Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN đối với NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM tội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.34 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
7
1.1. Người chưa thành niên phạm tội và thủ tục giải quyết các vụ
án là người chưa thành niên trong tố tụng hình sự
7
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội 7
1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự
10
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.3.
Biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên


trong quá trình giải quyết vụ án hình sự
Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội
Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội
12
12
16
17
1.3. Bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên
19
1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
19
1.3. 2. Bảo vệ quyền của người chưa thành niên khi áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI
25
2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
25
2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước khi ban
hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
25

2.1.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1988
đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2003
27
2.2.
2.3.
Thực trạng pháp luật hiện hành quy định về các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên
Thực tiễn áp dụng các biện các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
28
39
2.3.1. Tình hình áp dụng biện pháp bắt người 39
2.3.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giữ 42
2.3.3. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam 45
2.3.4. Tình hình áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 47
2.3.5. Tình hình áp dụng biện pháp bảo lĩnh 49
2.3.6. Tình hình áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản 52
2.4. Nhận xét, đánh giá về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải
Dương
53
2.4.1. Những ưu điểm 53
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế 56
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM
TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
63
3.1. Cơ sở của các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa
thành niên phạm tội

63
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng
các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương
66
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật quy định biện pháp ngăn chặn liên
quan đến người chưa thành niên phạm tội
66
3.2.2. Nâng cao chất lượng và kỹ năng áp dụng thực tiễn của đội
ngũ cán bộ có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với người chưa thành niên phạm tội
74
3.2.3. Phát huy vai trò của người bào chữa, tổ chức luật sư trong
bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên bị áp dụng các
biện pháp ngăn chặn
76
3.2.4. Một số giải pháp khác 77
KẾT LUẬN 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
THTT : Tiến hành tố tụng
TTHS : Tố tụng hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số đối tượng áp dụng biện pháp bắt tại tỉnh Hải Dương

(2009-2013)
40
2.2 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn
tỉnh Hải Dương (2009- 2013)
43
2.3 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam tại tỉnh Hải
Dương (2009-2013)
45
2.4 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú
tại tỉnh Hải Dương (2009-2013)
48
2.5 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại tỉnh Hải
Dương (2009-2013)
50
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia luôn đi đầu trong vấn đề chăm sóc và bảo
vệ trẻ em. Bởi thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn
bản pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em như: Hiến
pháp năm 2013, Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Bộ luật
hình sự (BLHS) năm 1999, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003…
Việt Nam cũng là một trong các quốc gia đầu tiên ở châu Á tham gia Công
ước về quyền trẻ em của Liên hợp quốc. Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiến
hành nhiều biện pháp, hoạt động cụ thể để chăm sóc, giáo dục trẻ em, tạo
dựng một môi trường xã hội trong sạch, lành mạnh để các em phát triển toàn
diện. Trong đó, đặc biệt chú ý quan tâm đến vấn đề chăm sóc giáo dục thế hệ
trẻ và phòng ngừa, ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta thấy tồn tại một thực trạng
đáng lo ngại trong cả nước nói chung cũng như ở địa bàn tỉnh Hải Dương nói

riêng, đó là tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện với tính
chất và mức độ gây nguy hiểm cho xã hội ngày càng gia tăng. Đặc biệt là các
tội phạm liên quan đến ma túy, giết người, cướp của, hiếp dâm cùng với việc
sử dụng các loại vũ khí, hung khí nguy hiểm, tụ tập thành các băng nhóm hoạt
động theo kiểu xã hội đen, gây ra tình trạng bất ổn cho xã hội và khó khăn
cho công tác điều tra, xử lý.
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự (TTHS), các
biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, giúp hoạt động TTHS
xác định tội phạm, người phạm tội và vụ án. Việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn có ảnh hưởng lớn đến quá trình giải quyết vụ án hình sự và hiệu quả
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đây là vấn đề rất nhạy cảm, nó đụng
1
chạm đến quyền và lợi ích chính đáng của công dân được ghi nhận trong Hiến
pháp. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm, không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp
phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định… [48].
Quy định này của Hiến pháp nhằm bảo vệ nhân quyền, đảm bảo công
dân không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn một cách tùy tiện.
Nghiên cứu thực tế những năm qua việc áp dụng cáp biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong cả nước nói chung cũng
như địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng còn những hạn chế nhất định, dẫn đến
hậu quả bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế
xã hội chủ nghĩa (XHCN)… Vì vậy, nắm vững các biện pháp ngăn chặn quy
định trong Chương VI BLTTHS 2013 là điều cần thiết, giúp các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền tránh được những vi phạm đáng tiếc xảy ra, đồng thời

nâng cao hiệu quả trong việc ngăn chặn người chưa thành niên phạm tội, phục
vụ đắc lực hoạt động điều tra.
Xuất phát từ những lý do trên, việc tác giả chọn đề tài "Các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" làm đề tài luận văn thạc sĩ là vấn đề
mang tính cấp bách, thiết thực không những về mặt lý luận mà cả về mặt thực
tiễn đối với địa phương trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định các biện pháp ngăn chặn trong luật TTHS đã được nhiều nhà
khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu. Tiến sĩ Nguyễn Văn Nguyên có
công trình "Các biện pháp ngăn chặn và những vấn đề nâng cao hiệu quả của
2
chúng" (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 1995); Nguyễn Mai Bộ có
công trình "Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự" (Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Điệp "Các
biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp"; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Trọng
Phúc "Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam"… Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí Công an nhân
dân, trật tự an toàn xã hội, tạp chí Tòa án nhân dân, tạp chí Dân chủ và pháp
luật, tạp chí Kiểm sát… cũng đề cập đến vấn đề này.
Trong các công trình nghiên cứu của, các học giả mới chỉ đề cập đến
vấn đề lý luận chung về các biện pháp ngăn chặn hoặc phân tích các quy định
của pháp luật thực định về các biện pháp đó. Các công trình khoa học mới chỉ
nghiên cứu một cách tổng thể trên phạm vi rộng mà chưa đề cập đến những
khó khăn vướng mắc và những giải pháp về việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên từng địa phương cụ thể và
với những đặc trưng riêng của từng tỉnh. Cho đến nay vẫn chưa có công trình
nào nghiên cứu về thực tiễn áp dụng ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội ở tỉnh Hải Dương.

Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, vấn đề "Các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành nhiên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương)" cần tiếp tục được nghiên cứu, để có những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội không chỉ trên địa bàn tỉnh Hải Dương, mà
còn có thể tham khảo áp dụng trên toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của
pháp luật về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng đối với người chưa
3
thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Qua đó, phát hiện những
khó khăn, vướng mắc, thiếu sót trong quá trình thực hiện của các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, để đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Nghiên cứu làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và
những quy định trong BLTTHS về các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội.
- Khảo sát, đánh giá việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Đánh giá những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện các quy định của BLTTHS về các biện pháp ngăn
chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. Đồng thời đưa ra các giải pháp
khắc phục tồn tại đó và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trên thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật TTHS và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu quy định của BLTTHS Việt Nam về các biện
pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo.
4
- Về địa bàn khảo sát: Luận văn chỉ khảo sát thực trạng áp dụng các
biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa
bàn tỉnh Hải Dương.
- Về thời gian khảo sát: luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn
2009- 2013.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, về chính sách nhân đạo
đối với người chưa thành niên phạm tội, về vấn đề cải cách tư pháp, về công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm và các tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù của khoa học Luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp diễn dịch, phương
pháp quy nạp; nghiên cứu tâm lý lứa tuổi, phương pháp thống kê, điều tra xã
hội học để đánh giá, hệ thống hóa hoạt động áp dụng biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên phạm tội.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa làm rõ hơn về phương
diện lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt

Nam hiện nay. Đề tài đã phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn áp dụng vác
biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh
Hải Dương. Qua đó, tìm ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót, khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện. Đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng
5
cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
TTHS về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội. Qua đó, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nhất là đối với người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viện cao học và sinh viên
thuộc chuyên ngành tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên
cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu
cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm
sát, Tòa án trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội được chính xác, khách quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về biện pháp ngăn chặn đối với
người chưa thành niên.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
6
Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI VÀ THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.1.1. Người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên là những người còn non nớt về thể chất và tinh
thần, song họ chính là chủ nhân tương lai của đất nước nên cần được quan
tâm chăm sóc đặc biệt. Trong lứa tuổi của mình, việc phạm sai lầm của những
người chưa thành niên là hoàn toàn dễ hiểu vì họ chưa phát triển đầy đủ cả về
thể chất và nhân cách, cho nên việc đấu tranh phòng chống tội phạm ở người
chưa thành niên cũng cần có căn cứ trên cơ sở đặc điểm tâm lý người chưa
thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: "Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật áp dụng đối với trẻ em
có quy định tuổi thành niên sớm hơn" [33].
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất
trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013, BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, Bộ
luật lao động, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính và một số văn
bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định
tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Dưới góc độ là chủ thể của tội phạm thì tuổi của người chưa thành
niên phạm tội được giới hạn hẹp hơn so với tuổi của người chưa thành niên
trong các ngành luật khác, đó là từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo Điều 68
7
BLHS 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của chương này, đồng thời theo
những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định
của chương này” [41]. Như vậy một câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao pháp

luật hình sự lại quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa
thành niên là 14 tuổi? Ở mỗi quốc gia trên thế giới có quy định độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là rất khác nhau. Tuy nhiên
việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự giữa các quốc gia có thể khác
nhau hoặc trùng nhau. Một số quốc gia quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự
là 7 tuổi như Singapore, Jamaica… song trong pháp luật hình sự một số quốc
gia khác như Đức, Nga, Nhật Bản là từ đủ 14 tuổi trở lên, trong khi đó ở
Peru, Colombia…, tuổi chịu trách nhiệm hình sự là 18 tuổi trùng với tuổi xác
định là thành niên. Sở dĩ, pháp luật hình sự mỗi quốc gia có quy định khác
nhau như vậy là vì phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, cũng như
sự phát triển của từng nước. Ở nước ta, pháp luật hình sự có quy định 14 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự là phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội.
Trong độ tuổi này, người chưa thành niên phát triển nhanh về tâm sinh lý, họ
đã ý thức được hành vi của mình, tự ý thức được đâu là đúng, là sai cũng như
ý thức được được phần nào việc gì là đúng pháp luật, việc gì là sai trái, bị
pháp luật cấm. Do đó, họ có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm về chính hành vi
sai trái do mình thực hiện.
Theo Điều 12 BLHS 1999 có sự phân hóa trách nhiệm hình sự trong
lứa tuổi người chưa thành niên phạm tội, quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở
lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm Người từ đủ 14 tuổi trở
lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
8
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm
hình sự có thể là:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do
cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội được quy định
trong Bộ luật hình sự.
Điều 12 BLHS đã đưa ra độ tuổi tối thiểu phải chịu trách nhiệm hình

sự là đủ 14 tuổi. Cũng trong BLHS, Điều 68 ghi nhận việc áp dụng BLHS đối
với người chưa thành niên phạm tội đó là người từ đủ 14 tuổi dưới 18 tuổi.
Điều này có nghĩa rằng, ở độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi có thể phải gánh
chịu hậu quả pháp lý bất lợi mà nhà nước áp dụng đối với hành vi nguy hiểm
do các đối tượng này gây ra.
Như vậy, tiêu chí để xác định trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên bao gồm:
- Có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
- Người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự tương ứng với loại tội phạmvà lỗi của người đó.
- Các cơ quan có thẩm quyền đã cân nhắc tính cần thiết phải xử lý
bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc các biện pháp
khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm đối với người phạm tội.
Chỉ khi nào hội tụ đủ ba điều kiện trên thì người chưa thành niên mới
phải chịu trách nhiệm hình sự bằng hình phạt do Tòa án tuyên. Người chưa
thành niên thực hiện tội phạm ngoài những dấu hiệu và yếu tố pháp lý còn
được xác định bằng sự nhận định, cân nhắc cụ thể của cơ quan có thẩm quyền
để quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với họ.
Tóm lại, trên cơ sở lập luận trên có thể đưa ra định nghĩa khoa học về
người chưa thành niên phạm tội như sau: Người chưa thành niên phạm tội là
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa
9
đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi trong việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm.
1.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án là người chưa thành niên trong
tố tụng hình sự
Người chưa thành niên phạm tội theo quy định của Luật hình sự phải
chịu trách nhiệm hình sự, do vậy cần phải có thủ tục tố tụng áp dụng. Thông
thường, theo quy định của pháp luật, thủ tục TTHS đối với tội phạm nói
chung và người chưa thành niên phạm tội nói riêng bao gồm các thủ tục điều

tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Ngoài những thủ tục chung thì BLTTHS dành
riêng một chương quy định về TTHS và chính sách xử lý đặc biệt với người
chưa thành niên phạm tội (tại Chương XXXII, từ Điều 302 đến Điều 310).
Người chưa thành niên phạm tội là ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi
còn bị tác động mạnh của những điều kiện bên ngoài. Do đó, quá trình điều
tra, truy tố, xét xử phải được tiến hành hết sức thận trọng, cụ thể và chính xác
trên cơ sở xem xét đầy đủ các yếu tố của bản thân và những điều kiện bên
ngoài tác động đến người đó. Điều 302 BLTTHS quy định về yêu cầu đối với
Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi THTT phải xác định rõ các yếu
tố về tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục;
có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm
tội. Quy định này không những phù hợp với đặc điểm của người chưa thành
niên mà còn phù hợp với thực tế về những nguyên nhân khách quan tác động
đến hành vi phạm tội của các em. Chính vì vậy, việc quy định về hiểu biết
tâm sinh lý của người chưa thành niên đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán, cũng như các yếu tố liên quan đến nguyên nhân và điều kiện dẫn
việc thực hiện hành vi phạm tội của các em là cần thiết.
10
Pháp luật TTHS có những quy định đặc biệt để áp dụng biện pháp ngăn
chặn trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Đối với các
biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên, ngoài những yêu cầu
chung quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của BLTTHS, thì theo
quy định tại Điều 303 BLTTHS và những quy định có liên quan thì việc áp
dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên chỉ có
thể được áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi trong trường
hợp họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng; đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể áp dụng trong
trường hợp họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc

đặc biệt nghiêm trọng.
Về việc giám sát bị cáo là người chưa thành niên: theo quy định tại
Điều 304 BLTTHS thì nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với người chưa thành niên là không cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
và Tòa án có thể ra quyết định giao bị can, bị cáo chưa thành niên cho cha mẹ,
người đỡ đầu của họ giám sát để đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo khi có
giấy triệu tập của cơ quan THTT. Những người được giao nhiệm vụ giám sát
có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo
đức và giáo dục người đó.
Về thi hành án phạt tù: Theo quy định thì không được áp dụng chế độ
tạm giữ người chưa thành niên như đối với người đã thành niên, mà họ phải
được giam giữ riêng, các chế độ với người chưa thành niên cũng được ưu ái
hơn. Pháp luật quy định về chế độ học văn hóa, đào tạo nghề nghiệp… để
giúp đỡ các em bổ túc trình độ văn hóa, tạo dựng nghề nghiệp đảm bảo khi ra
trường các em có nghề nghiệp ổn định. Điều này cũng có ý nghĩa trong công
tác phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành niên.
11
1.2. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan THTT được áp
dụng nhiều biện pháp trong đó có các biện pháp ngăn chặn. Các biện pháp
ngăn chặn là một trong những chế định pháp lý quan trọng được quy định tại
Chương VI BLTTHS năm 2003. Việc nhận thức thống nhất, đồng thời quy
định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần thiết cho
việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện chính xác, nhanh
chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội.
Trong lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam, mặc dù chưa có quy phạm
định nghĩa về khái niệm biện pháp ngăn chặn, nhưng các biện pháp ngăn chặn

đã được quy định trong các văn bản pháp luật TTHS nước ta ngay từ sau
Cách mạng tháng Tám. Những biện pháp này được quy định trong luật số
103-SL/005 ngày 20/05/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất
khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, Sắc lệnh số 02-SL
ngày 15/03/1957 của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam đã quy định các biện pháp ngăn chặn gồm bắt bình thường, bắt
khẩn cấp, bắt người phạm pháp quả tang, tạm giữ và tạm giam. Tuy nhiên,
trong các văn bản pháp luật này không có quy phạm định nghĩa về biện pháp
ngăn chặn mà dùng thuật ngữ biện pháp cưỡng chế để chỉ nội dung biện pháp
ngăn chặn trong luật TTHS hiện hành.
Kế thừa có chọn lọc và tiếp tục phát triển luật TTHS của nhà nước ta
sau Cách mạng tháng Tám đến nay, BLTTHS hiện hành quy định những biện
pháp ngăn chặn trong Chương VI bao gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo.
12
Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp
thời ngăn chặn hành vị phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như đảm bảo thi hành án. Các biện pháp ngăn
chặn là cơ sở pháp lý có ý nghĩa tạo điều kiện thuận lợi cho việc phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm, đồng thời, là biện pháp hạn chế một số quyền và
tự do cá nhân nên vấn đề này được quan tâm không những từ phía các nhà lập
pháp mà cả những nhà nghiên cứu khoa học luật TTHS ở trong nước cũng
như nước ngoài.
Các chuyên gia luật học của nước ngoài có những khái niệm khác
nhau về các biện pháp ngăn chặn. Z.B Enhikeev cho rằng: "Các biện pháp
ngăn chặn là một phạm trù đặc biệt, có ý nghĩa phòng ngừa". Tác giả đã đúng
khi xác định biện pháp ngăn chặn có ý nghĩa phòng ngừa, nhưng lại không đề
cập đến căn cứ áp dụng, đối tượng áp dụng, cũng như chủ thể có quyền áp
dụng. M.S.Strogovich thì cho rằng: "Các biện pháp ngăn chặn là những biện

pháp cưỡng chế hạn chế tự do của bị cáo với mục đích ngăn ngừa sự trốn
tránh việc điều tra, xét xử". Tác giả đã đúng khi cho rằng các biện pháp ngăn
chặn là những cưỡng chế hạn chế tự do của bị cáo, nhưng có sự nhầm lẫn giữ
mục đích và căn cứ áp dụng chúng.
Những khái niệm khoa học trên về biện pháp ngăn chặn của các nhà
luật học nước ngoài có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, chúng đã
phản ánh được khái quát những đối tượng nghiên cứu mà chúng ta cần tham
khảo, tiếp thu như: quan niệm về bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn;
sự cưỡng chế nhưng mang tính chất phòng ngừa, quyền lựa chọn biện pháp
ngăn chặn trong TTHS.
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam cũng có những khái niệm khác
nhau về biện pháp ngăn chặn. Theo Từ điển Luật học giải thích biện pháp
ngăn chặn là:
Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng khi có
13
đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi
nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn
tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án [58, tr.69].
Từ điển đã xác định đúng đối tượng và mục đích áp dụng các biện
pháp ngăn chặn, nhưng không chỉ ra chủ thể có quyền áp dụng chúng.
Tiến sĩ Nguyễn Văn Điệp cho rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế cần thiết về
mặt tố tụng hình sự, do các cơ quan và những người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc
người chưa bị khởi tố khi có căn cứ do Bộ luật tố tụng hình sự quy
định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt người,
tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài

sản có giá trị để bảo đảm [22, tr.26].
Khái niệm này đã đúng khi chỉ ra bản chất cưỡng chế của biện pháp
ngăn chặn, nhưng lại không nói đến mục đích ngăn ngừa phạm tội mới.
Ngoài ra, còn một số khái niệm khác nữa về biện pháp ngăn chặn của
các nhà khoa học nghiên cứu pháp luật, cán bộ làm công tác thực tiễn phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm được công bố trong các giáo trình luật
TTHS Việt Nam, sách chuyên khảo, tạp chí chuyên ngành luật học. Các khái
niệm đó đều dựa trên cơ sở phân tích nội dung của các quy phạm pháp luật tại
Điều 61 BLTTHS năm 1988 và Điều 79 BLTTHS 2003, cũng như thực tiễn
áp dụng chúng trong công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Những khái niệm trên đã nêu lên được những khía cạnh của các biện
pháp ngăn chặn và tương đối thống nhất đề cập đến bản chất pháp lý của
chúng là sự cưỡng chế nhà nước. Tuy nhiên, nó vẫn chưa đầy đủ, khoa học
14
chứa đựng tất cả các đặc điểm của biện pháp ngăn chặn. Cho đến nay, trong
BLTTHS 2003 vẫn chưa có quy phạm nào định nghĩa về biện pháp ngăn
chặn, bởi vậy, vẫn còn những ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Mặc dù các biện pháp ngăn chặn hạn chế tạm thời tự do đối với người
bị áp dụng, nhưng xét về bản chất pháp lý, nó không phải là hình thức thực
hiện trách nhiệm hình sự, vì người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn là khi
chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Chúng chỉ là các
phương tiện hỗ trợ cho việc thực hiện trách nhiệm hình sự. Mặt khác, cũng
không nên đồng nhất các biện pháp ngăn chặn với hình phạt. Cơ sở pháp lý
của việc áp dụng hình phạt là việc thực hiện tội phạm, còn cơ sở pháp lý để áp
dụng biện pháp ngăn chặn là những tài liệu, chứng cứ về việc bị can, bị cáo có
thể trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử, tiếp tục phạm tội hoặc cản trở việc
thi hành án. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất chỉ do Tòa
án quyết định, còn các biện pháp ngăn chặn có thể do Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án áp dụng tùy theo giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Ngoài ra,
mục đích của hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ

trở thành người có ích cho xã hội, mà còn mục đích giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, trong khi đó các
biện pháp ngăn chặn chỉ có mục đích phòng ngừa và tạo điều kiện để làm rõ
tội phạm và xử lý người phạm tội.
Đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là bị can, bị cáo, người
phạm tội quả tang hoặc người mà các cơ quan THTT có tài liệu, chứng cứ
nghi là họ phạm tội. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các cơ quan có
thẩm quyền chỉ được tiến hành trong phạm vi giới hạn cũng như thủ tục mà
pháp luật TTHS quy định. Thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn là
những người THTT có thẩm quyền thuộc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án hoặc người có chức vụ trong các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số biện pháp điều tra, công dân tham gia vào việc bắt người phạm
15
tội quả tang. Mọi hành vi áp dụng biện pháp ngăn chặn không đúng đối
tượng, thẩm quyền, căn cứ, cũng như thủ tục đều bị coi là vi phạm pháp luật
vó thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Từ những sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn
chặn như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang
tính phòng ngừa do người có thẩm quyền được quy định trong BLTTHS áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc người bị nghi là
phạm tội nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm
1.2.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
niên phạm tội
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
pháp luật TTHS của Nhà nước ta quy định nhiều biện pháp cưỡng chế khác
nhau. Những biện pháp cưỡng chế trong TTHS có nội dung tương đối rộng và
cụ thể, chia thành ba nhóm:
- Nhóm 1: những biện pháp ngăn chặn tội phạm như: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
đảm bảo.

- Nhóm 2: gồm những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ
như khám xét người, khám xét chỗ ở, địa điểm nơi làm việc, khám nghiệm
hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể…
- Nhóm 3: gồm những biện pháp bảo đảm sự thuận lợi cho hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, bị
cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do
thẩm phán chủ tọa phiên tòa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội
quy phiên tòa.
Những biện pháp ngăn chặn là một trong những nhóm của biện pháp
cưỡng chế. Những biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để
kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo
16
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc
điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Những biện pháp
ngăn chặn khi được áp dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của
công dân được ghi nhận Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác.
Theo quy định của BLHS thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó người từ đủ 14
tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý (mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù)
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt trên
15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình); người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Tuy nhiên, người chưa thành niên là
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm thần, là những đối tượng dễ
bị tổn thương, là người ở lứa tuổi mà khả năng nhận thức về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị hạn chế và nhiều khi còn bị tác động
bởi yếu tố bên ngoài, khách quan khác. Do vậy, BLTTHS đã dành hẳn một
chương riêng để quy định về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên,
trong đó có quy định về các biện pháp ngăn chặn.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm biện pháp ngăn chặn

áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội như sau: Biện pháp ngăn
chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là biện pháp cưỡng chế
trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị
truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang) và từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án hình sự.
1.2.3. Đặc điểm áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên
Dựa trên khái niệm biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành
17
niên phạm tội, chúng ta có thể rút ra được một số đặc điểm khi áp dụng các
biện pháp này đối với người chưa thành niên như sau:
- Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS bao gồm 6
biện pháp: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền
hoặc tài sản để đảm bảo nhằm cho phép lựa chọn tối ưu trong từng trường
hợp cụ thể, đáp ứng yêu cầu của hoạt động TTHS cũng như lợi ích của những
người tham gia tố tụng.
- Do người có thẩm quyền áp dụng: chủ thể không chỉ là Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, và Tòa án mà một số chủ thể khác cũng có quyền áp dụng
biện pháp ngăn chặn như người chỉ huy đồn biên phòng, chỉ huy máy bay, tàu
biển…, chủ thể áp dụng là căn cứ phân biệt biện pháp ngăn chặn trong TTHS
và biện pháp ngăn chặn trong hành chính.
- Đối tượng bị áp dụng là bị can, bị cáo và cũng có thể là người chưa
bị khởi tố về hình sự.
- Mục đích chung nhất của biện pháp ngăn chặn là ngăn chặn hành vi
tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hình sự.
Do phạm vi trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên hẹp hơn

so với người thành niên, phạm vi áp dụng các biện pháp ngăn chặn của đối
tượng này cũng hạn hẹp hơn, tuy nhiên nhìn chung vẫn bao gồm các biện
pháp ngăn chặn cơ bản là: bắt, tạm giữ, tạm giam (quy định tại các Điều 80,
81, 82, 86, 88 và Điều 303 BLTTHS); cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91); bảo
lĩnh (Điều 92); đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo (Điều 93); ngoài ra
còn có biện pháp giám sát, biện pháp đặc thù đối với bị can chưa thành niên
(Điều 304).
Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên
phạm tội, nhìn chung về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng là
tương tự như người thành niên. Riêng ba biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối
18
với người chưa thành niên có giới hạn áp dụng hẹp hơn, đồng thời khi áp
dụng phải đáp ứng yêu cầu về xác định được độ tuổi của đối tượng áp dụng và
chủ thể áp dụng phải là người có hiểu biết về tâm sinh lý của người chưa
thành niên.
1.3. BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
1.3.1. Các tiêu chí quốc tế về quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
Kể từ khi Liên hợp quốc ra đời, năm 1945, đặc biệt từ khi Bộ luật
quốc tế về quyền con người (bao gồm Tuyên ngôn thế giới về quyền con
người 1948; Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966; Công ước
quốc tế các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966), quyền con người đã vượt
khỏi phạm vi quốc gia trở thành Luật Quốc tế. Bên cạnh đó, ở tất cả các quốc
gia, từ xưa đến nay, trẻ em là đối tượng được quan tâm, chăm sóc đặc biệt kể
cả khi họ vi phạm pháp luật, thì nhân loại luôn dành cho các em sự cảm thông
chia sẻ, giúp các em trở lại với cuộc sống bình thường, giúp đỡ các em khẳng
định tư cách của mình trong gia đình và xã hội, trong học tập và lao động, bởi
vậy, Liên hợp quốc đã ban hành nhiều văn kiện về tư pháp người chưa thành
niên như: Công ước về quyền trẻ em năm 1989 cùng với hai Nghị định thư

không bắt buộc của công ước này (Nghị định thư về “sử dụng trẻ em trong
xung đột vũ trang”, Nghị định thư về “buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và
văn hóa phẩm khiêu dâm”, đều được Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001);
Những quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật đối với
Người chưa thành niên còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh, được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua ngày 20/11/1985; Hướng dẫn Riyadh, được Đại hội đồng
Liên hợp quốc thông qua ngày 24/12/1990; Những quy tắc tối thiểu, phổ biến
của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, được
Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1990.
19

×