trò chủ
đạo của quảng cáo đại chúng đối với quá trình xây dựng nhãn hiệu: kinh nghiệm của
người tiêu dùng. Yếu tố này bao gồm tổng hoà các tương tác của một người tiêu dùng
đối với một Công ty mà theo các mức độ khác nhau, các tương tác này có thể làm
mạnh lên hoặc suy yếu nhãn hiệu. Một "kinh nghiệm" tích cực mà người tiêu dùng
cảm nhận được khi sử dụng sản phẩm hay nhãn hiệu của Công ty sẽ có vai trò rất
quan trọng đối với việc xây dựng nhãn hiệu của tập đoàn và duy trì lòng trung thành
của người tiêu dùng đó. Hành động mua hàng, trước đây được xem là kết thúc của mô
hình marketing truyền thống vẫn thường được giảng dạy trong các rường đại học, giờ
trở thành sự khởi đầu của một mối quan hệ giữa công ty-khách hàng và sự hình thành
của các yếu tố vô hình của sản phẩm (dịch vụ hậu mãi và nhu cầu thoả mãn của người
tiêu dùng).
Do có sự xuất hiện của yếu tố "kinh nghiệm của người tiêu dùng", nhiều nhãn
hiệu lớn ngày nay đang được xây dựng nhờ kích thích kinh nghiệm của người tiêu
dùng thay cho quảng cáo truyền thống. Trước khi quảng cáo ồ ạt, nhà cung cấp dịch

vụ Internet lớn nhất thế giới American Online đã gửi Email đến để khách hàng có thể
thử nghiệm dịch vụ ngay trên Email rồi từ đó quyết định đăng ký thuê bao AOL.
Harley Davidson xây fựng một trong những nhãn hiệu mạnh nhất bằng cách tăng
cường kinh nghiệm của người tiêu dùng mục tiêu như thành lập các câu lạc bộ chủ xe
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Harley và tổ chức các cuộc đua. Yếu tố "kinh nghiệm người tiêu dùng" rõ ràng đang
trở thành một công cụ chiến lược quan trọng bên cạnh quảng cáo truyền thống trong
xây dựng nhãn hiệu.
* Nhãn hiệu được sử dụng chủ yếu để gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Mặc dù các chiến lược nhãn hiệu vẫn tiếp tục được phát triển lấy trung tâm là
người tiêu dùng, song chúng sẽ thất bại nếu không chú ý đưa cả các nhà đầu tư và các
nhân viên tương lai vào chiến lược này. General Electric, tập đoàn lớn nhất thế giới
xét về giá trị thị trường, đã rất thành công trong việc quản lý nhãn hiệu của mình
trong giới đầu tư tài chính và thị trường chứng khoán. Nhờ đó, GE có thể dễ dàng
tăng vốn trên thị trường tài chính từ các nhà đầu tư. Còn trong bối cảnh hiện nay, khi
chất xám trở thành năng lực cạnh tranh cốt lõi, việc hấp dẫn và thụ hút nhân tài là
điều không thể thiếu đối với các tập đoàn muốn gặt hái thành công.
Mô hình "3 chiều” trong quản trị nhãn hiệu hiện đại: người tiêu dùng, nhà đầu tư
và người làm thuê thực ra vẫn còn thiếu một chiều thứ 4: các phương tiện truyền
thông, các nhà lập pháp và các tổ chức khác quan tâm tới tập đoàn. Đây là những tổ
chức có tiềm lực to lớn có thể tác động mạnh đến sinh mệnh của mỗi tập đoàn.
* Chìa khoá đối với quản trị nhãn hiệu thành công là hiểu rõ hiệu quả của nhãn
hiệu trên thị trường.
Mặc dù đạt được kết quả hiện thời là thống trị thị trường hiện tại, điều quan trọng
hơn đối với các nhà quản trị nhãn hiệu hiện đại là có tầm nhìn rộng để nhìn thấy
những xu hướng mời ở chân trời xa. Diều này là vì kinh tế tri thức đã làm cho vòng
đời của các nhãn hiệu biến động lớn và nhiều nhãn hiệu rất phổ biến đã mau chóng
rơi vào quên lãng. Các nhãn hiệu xe hơi Cadillac và đồ điện tử Zenith từng một thời là
niềm tự hào của nước Mỹ nay đã không còn bóng dáng bởi vì chúng trở nên lỗi thời

trước một thế hệ người tiêu dùng mới. Vì thế, các nhà quản trị nhãn hiệu phải biết
nhìn xa trông rộng và dự tính trước các biến cố có thể xảy ra.
* Nhãn hiệu là biểu tượng và mang tính cảm xúc nên vì thế, nó được xây dựng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chủ yếu nhờ sự sáng tạo chứ không phải phân tích.
Chúng ta biết rằng nhãn hiệu có sức thu hút đối với cả trái tim và khối óc, song
các chiến lược nhãn hiệu đây đủ có thể lượng hoá và phân tích bằng các mô hình kinh
tế. Một trong những khái niệm được sử dụng lâu nay là “vốn nhãn hiệu” (hay còn gọi
là giá trị nhãn hiệu - brand equity) hiện đang được sử dụng ngày càng rộng rãi. Việc
tăng giá trị của "vốn nhãn hiệu” được coi là một trong những mục tiêu chủ đạo của
các nhà quản lý nhãn hiệu ngày nay.
* Nhãn hiệu là trách nhiệm của phòng marketing.
Cũng như việc nhiều người cho rằng quảng cáo là công cụ duy nhất để xây dựng
nhãn hiệu, đây là một hiểu lầm khá phổ biến. Bởi vì nhãn hiệu được coi như một lời
cam kết ngầm định giữa Công ty và người tiêu dùng, nên lời cam kết này có vai trò rất
quan trọng. Lâu nay không ai phủ nhận chính sản phẩm là yếu tố để thực hiện “lời
cam kết ngầm" của Công ty với khách hàng. Tuy nhiên, trong nền kinh tế mới, khi vai
trò của ngành dịch vụ tăng lên nhanh chóng, không chỉ sản phẩm mà chính là toàn bộ
các nhân viên của một tập đoàn mới là người thực hiện "lời cam kết ngầm" với khách
hàng. Vì thế, nhiệm vụ của các nhà quản trị cao cấp là làm sao phải cung cấp phương
tiện cho nhân viên thoả mãn toàn bộ các "kinh nghiệm" của khách hàng khi tiếp cận
với sản phẩm của mình. Do đó, thực hiện "lời cam kết ngầm" hàm chứa trong nhãn
hiệu, toàn bộ các nhân viên của một tổ chức kinh doanh đều phải có trách nhiệm đối
với nhãn hiệu của mình chứ không chỉ riêng phòng marketing.
Hiện nay, nhãn hiệu chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong thương mại. Nhãn hiệu
có thể được mua bán hoặc có thể cho thuê quyền sử dụng. Nhãn hiệu có thể được bảo
hộ trong nước hoặc trên quốc tế.
1.2/ Ở Việt Nam
Nhãn hiệu là những dấu hiệu để phân biệt hàng hoá,dịch vụ cùng loại của các cơ

sở sản xuất,kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu có thể là từ ngữ,hình ảnh hoặc sự kết
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. ( Định nghĩa nhãn
hiệu trong luật sở hữu trí tuệ)
Các loại nhãn hiệu
Nhãn hiệu hàng hóa : là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa nhất định cùng loại
do một doanh nghiệp cụ thể sản xuất với các sản phẩm cùng loại của các doanh
nghiệp khác.
Nhãn hiệu dịch vụ : Là nhãn hiệu dùng để phân biệt một số dịch vụ do một doanh
nghiệp cụ thể cung cấp. Về bản chất nó giống với nhãn hiệu hàng hóa, cả hai loại đều
có tinh phân biệt. Dịch vụ có thể là bất kì loại hình nào như tài chính, ngân hàng, du
lịch, quảng cáo hoặc vận tải…Nhãn hiệu dịch vụ có thể đăng kí, gia hạn, đình chỉ,
chuyển nhượng và cấp phép sử dụng theo các điều kiện tương tự nhãn hiệu hàng hóa.
Nhãn hiệu tập thể : Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ được sản
xuất hoặc cung cấp bởi các thành viên của một hiệp hội. Nhãn hiệu tập thể thường
thuộc sở hữu của một hiệp hội hoặc hợp tác xã mà các thành viên có thể sử dụng nhãn
hiệu tập thể để tiếp thị các sản phẩm của mình. Hiệp hội đó thường xây dựng tập hợp
các tiêu chuẩn về sử dụng nhãn hiệu tập thể (chẳng hạn tiêu chuẩn chất lượng) và cho
phép các thành viên sử dụng nhãn hiệu đó nếu họ đáp ứng các tiêu chuẩn đó. Nhãn
hiệu tập thể có thể xem là một hình thức liên kết hiệu qur trong hiệp tiếp thị sản phẩm
của một nhóm các doanh nghiệp khi từng thành viên sẽ gặp khó khăn trong việc
quảng cáo, tiếp thị để người tiêu dùng thừa nhận và/ hoặc được chấp nhận phân phối
theo các kênh chính thống. VD: nhãn hiệu tập thể Melinda được sử dụng bởi các
thành viên của 16 hợp tác xã sản xuất táo tại Valle di Non và Valle di Sole (Italia),
những người đã thành lập Cong-xoc-xiom Melinda năm 1989.
Nhãn hiệu chứng nhận : Là nhãn hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ đáp
ứng một tập hợp tiêu chuẩn và được chứng nhận bởi một cơ quan có thẩm quyền.
Nhãn hiệu chứng nhận được cấp khi đáp ứng các tiêu chuẩn định sẵn nhưng không
giới hạn đối với thành viên. Nhãn hiệu có thể được sử dụng bởi bất kì người nào có

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn định sẵn. Tại nhiều quốc gia, điểm khác biệt chính
giữa các nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận đó là nhãn hiệu tập thêr chỉ có thể
được sử dụng bởi một nhóm các doanh nghiệp, như thành viên của một hiệp hội trong
khi nhãn hiệu chứng nhận có thể được sử dụng bởi bất kì một ai đáp ứng các tiêu
chuẩn do chủ sở hữu nhãn hiệu chứng nhận quy định. Một yêu cầu quan trọng đói với
nhãn hiệu chứng nhận là chủ thể nộp đơn đăng kí được coi là có thẩm quyền chứng
nhận các sản phẩm liên quan. Ví dụ : Biểu tượng Woolmark là một nhãn hiệu chứng
nhân đã đăng kí của công ti woolmark, đây là biểu tượng bảo đảm chất lượng xác
nhận rằng các sản phẩm mang biểu tượng đó. Được làm từ 100 % len mới và tuân thủ
các chỉ tiêu kĩ thuật nghiêm ngặt do công ty quy định. Nhãn hiệu này được đăng kí tại
hơn 140 nước và được cấp Li-xăng cho các nhà sản xuất có đủ khả năng đáp ứng các
tiêu chuẩn kĩ thuật tại 67 nước.
Nhãn hiệu nổi tiếng : Là nhãn hiệu được coi là nổi tiếng trên thị trường và được cơ
quan có thẩm quyền của quốc gia mà nhãn hiệu đó chứng nhận và bảo hộ. Nhãn hiệu
nổi tiếng có thể được bảo hộ thậm chí khi nhãn hiệu đó không được đăng kí (hoặc
chưa bao giờ được sử dụng) trên một lãnh thổ cụ thể. Hơn nữa, trong khi nhãn hiệu
được bảo hộ nhằm chống lại các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn chỉ khi chúng được
dùng cho các sản phẩm trùng hoặc tương tự , còn nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ
nhằm chống lại các nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn ngay cả khi chúng được dùng
cho sản phẩm không cùng loại nếu thỏa mãn một số điều kiện cụ thể. Mục đích chính
của việc bảo hộ mạnh hơn này là ngăn chặn việc các công ty lơi dụng danh tiếng của
nhãn hiệu nổi tiếng và/hoặc gây thiệt hại cho uy tín và danh tiếng của nhãn hiệu nổi
tiếng đó. VD: Giả sử nhãn hiệu Wondercola là một nhãn hiệu nổi tiếng dùng cho nước
ngọt. Sau đó công ty được hưởng lợi từ việc bảo hộ tự động ở các nước dành sự bảo
hộ mạnh hơn cho các nhãn hiệu nổi tiếng và ở các nước mà nhãn hiệu của họ là nổt
tiếng cho sản phẩm nước ngọt. Sự bảo hộ đó cũng sẽ được áp dụng cho các hàng hóa
dịch vụ không liên quan. Điều này có nghĩa là nếu một công ty khác quyết định đưa ra
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thị trường các sản phẩm khác từ áo phông cho đến kính mát sử dụng nhãn hiệu
wondercola thì công ty đó phải xin phép công ty hoặc có thể bị kiện ra tòa vì vi phạm
quyền đối với nhãn hiệu.
* Nhãn hiệu trên internet
Việc sử dụng nhãn hiệu trên internet làm phát sinh một loạt vấn đề pháp lý gây nhiều
tranh cãi cùng với các giải pháp không hề dễ dàng và thống nhất. Một vấn đề quan
trọng phát sinh từ thực tê rằng quyền đối với nhãn hiệu có tính lãnh thổ (có nghĩa là
các quyền đó chỉ được bảo hộ trong lãnh thổ của quốc gia hoặc khu vực mà nhãn hiệu
đó đã được đăng kí hoặc sử dụng), trong khi sự tiếp cận với internet lại mang tính
chất toàn cầu. Điều này gây nên khó khăn khi giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân
hoặc các công ty sở hữu hợp pháp nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm
lẫn dùng cho các hàng hóa hoặc dịch vụ giống hoặc tương tự tại các nước khác nhau.
Luật pháp trong lĩnh vực này đang trong quá trình xây dưng và cách giải quyết có thể
là khác nhau giữa nước này với nước khác.
Một vấn đề quan trọng liên quan đến sự xung đột giữa các nhãn hiệu và tên miền. Tên
miền là địa chỉ internet và thường được sử dụng để tra cứu các trang web. VD, tên
miền “wipo.int” được sử dụng để xác định trang web của WIPO tại địa chỉ này. Theo
thời gian tên miền đó trở thành yếu tố nhận biết doanh nghiệp, do đó thường trở thành
xung đột với nhãn hiệu. Vì thế điều quan trọng là chúng ta phải chon một tên miên
không phải là nhãn hiệu của một nhãn hiệu công ty khác, đặc biệt là nhãn hiệu nổi
tiếng. Lý do là vì pháp luật quốc gia, hoặc tòa án của nhiều nước coi việc đăng kí tên
miên là nhãn hiệu của một công ty hoặc của một cá nhân khác là vi phạm nhãn hiệu,
thường được gọi là chiếm dụng trái phép trên mạng. Nếu việc đó xảy ra thì những
doanh nghiệp của bản phải chuyển giao hoặc hủy bỏ tên miền đó, và còn có thể phải
nộp một khoản bồi thường thiệt hại hoặc một khoản tiện phạt rất nặng. Để xác định
một nhãn hiệu cụ thể nào đó đã được bảo hộ hay chưa, bạn phải liên hệ trực tiếp với
các cơ quan nhãn hiệu quốc gia hoặc khu vực, trong đó nhiêu cơ quan có cơ sở dữ liệu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

nhãn hiệu tra cứu được qua internet. Mặt khác, nếu nhãn hiệu của một công ty đang
được sử dụng dưới hình thức một tên miên hoặc đang bị một cá nhân hoặc công ty
khác chiếm dụng trái phép trên mạng thì ta có thể tiến hành các biện pháp để chấm
dứt hành vi vi phạm và lạm dụng quyền đó của các công ty mình. Trong trường hợp
này có thể lựa chọn thủ tục hành chính trực tuyến rất phổ biến của WIPO để giải
quyết tranh chấp về tên miền trên địa chỉ :arbiter.wipo.int/doimans/. Trang web này
cung cấp mẫu đơn cũng như bản mục lục để tiếp cận hàng ngàn vụ tranh chấp liên
quan đến tên miền
* Chức năng của nhãn hiệu
Chức năng chính của một nhãn hiệu giúp người tiêu dùng xác định một sản phẩm
(là một hàng hóa dịch vụ) của một công ty cụ thể nhăm phân biệt sản phẩm giống
hoặc tương tự do các công ty khác cung cấp. Khi người tiêu dùng hài lòng với sản
phẩm đó, có khả năng họ sẽ mua hoặc sử dụng sản phẩm đó trong tương lai. Vì vậy
nhãn hiệu cần phân biệt được dễ dàng trong số các sản phẩm giống hoặc tương tự.
Bằng việc giúp các công ty phân biệt sản phẩm của họ với sản phẩm của các công ty
khác, nhãn hiệu đóng vai trò quan trọng trong chiến lược nhãn hiệu và tiếp thị của các
công ty, góp phần xây dựng hình ảnh và danh tiếng sản phẩm của các công ty trong
con mắt người tiêu dung. Hình ảnh và danh tiếng của sản phẩm tạo niềm tin, làm cơ
sở để hình thành những khách hàng trung thành và nâng cao danh tiếng của công ty.
Người tiêu dùng thường hình thành một sự gắn kết tình cảm với một số nhãn hiệu
nhất định, dựa trên một số phẩm chất hoặc đặc điểm mà họ mong muốn từ sản phẩm
mang những nhãn hiệu đó. Một ví dụ điển hình về giá trị mạng lại từ nhãn hiệu đối
với một công ty là Coca-cola hoặc IBM, giá trị của những nhãn hiệu nổi tiếng này lên
tới hơn 50 tỉ đô la Mĩ. Hơn nữa nhãn hiệu cũng tạo ra một động lực khuyến khích các
công ty đầu tư vào việc duy trì và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhằm đảm
bảo rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu của họ một danh tiếng tốt. Bởi thế sở hữu một
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhãn hiệu với một hình ảnh và danh tiếng tốt tạo cho công ty một lợi thế cạnh tranh so
với các đối thủ khác.

Phân biệt nhãn hiệu với một số thuật ngữ dễ hiểu lầm
- Nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình
ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều màu sắc dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác.
- Nhãn hàng hóa là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh
được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hóa, bao bì thương phẩm của
hàng hóa dùng để thể hiện các nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hóa. (Nhãn hàng
hóa được qui định tại NĐ số 89/2006/NĐ-CP ngày 30.8.2006 của Chính phủ).
* Nhãn hiệu và thương hiệu
Nhãn hiệu Thương hiệu
• Nhãn hiệu là những dấu hiệu dùng để
phân biệt hàng hoá, dịch vụ cùng loại
của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
nhau. Nhãn hiệu hàng hoá có thể là từ
ngữ, hình ảnh hoặc kết hợp các yếu tố đó
được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu
sắc. (Điều 785 Bộ Luật Dân sự 1995)
• Nhìn nhận dưới góc độ pháp lý
• Được bảo hộ bởi pháp luật
• Do luật sư, bộ phận pháp chế của công
ty phụ trách
• Có tính hữu hình: giấy chứng nhận,
đăng ký
• Thương hiệu là sự kỳ vọng của khách
hàng về sản phẩm/dịch vụ bất kỳ
• Nhìn nhận dưới góc độ quản trị tiếp thị
của doanh nghiệp
• Do doanh nghiệp xây dựng và công
nhận bởi khách hàng

• Chức năng của phòng tiếp thị, kinh
doanh trong công ty
• Có tính vô hình: tình cảm, lòng trung
thành của khách hàng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
2/ Quản lý Nhà nước sở hữu trí tuệ (SHTT) nhãn hiệu hàng hóa
2.1/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa
a/ Khái niệm SHTT
Mặc dù có rất nhiều các hiệp định và công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ nhưng
không một văn kiện nào đề cập đến một định nghĩa về cụm từ này, có chăng thì cũng
chỉ liệt kê ra các phạm trù của sở hữu trí tuệ một cách khái quát. Công ước thành lập
Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) được kí tại Stockholm vào ngày 14/7/1967
điều 2 (viii) quy định rằng sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền đối với :
(1) Các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học;
(2) Chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ biểu diễn, các bản ghi âm và chương trình
phát thanh, truyền hình
(3) Sáng chế và giải pháp hữu ích trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người
(4) Các phát minh khoa học
(5) Kiều dáng công nghiệp;
(6) Nhãn hiệu hàng hóa, nhãn hiệu dịch vụ, các chỉ dẫn thương mại và tên thương mại
(7) Bảo hộ chống cạnh tranh không lành mạnh
Kể từ khi thông qua công ước này, quyền sở hữu trí tuệ còn được mở rộng thêm,
bao gồm đối với giống cây trồng, mạch dẫn tích hợp bán dẫn, bí mật thương mại và
thông tin bí mật và thể hiện nghệ thuật truyền thống dân gian. Một danh mục đầy đủ
hơn về các quyền sở hữu trí tuệ được liệt kê trong phần II của hiệp định TRIPS với
danh nghĩa là các đối tượng của hiệp định nay, cụ thể là quyền tác giả và quyền liên
quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, sáng chế, thiết kế bố trí mạch
tích hợp bán dẫn và thông tin bí mật
Sở hữu trí tuệ được chia thành hai nhánh: Sở hữu công nghiệp và quyền tác giả và

quyền liên quan đến tác giả.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tuy nhiên đứng trên góc độ người nghiên cứu xin mạnh dạn đưa ra một số ý hiểu
về lĩnh vực SHTT:
Sở hữu: là thuật ngữ dùng để chỉ quyền của mỗi người đối với tài sản mà người
đó hay còn gọi là quyền sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm ba quyền năng: quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với tài sản tương ứng.
Tài sản: là đối tượng của sở hữu, bao gồm: tài sản vật chất và tài sản trí tuệ.
Tài sản vật chất: bao gồm vật có thực, tiền, các giấy tờ trị giá bằng tiền và các
quyền về tài sản; chúng được chia thành bất động sản (đất đai, nhà ở, công trình xây
dựng...) và động sản (những tài sản không phải là bất động sản: đồ dùng cá nhân,
các phương tiện đi lại, trang thiết bị gia đình....).
Tài sản trí tuệ: là sản phẩm do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng
tạo, bao gồm các tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật (tiểu thuyết thơ ca, các tác
phẩm điêu khắc, hội họa...) và các thành quả sáng tạo khoa học kỹ thuật (sáng chế,
giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp....).
Sở hữu trí tuệ: là khái niệm dùng để chỉ quyền của chủ thể đối với tài sản trí tuệ
tương ứng. Sở hữu trí tuệ được chia thành hai lĩnh vực chủ yếu bao gồm sở hữu công
nghiệp và bản quyền.
b/ SHTT nhãn hiệu hàng hóa
Từ khái quát về SHTT ở phần trên ta có thể hiểu một cách khái quát về sở hữu trí
tuệ nhãn hiệu hàng hóa : Nhãn hiệu hàng hóa một mặt là sản phẩm trí tuệ và sáng tạo
của cá nhân , tập thể để phân biệt hàng hóa của mình với các doanh nghiệp khác vì
vậy các cá nhân, tập thể đó có quyền sở hữu nó và được quyền yêu cầu bảo hộ nó vì
nó là sản phẩm phải tốn chất xám, công sức và vật chất để tạo ra, mặt khác nó là cơ sở
để các cơ quan chức năng dám sát hoạt động kinh doanh và tuân thủ theo pháp luật
của các doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy đứng trên cả hai khía cạnh kinh doanh
và quản lý thì SHTT nhãn hiệu hàng hóa là bộ phận quan trọng không thể không hiểu
và áp dụng một cách chính xác và thống nhất. Tuy nhiên ở Việt Nam, hiểu rõ và hiểu

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
chính xác về nó không phải nhiều doanh nghiệp thậm chí cơ quan quản lý nhà nước
làm được. SHTT nhãn hiệu hàng hóa trước đây chỉ áp dụng với các sản phẩm là hàng
hóa nhưng ngày nay nó đã được mở rộng ra cả dịch vụ.
2.2/ Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam
Quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa là một trong các hoạt động để
quản lý kinh tế cũng như thực hiện các chính sách giám sát, thực thi pháp luật trong
lĩnh vực này. Năm 2005, luật SHTT ra đời là một bước tiến lớn và là cơ sở để các cơ
quan quản lý trong lĩnh vực SHTT thực hiện tốt hơn hoạt động quản lý nhãn hiệu trên
thị trường. Thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa có
một số cơ quan chủ yếu là :Cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp ( Cục SHTT Việt
Nam…); Các cơ quan quản lý thị trường; Cơ quan Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất
lượng; Bộ Văn hóa – Thông tin – Thể thao và du lịch; Ủy ban nhân dân các cấp; Cơ
quan công an và các cơ quan hành pháp khác ( Cục hải quan …). Nằm trong hệ thống
quản lý đó, Cục Sở hữu trí tuệ Việt nam tiền thân là cục sáng chế hàng năm,ngoài
việc tiếp nhận và xử lý hàng trăm đơn khiếu nại xác lập quyền, đơn yêu cầu chấm dứt,
huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ, Cục SHTT đã tích cực hỗ trợ nhiều cơ quan, tổ
chức, cá nhân và tham gia các hoạt động tư pháp,tố tụng liên quan đến giải quyết
khiếu nại và tranh chấp quyền SHCN tại Toà án; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
thực thi xử lý rất nhiều vụ vi phạm hành chính và xâm phạm quyền SHTT. Đặc
biệt,Cục SHTT đang chủ trì nghiên cứu, tu chỉnh và trình Chính phủ phê duyệt Đề án
"Nâng cao hiệu quả thực thi quyền SHTT" nhằm từng bước đẩy lùi tình trạng xâm
phạm,vi phạm về SHTT
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chương II
Thực trạng quản lý nhà nước về SHTT nhãn hiệu hàng hóa trong giai đoạn
2005-2007
1/ Thực trạng về SHTT nhãn hiệu hàng hóa

1.1/ Thực trạng chung
Việc sản xuất hàng giả, hàng nhái đã trở thành một ngành công nghiệp có qui mô
lớn nằm rải rác khắp nơi. Có thể tìm thấy dễ dàng trên đường Nguyễn Trãi hay
Nguyễn Đình Chiểu (TP.HCM) những áo thun từ xuất xứ trong nước đến Hong Kong,
TQ, Thái Lan, Indonesia, Ý... với số lượng lớn, có giá thượng vàng hạ cám từ 60.000-
300.000 đồng/chiếc, gồm các nhãn hiệu CK, Dolce & Gabbana hay Chanel, Versace...
nổi tiếng. Ngay đồ chơi trẻ em, công nghiệp sản xuất hàng nhái, hàng giả tại TQ và
Đông Nam Á đã chiếm tỉ lệ 80% trên thị trường thế giới, thu về hằng năm trên 4 tỉ
đôla chứ không còn là hàng thủ công như xưa kia.
Trong lĩnh vực sản xuất xe máy: Honda bị vi phạm quyền SHCN nhiều nhất vì
đây là thương hiệu mạnh. Không chỉ một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong nước
mà một số liên doanh nước ngoài cũng làm nhái kiểu dáng, phụ tùng của Honda. Cứ
mỗi khi có một dòng xe mới ra đời, không bao lâu sau trên thị trường đã xuất hiện
những chiếc xe "hệt 100%", chỉ khác tên gọi. Dòng xe Best của Suzuki, Jupiter của
Yamaha được làm nhái khá nhiều.Giá một chiếc Honda giả, nhái có từ 5,2-12 triệu
không kể cả giá cao ngất trời của một chiếc Dylan hay SH chính gốc Nhật là 7.000-
8.000 đôla (tương đương giá một chiếc ôtô mới cỡ nhỏ ở Mỹ), trong khi hàng giả của
TQ chào bán 30 triệu đồng (tương đương 1.600-1.700 đôla. Từ sản phẩm công nghiệp
nhẹ đến cơ khí như máy phay - bào - tiện, thổi nhựa, khuôn mẫu cho ngành bao bì,
thực phẩm, in ấn, đúc... đều có tương tự các nhãn hiệu thế giới tại thị trường trung
gian ở Hong Kong, Đài Loan hay các nước dung dưỡng và tiêu thụ hàng nhái ở khắp
nơi.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Danh sách hàng hiệu bị làm giả, nhái nhiều nhất là giày thể thao, túi xách phụ nữ,
quần áo, đồng hồ, dụng cụ gia đình bằng điện (tủ lạnh, TV, video...), phần mềm máy
tính, phim ảnh, đĩa DVD, VCD, thuốc lá, mỹ phẩm, đồ chơi trẻ em, nữ trang, thuốc
chữa bệnh... (theo vietbao.vn : />2-Gia-nhai-hang-hieu/40191807/87/)
Mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000 vụ sản xuất và
tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi chiếm phần lớn.

Theo phản ánh của một số công ty sản xuất xe máy thì nhiều hộ kinh doanh đã bước
đầu nhận thức được hành vi vi phạm quyền SHCN và hậu quả pháp lý của nó. Nhiều
hộ đã yêu cầu các nhà sản xuất, lắp ráp xe máy trong nước phải cam kết sản phẩm của
mình không vi phạm quyền SHCN
Trong lĩnh vực dược phẩm, theo Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ),
mỗi năm Việt Nam có khoảng 80 bằng độc quyền được cấp liên quan đến dược phẩm.
Tuy nhiên, đó hầu hết là các loại dược phẩm nước ngoài, trong khi doanh nghiệp
dược trong nước cũng như cơ quan quản lý chưa thích ứng kịp với các quy định liên
quan đến vấn đề này. Điều này đồng nghĩa với việc các sản phẩm dược nội địa đã và
đang đứng ở một vị trí bất lợi mà nó có thể gây ra thiệt hại rất lớn khi tranh chấp sở
hữu trí tuệ xảy ra.
Trong lĩnh vực phần mềm Việt Nam vẫn đang đứng trên top-5 thế giới về tỉ lệ
phần mềm lậu (88%) năm 2006. Không chỉ phần mềm lậu, Việt Nam vốn nổi tiếng là
“thiên đường” của các sản phẩm sở hữu trí tuệ lậu, nhất là phim ảnh, âm nhạc, sách
tiếng Anh, và games. Trong khi đó, chúng ta đã ký công ước Berne và nó có hiệu
lực từ ngày 26 tháng 10 năm 2004
1.2/ Tại địa bàn Hà Nội
Không ít doanh nghiệp vẫn thờ ơ, thậm chí thiếu hiểu biết về bảo hộ sở hữu công
nghiệp hay lợi ích thực sự của việc làm này. Trong khi đó, pháp luật về sở hữu trí tuệ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
của VN chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở. Đây là một thực tế khiến tình trạng vi
phạm diễn ra ngày càng nghiêm trọng và phức tạp.
Theo thống kê, mỗi năm Cục Quản lý thị trường phát hiện và xử lý khoảng 5.000
vụ sản xuất và tiêu thụ hàng giả, trong đó hình thức "mượn" nhãn hiệu có tên tuổi
chiếm phần lớn. Thực trạng này đang gây thiệt hại rất lớn cho các doanh nghiệp cả về
uy tín và doanh thu. Theo ông Trịnh Sỹ, Phó Giám đốc Công ty Bánh kẹo Tràng An,
do sự gia tăng của các sản phẩm bánh kẹo giả, doanh thu của công ty năm nay đã
giảm 30% so với năm ngoái. Tương tự như vậy, các sản phẩm bánh kẹo giả mạo sản
phẩm của Công ty Hải Hà đã làm giảm 40% sản lượng của công ty so với trước đây.

Những đối tượng vi phạm ngày càng có nhiều hành vi tinh vi hơn. Thậm chí, hành vi
của nhiều đối tượng còn có một lực lượng hậu thuẫn giúp việc "tư vấn" để lách luật
Trên thực tế là nhiều doanh nghiệp không thể lường trước được việc nhãn hiệu
hàng hóa uy tín của mình đã có người khác nhanh chân đăng ký bảo hộ "giúp" một
cách hợp pháp. Thậm chí nhiều sản phẩm hàng hóa giả và nhái nhãn mác của họ đã
được sản xuất và tung ra thị trường với số lượng lớn gây sự nhầm lẫn khó phân biệt
cho người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp phải làm lại từ đầu, bằng cách xây dựng
một nhãn hiệu mới, điều này đồng nghĩa với việc họ tự đánh mất mình. Trước thực tế
trên, nhiều doanh nghiệp nhằm tránh những "vết xe đổ" đi trước, vội vàng làm thủ tục
đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho cả những sản phẩm/dịch vụ chưa thực sự
chiếm lĩnh được thị trường.
Tại địa bàn Hà Nội, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007 khi Cục quản lý thị trường
tiến hành khảo sát đã có HN có 19 tụ điểm nghi vấn có hoạt động sản xuất, buôn bán
hàng giả, đã lập danh sách 178 đầu mối sản xuất nghi có sản xuất hàng giả, kém chất
lượng. Trong đó, có 33 cơ sở lương thực, thực phẩm, 128 cơ sở hàng tiêu dùng, 7 cơ
sở vật liệu xây dựng, 20 cơ sở thuốc bảo vệ thực vật và thức ăn chăn nuôi. Bên cạnh
đó, còn có 171 điểm giáp ranh mà lực lượng QLTT khó kiểm soát (13 khu vực giáp
ranh với các tỉnh bạn, 55 khu vực giữa các quận, huyện, 103 khu vực giữa các
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
phường, xã). Ngoài ra, với 631 chợ, 73 bến ôtô, 7 ga xe lửa, 4 khu vực triển lãm và
603 tụ điểm về hình sự... là những nơi hoạt động thương mại phức tạp. Có thể nói,
hàng hoá Trung Quốc nhập vào TP đã tác động lớn tới thị trường HN và đây là nguồn
chính của hàng giả mạo nhãn hiệu, xuất xứ. Qua 860 vụ vi phạm trong 6 tháng đầu
năm 2007, có tới 415 vụ hàng giả, kinh doanh trái phép và vi phạm quy chế hàng hoá.
Nổi lên một số thủ đoạn giả mạo và vi phạm nhãn hiệu hàng hoá như sau: Thị trường
hàng giả đã "nội địa hoá" bằng phương thức nhập linh kiện, bán thành phẩm vào VN
qua các làng nghề chế tác, gia công, gắn bao bì nhãn mác mới thành các sản phẩm
"made in" Thái Lan và Nhật Bản như giày da các loại, kính mắt, bánh kẹo, tất chân...
Một số DN, đơn vị VN đặt hàng Trung Quốc sản xuất giống y hàng hiệu đã được

thị trường chấp nhận như: Thiết bị vệ sinh (hiệu Joden, Clever), bếp ga Rinnai,
Paloma, hoá mỹ phẩm (Gucci, Chanel...), máy nghe nhạc MP3, MP4. Hàng hoá này
được đưa ra thị trường, bày bán công khai tại các khu phố thương mại với số lượng
lớn.
Cũng trong thời gian này, cơ quan QLTT HN đã phát hiện thêm thủ đoạn mới của
một số đối tượng như: Mở cửa hàng lấy tên thương hiệu nổi tiếng sau đó lừa bán cả
cửa hàng và hàng hoá cho người khác (tập trung chính vào mặt hàng hoá mỹ phẩm).
Một số đơn vị, cá nhân đăng ký tên thương mại trùng với tên nhãn hiệu đã được bảo
hộ hàng hoá nổi tiếng để lừa dối người tiêu dùng như Cty TNHH cáp điện Trần Phú
đặt Cty Thiên Phú sản xuất dây điện mang tên "Trần Phú" của Cty cơ điện Trần Phú
đã bị CP15 và QLTT tịch thu tiêu huỷ 328 cuộn dây.
Trong lĩnh vực kỹ thuật số hàng giả đã đến mức báo động không chỉ đồng hồ, máy
ảnh mà các loại linh kiện, cạc, sim, bộ nhớ, USB, màn hình LCD... giả mạo nhãn hiệu
xuất xứ tăng rõ rệt với giá bán cạnh tranh tỉ lệ nghịch với chất lượng hàng hoá. Ông
Vương Trí Dũng - Phó Chi cục trưởng Chi cục QLTT HN - cho biết: "Việc kinh
doanh sử dụng tem NK giả, in ấn bao bì nhãn mác giả có quy mô và số lượng lớn
đang tăng lên khó kiểm soát. Một số vụ hàng giả cho thấy có yếu tố móc nối với cá
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhân, tổ chức nước ngoài làm hàng giả, nhất là giả mạo xuất xứ đưa vào VN ( theo
Viêtbao.vn : />muc-bao-dong/65097979/88/)
Bên cạnh đó, việc lợi dụng các nhãn hiệu nổi tiếng để sản xuất và tiêu thụ các mặt
hàng kém chất lượng cũng là tình trạng phổ biến và dễ bắt gặp. Chẳng hạn nhãn vụ
nhãn hiệu Bia Hà nội, một thương hiệu được người dân biết đến như là một thương
hiệu nổi tiếng trong thị trường bia và cũng không ngoại lệ nhãn hiệu này bị các cơ sở
sản xuất khác nhái và cung cấp ra thị trường.
thống kê vi phạm nhãn hiệu – Cục sở hữu trí tuệ
1.3/ Đánh giá, kết luận
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

Xét trên bình diện chung, vi phạm sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa có thể được
xem như một vấn nạn mà nền kinh tế nói riêng và toàn xã hội nói chung phải ghánh.
Qua thực trạng trên ta thấy mặc dù các cơ quan chức năng ngày càng nâng cao khả
năng kiểm soát cũng như nhận thức của các cá thể kinh tế đã thay đổi khá nhiều
nhưng về căn bản do còn quá nhiều mâu thuẫn cũng như bất cập và yếu kém đã làm
cho vấn đề này không được giải quyết thấu đáo và hiệu quả mà ngược lại nó càng
diễn ra phức tạp, sâu rộng và khó kiểm soát. Bản thân người làm chuyên đề khi khảo
sát cũng như tìm hiểu cũng thực sự ngạc nhiên là thực trạng của vấn đề này lại lại
phức tạp và mang tính thời sự hơn là những nhận định và cái nhìn cục bộ trước đó
nhiều đến như vậy. Do đặc thù về địa bàn mà Hà nội là một trong nhưng trọng điểm
của vấn đề sở hữu trí tuệ nhãn hiệu hàng hóa. Điểm sáng thì ít nhưng điểm tối lại dễ
thấy và nhiều hơn nhiều lần so với những thống kê vì trên thực tế rất khó kiểm soát
nếu không có một cơ chế, một nền tảng của pháp chế thực thi và kiểm soát gắn liền
với thực tế. Vậy các cơ quan chức năng và một trong số đó là Cục Sở hữu trí tuệ đã
quản lý lĩnh vực này thế nào trong những năm gần đây khi mà Việt Nam đã và đang
đứng trước quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu và đã ra nhập WTO ?
2/ Thực trạng quản lý nhà nước đối với SHTT nhãn hiệu trong Cục sở hữu trí
tuệ Việt Nam giai đoạn 2005-2007 tại địa bàn Hà Nội
2.1/ Hệ thống các văn bản Luật và dưới luật liên quan đến quản lý SHTT nhãn
hiệu hàng hóa
a/ Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam ban hành năm 2005
Luật Sở hữu trí tuệ - một đạo luật lớn và phức tạp đã được quốc hội thông qua
ngày 29/11/2005. Đây là một sự kiện quan trọng đối với hoạt động sở hữu trí tuệ nói
riêng và hoạt động quản lý nhãn hiệu nói chung. Nó là một nền tảng lớn để Việt Nam
thắng lợi trong quá trình đàm phán ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, góp
phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo khoa học, công nghệ, văn học nghệ thuật và kinh
doanh đồng thời là công cụ quan trọng đối với hoạt động quản lý nhãn hiệu của Cục
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Sở hữu trí tuệ. Chúng ta điểm qua một vài điều quan trọng liên quan đến hoạt động

quản lý nhãn hiệu hàng hóa của Cục Sở hữu trí tuệ.
Theo điều 3- Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ thì nhãn hiệu hàng hóa nằm trong đối
tượng quyền sở hữu công nghiệp cần được bảo hộ SHTT. Đối tượng SHCN bao gồm
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh
doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý. Tuy vậy vẫn có nhiều người nhầm
lẫn rằng bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là tách biệt hoàn toàn với sở hữu công nghiệp
trong khi trên thực tế nó lại là một bộ phận của SHCN. Quyền SHCN là quyền của tổ
chức, cá nhân đối với sáng chế, kiều dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh
Theo nội dung điều 3 ta thấy khi các sản phẩm được trao đổi, tiêu dùng sẽ phát
sinh nhu cầu được bảo hộ nhãn hiệu của hàng hóa đó trong hoàn cảnh ngày càng có
nhiều sản phẩm có chức năng và thiết kế giống nhau. Điều này càng làm tăng ý nghĩa
và tầm quan trọng của nhãn hiệu trong kinh tế thương mại và đời sống.
Điều 6: Căn cứ phát sinh, xác lập quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu công nghiệp được xác lập như sau:
Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố
trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc
công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; đối với nhãn hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được
xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ thuộc vào thủ tục đăng ký. Như vậy cũng như
quyền sở hữu công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa chỉ được công nhận và xác lập quyền
sở hữu trí tuệ khi nó được đăng kí bảo hộ tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
như Cục Sở hữu trí tuệ, tuân theo quy định tại luật SHTT và các điều ước quốc tế Việt
Nam tham gia như Thỏa ước Marid về đăng kí quốc tế nhãn hiệu hàng hóa, Công ước
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp... Nếu nhãn hiệu hàng hóa không đăng kí hoặc
đăng kí chậm thì nhãn hiệu đó mất quyền bảo hộ SHTT; bị loại trừ không được tồn tại

và lưu hành trong các hoạt động kinh tế và xã hội. Như vậy bộ luật nhấn mạnh vào
điều kiện để một nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ sở hữu trí tuệ là phải đăng kí đầu
tiên và có đầy đủ điều kiện để thẩm định nhãn hiệu theo quy định của pháp luật. Điều
này nghe có vẻ không phức tạp nhưng trên thực tế do sự thiếu hiểu biết và không nắm
được luật mà có cá nhân doanh nghiệp bị thiệt hại rất lớn. Điển hình là các nhãn hiệu
của Việt Nam bị mất quyền bảo hộ quốc tế hay bị kiện vì vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ. Trong điều 6 này có một thuật ngữ không phải ai cũng hiểu rõ đó là ”nhãn hiệu
nổi tiếng”. Theo giải thích từ ngữ trong bộ luật có ghi” Nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn
hiệu được người tiêu dùng biết đến rộng rãi trên toàn lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên
để hiểu rõ nhãn hiệu khi nào trở thành nhãn hiệu nổi tiếng cần có những tiêu chí như
đánh giá như :(Theo điều 75 trong bộ luật này)
Số lượng người tiêu dùng liên quan đã biết đến nhãn hiệu thông qua mua bán sử
dụng hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc thông qua quảng cáo
Phạm vi lãnh thổ mà hàng hóa dịch vụ mang nhãn hiệu đã được lưu hành
Doanh số từ việc bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mang nhãn hiệu hoặc số
lượng hàng hóa đã được bán ra, lượng dịch vụ đã được cung cấp
Thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu
Uy tín rộng rãi của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu;
Số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu;
Số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu nổi tiếng;
Giá chuyển nhượng, giá chuyển giao quyền sử dụng, giá trị gop vốn đầu tư cảu
nhãn hiệu.
Cũng bởi những tiêu chí đánh giá này mà sự thừa nhận nó lại không phụ thuộc vào
thủ tục đăng kí mà lại dựa trên cơ sở sử dụng. Đây là điểm khác biệt mà người làm
kinh tế cũng như các nhà hành pháp và lập pháp cần quan tâm.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Điều 72. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ
Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả

hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu
sắc;
- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hoá,
dịch vụ của chủ thể khác.
Điều 73. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu
Các dấu hiệu sau đây không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy
của các nước;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu,
tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của Việt Nam và tổ chức quốc tế, nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho
phép;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút
danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân của Việt Nam, của nước
ngoài;
- Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với dấu chứng nhận, dấu kiểm
tra, dấu bảo hành của tổ chức quốc tế mà tổ chức đó có yêu cầu không được sử dụng,
trừ trường hợp chính tổ chức này đăng ký các dấu đó làm nhãn hiệu chứng nhận;
- Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng
về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác
của hàng hoá, dịch vụ
Điều 105. Yêu cầu đối với đơn đăng ký nhãn hiệu
Website: Email : Tel (: 0918.775.368

×