Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Luận văn triết học vấn đề con người và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.95 KB, 63 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến
hiện đại. Với nguồn tiềm năng trí tuệ vô tận, là nguồn lực quyết định, là mục tiêu và
động lực của sự phát triển thì trong thời đại nào con người vẫn luôn là lực lượng sản
xuất cơ bản, hàng đầu của xã hội, giữ vị trí trung tâm cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Có thể thấy vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết
học nhân loại. Đó là những nội dung: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người?
Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình,
đạt tới tự do? Đây cũng chính là nhân sinh quan - nội dung cấu thành thế giới quan
triết học.
Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi thời đại mà nổi trội lên khía cạnh này hoặc
khía cạnh khác. Đồng thời, tùy theo góc độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết
học, các nhà triết học trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc
lí giải về con người. Do vậy, vấn đề con người là đề tài không mới nhưng luôn chứa
đựng những nội dung mới. Quan hệ biện chứng giữa con người và lịch sử chỉ ra rằng,
con người vừa là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Tất cả vấn đề
trên về thực chất là nhằm giải phóng con người, hướng tới vì mục đích con người, vì
con người – chủ thể của lịch sử - xã hội, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của
triết học Mác – Lênin.
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh đã để lại muôn vàn tình yêu thương và những lời
căn dặn với Đảng và Nhà nước là phải quan tâm đến mọi đối tượng trong xã hội. Điều
này được thể hiện trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người nhấn mạnh “đầu
tiên là công việc đối với con người” [20; tr.383].
Trong quá trình toàn cầu hóa như hiện nay, nền kinh tế nào dựa nhiều vào tri
thức sẽ tạo ra nhiều cơ hội phát triển, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sử
dụng hiệu quả nguồn nhân lực, tạo nhiều công ăn việc làm, giải quyết tốt hơn các quan
hệ xã hội, cải thiện đời sống con người,v.v… Trong điều kiện mới đó, sự phát triển
1
của mỗi quốc gia phụ thuộc nguồn nhân lực chủ yếu, thay vì dựa vào nguồn tài


nguyên, vốn vật chất như trước đây. Các lí thuyết tăng trưởng kinh tế gần đây cũng chỉ
ra rằng động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là yếu tố
con người, nguồn nhân lực cơ bản của sự phát triển. Bởi lẽ, với nguồn tiềm năng trí tuệ
vô tận, là nguồn lực quyết định, là mục tiêu và động lực của sự phát triển thì trong thời
đại nào, con người vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản, hàng đầu của xã hội, giữ vị
trí trung tâm cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Con người ngày càng thể hiện rõ vai trò
là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần, nền văn minh của
mỗi quốc gia. Ngày nay, nhờ các tiến bộ của khoa học kĩ thuật, các máy móc thiết bị
và công nghệ hiện đại đã giải phóng phần nào sức lao động của con người, cả lao động
chân tay lẫn lao động trí óc.
Vì vậy, mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người. Chiến
lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi
dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc,
động viên và tạo điều kiện cho mọi người Việt Nam phát huy ý chí tự lực tự cường,
cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Lợi
ích của mỗi người, của tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi
ích cá nhân là động lực trực tiếp.
Trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng thì ở phần nội dung thực hành dân chủ,
phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là
mục tiêu của sự phát triển: Phải đảm bảo quyền con người, quyền công dân và các
điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để
nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh
mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát
triển đất nước. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Như vậy, xuất phát từ vị trí xem con người là trung tâm, là nguồn lực quan
trọng nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội thì vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước ta
đã có những chính sách gì nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bên cạnh đó đã
sử dụng hợp lí nguồn nhân lực hay chưa. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài “Vấn đề con

2
người và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay – thực trạng và giải
pháp”.
3
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Đây là vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu và học giả quan tâm như:
Hồ Sỹ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nhà xuất bản Giáo dục
Nguyễn Thành Trung (2008), Vai trò của con người và vấn đề phát huy nguồn
lực con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, Tạp chí Triết học số 206
Nguyễn Văn Vĩnh (2005), Triết học chính trị về phần con người, Nhà xuất bản
chính trị Quốc gia Hà Nội
Trần Khánh Đức (2002), Giáo dục kĩ thuật – nghề nghiệp và phát triển nguồn
nhân lực, Nxb Giáo dục
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu vấn đề con người theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm hiểu thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện
nay từ đó đề ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề con người
Phạm vi: Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam từ 2001 đến nay
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
Phương pháp kết hợp lịch sử và logic
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Giúp người đọc thấy được thực trạng phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
trong những năm qua và hiện nay. Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến vấn đề con người và phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam
hiện nay.
7. KẾT CẤU KHOÁ LUẬN

Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung gồm có 2 chương và
4 tiết.

4
NỘI DUNG
Chương 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. Quan điểm về con người trong triết học
1.1.1. Quan điểm về con người trong triết học trước Mác
1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học Mác
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về con người
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Khái niệm nguồn lực và nguồn nhân lực
2.1.2. Chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay
2.2. Một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời
gian tới
2.2.1. Phát triển kinh tế
2.2.2. Phát triển khoa học và công nghệ
2.2.3. Phát triển văn hóa, xã hội
2.2.4. Phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao tay nghề
2.2.5. Phát huy quyền dân chủ của nhân dân lao động, nâng cao hiệu lực quản lý của
Nhà nước
KẾT LUẬN
-
-
Một số đề xuất và kiến nghị
5

Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI
1.1. Quan điểm về con người trong triết học
1.1.1.Quan điểm về con người trong triết học trước Mác
• Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Sự phát triển của tư tưởng triết học phương Đông từ cổ đại đến đương đại, sự
giao lưu tư tưởng và văn hóa trong khu vực mang bản sắc độc đáo so với phương Tây.
Những tư tưởng triết học phương Đông, cái nôi là ở Ấn Độ, Trung Quốc và triết học
phương Tây du nhập vào Việt Nam, dần dần hòa quyện vào tư tưởng và văn hóa dân
tộc. Lịch sử triết học cho thấy rằng, cần xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cái dân tộc
và cái quốc tế, làm cho những tư tưởng triết học của dân tộc ngày càng phong phú
hơn, sống động hơn trong các mối liên hệ chặt chẽ cùng với sự phát triển chung của
thế giới nhằm đạt tới một nền văn minh hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ -
trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn
đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ góc độ hoạt động thực
tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính
người là Bất thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão Tử thời
Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ góc độ khác và đi đến kết
luận bản tính tự nhiên của con người. Sự khác nhau về góc độ tiếp cận và với những
kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm
khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan
điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ. Đặc biệt, với sự chi phối thế giới quan
duy tâm hoặc duy vật chất phác, biểu hiện trong tư tưởng Nho giáo, Lão giáo, quan
niệm về bản chất con người cũng thể hiện một cách phong phú.
Khổng Tử (551 – 479 TCN), tên là Khâu, tự Trọng Ni, sinh ra ở nước Lỗ. Ông
cho rằng, bản chất con người là “thiên mệnh” chi phối quyết định, đức “Nhân” chính
là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là người quân tử. Bên cạnh đó, phẩm chất
chất phác, tình cảm chân thực là điều kiện cần thiết để trau dồi đức “Nhân”. “Chính
danh” là con đường đạt tới điều Nhân. (Ông nói: Sửa mình, khôi phục điều Lễ là

người Nhân). Học trò của Khổng Tử là Phàn Trì hỏi, thế nào là Nhân, Khổng Tử trả
6
lời: “Thương người” (Ái nhân), “Điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp
dụng cho người khác”, hoặc “Mình muốn lập thân thì giúp người khác lập thân, mình
muốn thành đạt cũng giúp người khác thành đạt” (Kỉ dục lập nhi lập thân, kỉ dục đạt
nhi đạt nhân) [26; tr.28], là nội dung cơ bản trong học thuyết “Nhân” của Khổng Tử.
Tuy nhiên, do hạn chế của lập trường giai cấp, học thuyết “Nhân” của Khổng Tử có
nội dung giai cấp rõ ràng. Theo ông, chỉ có người quân tử ( tức giai cấp thống trị) mới
có thể có được đức “Nhân”, còn tiểu nhân (nhân dân lao động) không thể có được đức
“Nhân” (Quân tử nhi bất Nhân giả hữu hĩ, vị hữu tiểu nhân nhi Nhân giả dã) [27;
tr.29]. Nghĩa là đạo Nhân chỉ là đạo của người quân tử, của giai cấp thống trị.
Mạnh Tử (372 – 289 TCN), tự là Dư, người đất Châu nước Lỗ. Mạnh Tử là học
trò của Tử Tư. Ông quan niệm: con người sinh ra chính là tốt (thiện), do không biết tu
dưỡng, ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu, xa rời
cái tốt đẹp. Do vậy, con người cần tu dưỡng, rèn luyện để giữ được đạo đức của mình.
Cũng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để
dẫn dắt con người hướng tới các giá trị đạo đức tốt đẹp. Thế nhưng, ông cho rằng nhận
thức cảm tính là cái “tiểu thể”. Là của kẻ tiểu nhân, là nguồn gốc của những điều ác;
nhận thức lí tính là cảm quan của cái Tâm, là cái “đại thể” riêng có của người quân tử.
Như vậy cũng có nghĩa là, theo ông, chỉ có người quân tử mới có thể đạt tới “Chí
thành”, cộng thêm hòa hợp với trời đất. Về quan niệm “tính người”, Mạnh Tử cho
rằng con người mới sinh ra trời phú cho đủ Nhân – Lễ - Nghĩa – Trí – Tín, đủ đức
Hiếu (với cha mẹ, người thân) – “Trung” với vua và “Kính” với bề trên) nhưng chỉ có
người quân tử là có khả năng giữ được đủ mà thôi.
Tuân Tử (313 – 235 TCN ), tên là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu, là
nhà triết học duy vật kiệt xuất trong lịch sử triết học. Tuân Tử cho rằng, con người
khác động vật ở chỗ sống tập thể theo xã hội mà tổ chức, có lễ nghĩa trên dưới và ông
đã chỉ ra hai nguyên nhân dẫn đến “loạn” do sống tập thể thành xã hội đưa lại là:
Thứ nhất, con người sống hợp quần nhưng mỗi cá nhân chỉ có một khả năng riêng
nào đó mà thôi.

Thứ hai, sản vật tự nhiên và của cải làm ra thì ít mà nhu cầu con người thì vô cùng,
cho nên dẫn đến “tranh” “loạn”. Do vậy, ông chủ trương phải tăng cường sản xuất,
tạo nhiều của cải, và thực hành tiết kiệm. Đặc biệt, hạn chế dục vọng, lấy lễ nghĩa làm
cơ sở, làm nguyên tắc đạo đức để phân chia thứ bậc và cung cách giao tiếp xã hội.
7
Hơn nữa, ông phản đối thuyết “Tính thiện” duy tâm của Mạnh Kha và đưa ra
thuyết “Tính ác” (bản chất con người khi sinh ra vốn dĩ là ác), nhưng có thể cải biến
được đó là phải chống lại cái ác ấy. Tuy hai quan điểm khác nhau nhưng có điểm
tương đồng là yêu cầu con người phải tu dưỡng để làm những điều lễ nghĩa. Điểm
khác nhau là: theo quan điểm tính thiện của Mạnh Tử thì con người phải được dẫn dắt
bằng đạo đức. Còn theo quan điểm tính ác của Tuân Tử, thì phải lấy pháp luật mà ngăn
chặn cái ác. Tuy nhiên, trong thuyết “Tính ác” của ông có những nhân tố hợp lí, quan
niệm tiến bộ. Ông đưa ra thuyết “Sửa tính quấy”, cho rằng đạo đức của con người là
do tập quán, qua quá trình học tập mà ra, cho nên có thể sửa được. Tuân tử cho rằng sự
phân biệt giữa “Quân tử” và “Tiểu nhân” cũng như sự phân biệt “ Sĩ, nông, công,
thương”, không phải là do trời phú cho, mà là kết quả lâu ngày…
Trong triết học phương Đông, còn có quan niệm duy tâm cho rằng trời và con
người còn có thể hòa hợp với nhau (thiên thân hợp nhất). Đổng Trọng Thư (179 – 117
TCN), kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan, quan niệm rằng trời và
con người có thể thông hiểu lẫn nhau (thiên nhân cảm ứng). Nhìn chung, đây là quan
điểm duy tâm, quy cuộc đời con người vào vai trò quyết định của “thiên mệnh” vì con
người bẩm sinh không phải “tính thiện” mà cũng không phải “tính ác”; hành vi
“thiện”, “ác” của con người là do hoàn cảnh tạo nên. Ông cho rằng “muốn thi hành lễ
nghĩa phải có đủ gạo ăn” [26; tr.69]. Tuy nhiên, cũng có tư tưởng ngược lại, đó là
quan niệm thiên nhân bất tương quan của Tuân Tử. Ông chủ trương về phương diện
sinh dưỡng thì người mang ơn trời, nhưng về phương diện trị loạn, thịnh suy thì đạo
trời không quan hệ gì đến đạo người, trời không thể làm hại được người, mà cả trời
cũng không thể giúp được người. Tư tưởng triết học có mầm mống duy vật ấy của
Tuân Tử có thái độ bị động của con người, khuyến khích con người có tinh thần tích
cực, dám tự mình giải quyết những vấn đề của mình.

Lão Tử ( khoảng thế kỉ VI TCN), còn gọi là Lão Đam, họ Lý, tên Nhĩ. Ông là
người mở đầu cho trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra từ “Đạo”. Do vậy
con người phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không hành động một cách
giả tạo, gò ép trái với tự nhiên. Quan điểm này biểu hiện tư tưởng duy tâm chủ quan
của triết học Đạo gia. Không những thế, ông còn chủ trương con người cần phải trở lại
trạng thái tự nhiên chất phác của trẻ con, “cần phải có trái tim ngu” [26; tr.45]. Ông
chủ trương “học ở những người không học” [26; tr.45] và cho rằng “vứt bỏ thánh trí,
8
nhân dân sẽ có lợi gấp trăm lần; vứt bỏ nghĩa, nhân dân sẽ trở lại hiếu từ” [26; tr.46].
Tức là Lão Tử phủ định mọi quan hệ luân lí, quan niệm tốt xấu và mọi thứ văn hóa
tinh thần của xã hội hiện thực mà trở lại với cái chất phác “vô danh”, trở lại với cái ý
thức trẻ con, không phân biệt tốt xấu, phải trái. Có thể thấy, “Đạo” của Lão Tử là một
thứ rất huyền bí, thoát trần, không thể dùng ngôn ngữ, khái niệm để nói và nhận thức
về nó.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết
học Ấn Độ mà tiêu biểu là các trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ góc độ khác, góc
độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lí siêu hình (Siêu hình học)
đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính
hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những
kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Như vậy, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu
hiện tính đa dạng và phong phú, thiên về vấn đề con người và đạo đức. Nhìn chung,
con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm, có pha trộn tính chất
duy vật chất phác trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
• Quan niệm về con người trong triết học phương Tây
Trong suốt chiều dài lịch sử triết học phương Tây từ Cổ đại Hy Lạp trải qua
giai đoạn Trung cổ, Phục hưng và Cận đại đến nay, những vấn đề triết học về con
người vẫn là một đề tài tranh luận chưa chấm dứt.
Thực tế lịch sử đã cho thấy, góc độ tiếp cận giải quyết các vấn đề triết học về
con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với triết học phương

Đông. Nhìn chung, các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật đã lựa chọn góc
độ khoa học tự nhiên để lí giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan.
Các trường phái triết học tôn giáo phương Tây, đặc biệt là Kitô giáo nhận thức
về vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Kitô giáo nhận thức vấn
đề con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt; về bản chất con người là có tội. Con
người bao gồm hai phần: thể xác và linh hồn. Thể xác sẽ mất đi nhưng linh hồn thì tồn
tại vĩnh cửu. Linh hồn là giá trị cao nhất của con người. Do vậy phải biết chăm sóc
linh hồn để hướng đến thiên đường vĩnh cửu.
Triết học Hi Lạp và La Mã cổ đại khi bàn về vấn đề con người đều tập trung ở
số phận, nỗi khổ đau, niềm hạnh phúc của con người. Đặc biệt là triết học Hy – La coi
9
trọng vấn đề con người. Mặc dù giữa các nhà triết học vẫn còn nhiều bất đồng về vấn
đề này nhưng nhìn chung họ đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý nhất của
tạo hóa. Tư tưởng ấy được thể hiện rõ qua luận điểm nổi tiếng của Pitago: Con người
là thước đo tất thảy mọi vật. Triết học Sôcrát đánh dấu một bước ngoặc trong sự phát
triển tư tưởng triết học ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, từ chỗ chủ yếu bàn về căn nguyên,
bản chất của thế giới và nhận thức chúng với việc coi triết học và tự ý thức của con
người về chính bản thân mình. Từ đây, những vấn đề thiết thực của cuộc sống con
người trở thành một trong những đề tài chính của triết học. Tuy nhiên, con người thời
cổ đại được nhìn nhận dưới góc độ cá thể và giá trị con người chủ yếu chỉ được bàn
đến ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp, nhận thức luận. Hoạt động thực tiễn của con người
hầu như không được bàn đến.
Ngay từ thời Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản
chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự
nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là Đêmôcrit về
bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là
tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Êpiquya. Những
quan điểm duy vật như vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục
hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII; nó
cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc.

Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan
niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử
triết học phương Tây lại chú trọng góc độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu
cho góc độ tiếp cận này là quan điểm của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong
nền triết học Pháp thời cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Do không
đứng trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý giải bản chất lý tính của con
người từ góc độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế
giới ý niệm tuyệt đối, với Đêcáctơ đó là bản tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính,
còn đối với Hêghen, thì đó là bản chất lý tính tuyệt đối…
Triết học duy tâm khi bàn về con người thường gắn với tín ngưỡng tôn giáo. Họ
không thấy được vị trí và vai trò của con người trong thế giới. Họ cho rằng con người
bị chi phối bởi sức mạnh vô hình. Con người sống với thần và thực hiện các chức năng
10
theo sự định đoạt của thần tức là kẻ đại diện cho định mệnh. Ví như Pitago (571 – 479
TCN), ông cho rằng con người phải tuân theo uy linh của thần thánh. Quan điểm duy
tâm đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển tư tưởng tiến bộ của xã hội lúc đó.
Bởi vì, khi con người gặp bất hạnh, khổ đau thì lối thoát duy nhất của họ là tìm đến
thần thánh. Giai cấp thống trị thường lấy đó làm công cụ tinh thần nhằm khống chế
quần chúng nhân dân, làm cho họ không dám đấu tranh chống lại giai cấp thống trị với
mục đích là bảo vệ giai cấp chủ nô quý tộc thời bấy giờ. Tuy nhiên, đối với các nhà
triết học duy vật, họ đã giải quyết vấn đề con người theo quan điểm tiến bộ và khoa
học. Các nhà duy vật quan niệm về thế giới tuy có ngây thơ, chất phác nhưng cơ bản là
đúng vì họ đã lấy các nguyên tố vật chất làm cơ sở để giải thích tự nhiên và con người.
Đại diện cho trường phái triết học này là Đêmôcơrit ( 460 – 370 TCN), ông đã đề cao
vai trò trí tuệ của con người và cho rằng con người không phải do thần thánh tạo ra mà
là kết quả của quá trình biến đổi tự nhiên. Ông nhận định, chỉ có trí tuệ mới giúp con
người nhận thức được bản chất đích thực của sự vật. Khi bàn về xã hội loài người, ông
đã đưa ra quan niệm đạo đức xã hội có ý nghĩa tiến bộ. Ông nhấn mạnh, mục tiêu của
con người là hạnh phúc, dân chủ và tự do. Tuy nhiên, ở ông lại có hạn chế lớn khi

dung hòa lợi ích giai cấp và việc coi nhu cầu ý muốn của con người là yếu tố quyết
định tất cả đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Nhà triết học Prôtagor (490 – 420 TCN) thuộc trường phái Xôphixtơ đã coi con
người là thước đo của vũ trụ đang tồn tại. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, trường phái triết học này đã đưa ra quan điểm bình đẳng giữa người với người.
Theo họ, Thượng đế tạo ra mọi người đều tự do, tự nhiên không ai biến thành nô lệ cả.
Tư tưởng nhân đạo đó trở thành phương châm tư tưởng cho các nhà triết học thời kì
Phục Hưng noi theo.
Triết học thời kì Phục Hưng gắn liền với vấn đề về con người và giải phóng con
người, chứng minh sức mạnh của con người, xem con người là thước đo vạn vật, các
giá trị văn hóa, nghệ thuật của con người được đặc biệt quan tâm. Nicôlai Kudan
(1401 – 1464) coi con người là sản phẩm tối cao và tinh túy nhất trong sự sáng tạo của
Thượng đế. Lêôna Đơvanxi (1452 – 1529) khẳng định con người là vũ trụ vĩ đại nhất
của tạo hóa, con người biết dựa trên các sự vật tự nhiên để sáng tạo ra các sự vật mới
phục vụ cho cuộc sống của mình.
11
Trong nền triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học vẫn coi những
vấn đề triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết học mà tiêu
biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt…
Triết học cổ điển Đức với các đại diện tiêu biểu như: Cantơ (1724 – 1804),
Hêghen (1770 – 1831) đã phát triển quan niệm về con người theo khuynh hướng chủ
nghĩa duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan, thông qua sự
vận động của ý niệm tuyệt đối, thông qua quá trình tự ý thức tư tưởng của con người
đã đưa con người trở về với giá trị tinh thần, giá trị về bản thể. Ông đã trình bày một
cách có hệ thống về các quy luật của quá trình tư duy con người, làm rõ cơ chế của đời
sống tinh thần cá nhân trong hoạt động con người. Dù cho con người được nhận thức
dưới góc độ duy tâm khách quan nhưng Hêghen là người khẳng định vai trò chủ thể
của con người với lịch sử, đồng thời là sự phát triển của lịch sử.
Vượt qua những hạn chế của triết học Hêgghen, nhà triết học duy vật Phoiơbăc
(1804 – 1872) đã phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật thể, phi thể xác về bản chất

con người trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con người do sự vận động của
thế giới vật chất tạo nên. Con người là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên,
giữa con người và tự nhiên có sự thống nhất không rời. Ông đã đề cao vai trò và trí tuệ
của con người với tính cách là những cá thể người. Đó là những con người cá biệt, đa
dạng, phong phú. Quan điểm này dựa trên nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên,
cảm tính nhằm giải phóng con người, tách con người khỏi những điều kiện lịch sử cụ
thể. Quan niệm của Phoiơbắc về con người là phi lịch sử, phi giai cấp và trừu tượng.
Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác và ngoài mácxít còn có một hạn
chế cơ bản và phiến diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về
con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại quan niệm lâu dài quan niệm
trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân
sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng
của triết học Mác – Lênin về con người.
1.1.2. Quan điểm về con người trong triết học Mác
• Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời
khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
12
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Do
đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài
của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của
con người.
Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính sinh học, tính loài. Yếu tố
sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì
vậy, giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người” [8; tr.135].
Con người là bộ phận của tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến
hóa lâu dài của môi trường tự nhiên. Con người phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại trong đời sống tự nhiên như thức ăn, nước uống, hang động để ở. Đó là
quá trình con người đấu tranh với tự nhiên để sinh tồn.

Trải qua hàng chục vạn năm, các giai đoạn mang tính sinh học mà con người
trải qua được sinh thành, phát triển và mất đi quy định bản tính sinh học trong đời
sống con người.
Tuy nhiên, điều cần khẳng định mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất
quyết định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế
giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Trong lịch sử đã có những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài
vật, như con người là động vật sử dụng công cụ lao động, là một động vật có tính xã
hội, hoặc con người là động vật có tư duy. Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì
nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên
được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước
hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật,
bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con
người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con
người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã
gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [14; tr.29].
13
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến toàn
bộ giới tự nhiên: “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản
xuất ra toàn bộ giới tự nhiên” [8; tr.137].
Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt
động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người. Thông
qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần,
phục vụ cho đời sống của mình, hình thành và phát triển ngôn ngữ tư duy, xác lập
quan hệ xã hội. Do vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của
con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của

con người luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất
với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật sự phù hợp cơ thể với môi
trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, biến hóa… quy định phương
diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận
động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, niềm
tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người.
Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất trong đời sống
con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các
nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở;
nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mĩ và hưởng thụ các giá
trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt
sinh học và xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người
là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là
đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được
nhân hóa để mang giá trị văn minh con người, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không
thể thoát ly khỏi nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào
nhau để tạo thành con người viết hoa, con người tự nhiên – xã hội.
• Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người vượt lên
thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với
xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng,
14
đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản
chất, bao trùm tất cả các quan hệ khác và mọi hoạt động chuẩn mực không liên quan
đến con người.
Bởi vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên luận
đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con người không
phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” [5, tr.11].

Luận đề trên khẳng định, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một
điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng
hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để
tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ
xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ
cá nhân, gia đình và xã hội…) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý bản chất xã hội của con người không có nghĩa là phủ nhận mặt
tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên, tồn tại trong sự
thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người
cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ
xã hội mới giúp chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự
nhiên, cái sinh vật của con người.
Luận điểm đó của Mác hoàn toàn không phủ nhận vai trò của các yếu tố sinh
học và đặc điểm sinh học của con người. Quan điểm của Mác cần chỉ rõ mặt xã hội
trong bản chất của con người. Đó là không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể, xác định sống trong thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ.
Tính hiện thực của con người thể hiện sự tồn tại khách quan trong hoạt động thực tiễn
của con người. Và hoạt động lao động xã hội quyết định đời sống của con người nên
bản năng sinh vật được thu hút và hội nhập vào bản năng lao động – xã hội là đặc thù
của con người.
Ở đây, Mác đã phân biệt sự khác nhau giữa con người và con vật, đã khắc phục
sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác đã không thấy bản chất xã hội của con
người. Và khi xác định bản chất của con người, Mác đã nêu bật cái chung, cái không
15
thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người xã hội.
Trong đó, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không
thể là cái duy nhất. Vì thế, cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và
đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.

Trong đó, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không
thể là cái duy nhất. Vậy nên, cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và
đa dạng của mỗi cá nhân về phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
• Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người.
Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới hữu sinh.
Nhưng điều quan trọng là con người luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. C.Mác khẳng
định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những
hoàn cảnh và của giáo dục… cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm
thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”.[5, tr.10].
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội.
Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm
thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Ănghen đã
viết: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và lịch sử
phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra
lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của
chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này
bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu” [6, tr.476].
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con
người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản
thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt của xã hội. Trên cơ sở
nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh
thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu con
16
người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã
hội, và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.

Trong tác phẩm Biện chứng tự nhiên, Ăngghen cho rằng: “Chỉ có con người là
mới đạt được đến chỗ in cái dấu của mình lên giới tự nhiên, không chỉ bằng cách di
chuyển các loài thực vật và động vật từ chỗ này sang chỗ khác, mà còn làm biến đổi
cả diện mạo, khí hậu của nơi họ ở, thậm chí còn làm biến đổi cả cây cỏ và các thú vật
tới một mức độ mà kết quả hoạt động của họ chỉ mất, khi nào toàn bộ trái đất tiêu
vong” [6, tr.475].
Như thế, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn tác động
vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của lịch sử xã hội,
của thế giới loài vật dựa vào sự phong phú của thế giới loài vật dựa vào sự phong phú
của thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Sản xuất
ngày càng phát triển theo tính chất xã hội hóa ngày càng tăng, việc tiến hành sản xuất
tập thể bằng lực lượng của toàn xã hội và sự phát triển mới của nền sản xuất do nó
mạng lại sẽ cần đến những con người hoàn toàn mới. Trong quá trình cải biến tự
nhiên, con người cũng đồng thời làm ra lịch sử của mình.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu tố hàng
đầu đóng vai trò quan trọng quyết định trong lực lượng sản xuất của xã hội mà hơn
nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể của quá trình hoạt động lịch sử. Thông qua
hoạt động sản xuất vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội
loài người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người,
vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt của xã hội.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất của con người, trong mối quan hệ với
điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động và biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Mặc dù là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, nhưng con người có vai trò tích cực trong
tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho
hoàn cảnh này càng mang tính người nhiều hơn. Hoàn cảnh đó chính là toàn bộ môi
trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh hướng phát triển nhằm
đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định hướng giáo dục. Thông
qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh

17
trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con
người, sự phát triển của sản phẩm trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức
hướng con người tới hoạt động vật chất. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con
người và hoàn cảnh trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người. Bên cạnh
đó, với tư cách là con người xã hội, là con người của hoạt động thực tiễn thì một điều
chắc chắn rằng con người không chỉ biết cải tạo tự nhiên mà còn cải tạo lịch sử cho
mình. Con người không những là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo
chúng. Bằng hoạt động lao động sản xuất con người sáng tạo ra toàn bộ nền văn hóa
vật chất và tinh thần; bằng những hoạt động cách mạng, con người đã đánh dấu thêm
những trang sử mới cho chính mình. Lúc này có thể khẳng định rằng nếu không có con
người với tư cách là chủ thể sinh động nhất của xã hội, không thể có sự vận động của
xã hội.
• Quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Khái niệm cá nhân được phân biệt với khái niệm con người vì con người là khái
niệm dùng để chỉ tính phổ biến trong bản chất người của tất cả các cá nhân. Ở đây, cá
nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư cách là
cá thể, mỗi thành viên trong xã hội ấy được phân biệt với các cá thể khác thông qua
tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có quan hệ xã
hội riêng, nhưng điều đó không loại trừ tính chung trong mỗi cá nhân là thành viên của
xã hội và mang bản chất của xã hội.
Xã hội do cá nhân tạo nên. Các cá nhân sống và hoạt động theo nhóm, cộng
đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch sử xác định. Yếu tố xã hội là đặc
trưng cơ bản để hình thành cá nhân.
Như vậy, cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang tính cá biệt, vừa mang
tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm
thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử xã hội.
Để phân biệt cá nhân cần chú ý đến nhân cách của cá nhân đó. Nhân cách là
khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính cách

bên trong của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá
thể với giống loài thì nhân cách là khái niệm chỉ sự khác biệt của các cá nhân. Cá nhân
là phương thức biểu hiện của giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách
18
thức biểu hiện của mỗi cá nhân riêng biệt. Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo,
riêng biệt của mỗi cá nhân. Bởi vậy, nếu cá nhân là khái niệm chỉ sự khác biệt giữa cá
thể với giống loài còn nhân cách vừa là nội dung, vừa là cách thức biểu hiện của mỗi
cá nhân riêng biệt. Ngoài ra, nhân cách còn biểu hiện cái tôi giữa các cá nhân, là sự
tổng hợp giữa các yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng của mỗi cá
nhân, đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi
hoạt động của mình. Hơn nữa, nhân cách không phải là cái bẩm sinh, sẵn có mà được
hình thành và phát triển phụ thuộc vào ba yếu tố sau đây:
Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học, một cá
thể sống phát triển cao nhất của giới hữu sinh.
Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của
nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường và xã hội của
mỗi cá nhân.
Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm toàn bộ các yếu
tố như quan điểm, lí luận, niềm tin, định hướng giá trị
Dựa trên nền tảng thế giới quan cá nhân để hình thành các thuộc tính bên trong
về năng lực, về phẩm chất xã hội như năng lực trí tuệ, chuyên môn, phẩm chất giá trị,
đạo đức, pháp luật, thẩm mĩ.
Một xã hội tiến bộ là một xã hội mà mỗi cá nhân phát triển nhân cách của mình
theo hướng tích cực, phát huy vai trò động lực, chủ thể sáng tạo của mỗi cá nhân.
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với
cá nhân. Quan hệ giữa cá nhân và xã hội là vấn đề có ý nghĩa lớn được đề cập một
cách toàn diện và sâu sắc trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong bất cứ giai đoạn nào, cá nhân cũng không tách rời xã hội. Là một hiện
tượng lịch sử, quan hệ cá nhân – xã hội luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, sự
thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này với hình

thái kinh tế - xã hội khác. Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết các
quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào quá trình
kinh tế, xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân
càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Mặt
khác, mỗi cá nhân trong xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện để thúc đẩy xã hội
19
tiến lên. Vì vậy, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân
là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Nếu vấn đề chăm sóc và phát triển những nhu cầu và năng lực phong phú, đa
dạng của mỗi cá nhân hoàn toàn không mâu thuẫn với sự phát triển của xã hội, đồng
thời nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hội ngày càng phát triển thì càng có điều kiện
để thúc đẩy xã hội tiến lên. Do đó, cá nhân tác động đến xã hội tùy thuộc vào trình độ
của cá nhân. Những cá nhân có đạo đức và tài năng thường đóng góp tích cực và xứng
đáng vào sự phát triển của xã hội. Ở đây, mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội do sự quy định về mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan biểu hiện ở
trình độ phát triển và năng suất lao động. Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận
thức và vận dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn đang tồn tại. Do đó cần giải
quyết đúng đắn quan hệ cá nhân – xã hội, cần nên tránh những thái độ cực đoan như
chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội hoặc ngược lại.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường đang thúc đẩy sự phát triển của
lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần
ngày càng đa dạng và phong phú. Lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội
mới để phát triển cá nhân. Tuy nhiên cơ chế này có thể dẫn đến tuyệt đối hóa lợi ích
kinh tế, dẫn đến phân hóa giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập
giữa cá nhân và xã hội. Do đó, chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường,
phát huy vai trò nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người của Đảng ta là một
mục tiêu có ý nghĩa quyết định để giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Theo tinh thần nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ

ra: Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, có ý
thức tự cường dân tộc, trách nhiệm cao trong lao động, có lương tâm nghề nghiệp, có
tác phong công nghiệp, có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống văn hóa,
quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về con người
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh
Mỗi thời đại, mỗi giai cấp có sự nhìn nhận khác nhau về con người. Hồ Chí
Minh thường nói tới con Lạc cháu Hồng, Người đã có cảm nhận thiêng liêng về hai
20
tiếng “đồng bào”. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin và qua hoạt động thực
tiễn, Hồ Chí Minh sử dụng khái niệm: người bản xứ bị bóc lột; người mất nước; người
da đen; người cùng khổ; người vô sản,
Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lãnh đạo nhân
dân đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh đụng đến khái niệm: đồng
bào; quốc dân… Khi miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người dùng thêm nhiều
khái niệm như: công nhân; trí thức; lao động chân tay;…
Từ thập kỉ bốn mươi của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh bàn đến chữ “người” với
nhiều nghĩa và phạm vi khác nhau.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, không có con người
trừu tượng. Người viết “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn.
Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn là cả loài người” [19; tr.644]. Như vậy, có
thể thấy, Hồ Chí Minh xem xét con người trong các quan hệ xã hội của nó. Cách tiếp
cận vấn đề con người như vậy là phù hợp với cách tiếp cận chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Mác – Lênin được Hồ Chí Minh tiếp thu và truyền bá vào trong
nước đã nâng cao truyền thống dân tộc về con người, góp phần hình thành một cách
hoàn chỉnh tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh, khẳng định thêm những tư tưởng mà
Người đã tiếp thu truyền thống của dân tộc chung quanh vấn đề con người. Đối với Hồ
Chí Minh, con người vừa tồn tại với tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và
cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú.
Bao giờ Hồ Chí Minh cũng nói đến con người cụ thể, lịch sử. Chưa bao giờ thừa
nhận con người một cách chung chung, trừu tượng. Tùy theo từng thời điểm lịch sử cụ thể

gắn liền với từng thời kì cách mạng, Người dùng khái niệm này hay khái niệm khác để chỉ
“con người” và xem xét nó trên những bình diện, những chiều khác nhau.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, con người Việt Nam đã trở thành người tự do
cùng với toàn thể nhân dân làm chủ đất nước. Hồ Chí Minh thường dùng các khái
niệm: đồng bào; nhân dân; quốc dân; dân;… và qua đó đặt con người trong quan hệ
gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc.
Cách tiếp cận cơ bản nhất của Hồ Chí Minh là thống nhất lập trường giai cấp
với lập trường dân tộc, cũng như cách tiếp cận xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh và là
sự vận dụng sáng tạo lập trường giai cấp vô sản vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm trù bản thể
luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó
21
là nhân dân Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới
ách thống trị của bọn thực dân phong kiến. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh con người
được nhìn nhận là mục tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là
động lực của chính sự nghiệp đó. Người viết: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở
trong lòng, ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa
xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những
người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản bội Tổ Quốc và nhân dân, ta cũng phải
giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho các phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi
phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” [19; tr.558].
Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm “CON NGƯỜI” trong một số trường hợp hãn
hữu. Trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, Người viết rằng nhân dân thuộc
địa bị tước đoạt mất các quyền lợi gắn liền với phẩm giá con người. Và trong bản bổ
sung cho Di chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người” [20; tr.383].
Con người với những đặc điểm nói trên cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh và thể hiện ở ba nội dung:
Thứ nhất, sự cảm nhận, cảm thông hết sức sâu sắc mọi niềm đau khổ của con người
nô lệ và con người cùng khổ. Có thể thấy rõ điều này qua các bài viết của Người tố
cáo tội ác mà chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và

chế độ tư bản chủ nghĩa gây ra cho con người.
Thứ hai, quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con người. Người viết: Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.
Thứ ba, tin tưởng vào khả năng tự giải phóng của con người và không ngừng rèn
luyện, phát huy khả năng ấy.
Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết phải là giải phóng dân
tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn,
mặc, ở, đi lại, học hành được ưu tiên hơn. Bởi Người cho rằng, nếu nước độc lập mà
dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lí gì; vì vậy, chúng
ta cần thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở,
làm cho dân được học hành.
22
Khẳng định con người là mục tiêu, là động lực của cách mạng thì điều quan
trọng là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích
chính đáng của con người. Có thể đó là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt; lợi ích của cả
dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân.
Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước,
toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý
nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, không phải mọi con người ai cũng trở thành động lực, mà phải là
những con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải
có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên truyền thống lịch sử và
văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam.
Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có
lãnh đạo.
Vì vậy, vai trò của Đảng cách mạng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng là vô cùng quan trọng. Qua các phong trào cách mạng quần chúng, Đảng sẽ

nhân sức mạnh của con người lên gấp bội.
Trong khi nhận thức sâu sắc, đầy đủ vai trò động lực của con người thì phải
thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người với mục tiêu và con người với động lực.
Càng chăm lo cho con người và mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ phát huy con người và
động lực tốt bao nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người và động
lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.
Hồ Chí Minh nêu bật ý nghĩa của chiến lược xây dựng con người mới. Trên cơ
sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí
Minh rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người. Người nói tới:
lợi ích trăm năm, và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là những quan điểm mang
tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách.
Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa
nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm
trong chiến lược giáo dục – đào tạo theo nghĩa hẹp.
Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con
người xã hội chủ nghĩa” [19; tr.310].
23
Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra.
Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì cần có những con người xã
hội chủ nghĩa. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng
con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm
gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện,
nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó
chặt chẽ với nhau.
Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và
phương Đông).
Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo
đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có
lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.

Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh con người được nhìn nhận vừa là mục
tiêu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự
nghiệp đó. Tư tưởng đó được thể hiện triệt để và cụ thể trong lí luận chỉ đạo cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
1.2.2.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là
đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành
lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Trong xã hội hiện đại, nguồn tài nguyên đích thực và quý giá nhất của mỗi quốc
gia chính là con người của quốc gia đó. Do vậy, mục đích phát triển kinh tế – xã hội
xét đến cùng là vì con người, để được như vậy chúng ta cần tạo môi trường thuận lợi
để con người có cuộc sống hạnh phúc, có sức khỏe và có cơ hội phát huy mọi năng lực
sáng tạo.
Tuy nhiên trên thực tế, không phải quốc gia nào cũng nhận thức được điều đó,
ngoài việc dựa trên sự phát triển về kinh tế, còn phụ thuộc vào bản chất chính trị cũng
như sự nhận thức của lực lượng lãnh đạo xã hội về vị trí, vai trò của con người trong
sự phát triển của xã hội.
24
Trong quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, thực chất của tiến trình lịch sử xã hội
vì con người, vì cuộc sống ngày càng hạnh phúc và tốt đẹp cho con người, vì cuộc
sống của con người và sự phát triển toàn diện của con người.
Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng đầy
đủ, đúng đắn hơn về nhân tố con người cũng như tầm quan trọng của việc phát triển
con người.
Phát triển con người, thường xuyên chăm lo cho hạnh phúc của mỗi người, mỗi
gia đình luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam đặt lên hàng đầu với khẩu hiệu: gia đình
là tế bào của xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với tôn chỉ của Đảng luôn được xác
định ngay từ khi mới thành lập và giữ vững trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng:
ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam không

có lợi ích nào khác.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước, Đảng nhận thức, bổ sung và phát triển ngày càng đầy đủ hơn, đúng đắn
hơn những tư tưởng sâu sắc, có ý nghĩa chỉ đạo và định hướng về vấn đề con người
trong lí luận của những mục tiêu của công việc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những
bước đi thiết thực và những nội dung cơ bản nhất.
Trong thời kì đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng, nguồn lực
quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam. Nhân tố con người
chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Đối với một nước chủ động lựa chọn và kiên trì con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa như Việt Nam trong thời kì đổi mới thực sự xuất phát từ con
người, vì mục tiêu phát triển con người. Thật vậy, đường lối phát triển kinh tế - xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội “do
nhân dân lao động làm chủ”,“con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột bất
công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” [20, tr.66].
Vì thế, phương hướng và mục tiêu lớn nhất của chính sách xã hội, như Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ là “phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, kết hợp tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng những nhu
25

×