Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phần II chương 5 Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 7 trang )

51
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
Chương 5
Nhận thức, kiến thức và
nguồn thông tin về sức
khỏe sinh sản
Thanh thiếu niên được hỏi về 4 vấn đề sức khỏe
sinh sản và tình dục gồm: kế hoạch hóa gia đình,
sự thụ thai và kinh nguyệt, giới tính-tình dục, tình
yêu và hôn nhân gia đình. Trung bình, thanh
thiếu niên đã từng nghe về 3,4 chủ đề. 95,5% đã
nghe ít nhất 1 chủ đề. Số chủ đề thanh thiếu
niên đã được nghe tăng dần theo tuổi, từ 3,2 chủ
đề ở nhóm 14-17 tuổi lên đến 3,5 chủ đề ở nhóm
18-21, và 3,6 chủ đề ở nhóm 22-25 tuổi.
5.1. Nhận thức về các chủ đề sức
khỏe sinh sản
Nhìn chung, tỷ lệ thanh thiếu niên đã nghe nói
về các chủ đề này rất cao, chủ đề ít được nghe
nhất cũng đạt 77,7% đó là chủ đề về thai nghén
và kinh nguyệt, chủ đề kế hoạch hóa gia đình
được nghe nói đến nhiều nhất với tỷ lệ 92,4%.
Không có sự khác nhau đáng kể giữa nam và nữ
tuy nhiên có sự khác biệt rõ ràng giữa thanh
thiếu niên dân tộc Kinh với nhóm các dân tộc
khác. Biểu đồ 22 cho thấy nhận thức của các
nhóm thanh thiếu niên dân tộc thiểu số về các
vấn đề sức khỏe sinh sản thấp hơn so với nhóm
thanh thiếu niên dân tộc Kinh từ 14-17%.
Thanh thiếu niên nông thôn nhận thức về sức
khỏe sinh sản tương đối thấp hơn trừ chủ đề kế


hoạch hóa gia đình. Điều này có thể giải thích
được vì những chiến dòch truyền thông về kế
hoạch hóa gia đình được tiến hành một cách rộng
rãi trên toàn quốc trong hai thập niên qua so với
các vấn đề sức khỏe sinh sản khác, ví dụ như vấn
đề giới. Vì vậy, khi lập kế hoạch chương trình
trong tương lai cần nhấn mạnh hơn vào các chủ đề
khác như: giới, quan hệ tình dục hoặc thai nghén.
Tuy nhiên nhận thức về một vấn đề nào đó (ở
đây được hiểu là có nghe nói về vấn đề đó) chưa
chắc đã nói lên kiến thức và hiểu biết đúng trong
lónh vực đó. Kết quả của SAVY cho thấy tỷ lệ đã
nghe nói về kế hoạch hóa gia đình và thai
nghén/chu kỳ kinh nguyệt khá cao, nhưng khi hỏi
về kiến thức thời điểm dễ có thai trong chu kỳ
kinh nguyệt chỉ có dưới 30% trả lời đúng.
5.2. Nguồn thông tin
Thanh thiếu niên được yêu cầu cho biết họ nhận
được thông tin về sức khỏe sinh sản từ những nguồn
nào dựa vào 15 nguồn cho trước. Các câu trả lời sau
đó được gộp lại thành 4 nhóm nguồn chính sau:
z Thông tin đại chúng (ti vi, đài, báo và tạp chí,
sách)
z Gia đình (cha mẹ, anh, chò)
z Những người có chuyên môn (giáo viên, nhân viên
y tế, cộng tác viên dân số)
z Bạn (bạn bè, người yêu)
Trung bình mỗi thanh thiếu niên có được thông tin
từ 3,1 trên 4 nhóm. Thấp nhất là nhóm nam dân
BIỂU ĐỒ 22 Nhận thức về các chủ đề sức khỏe sinh sản

Tỷ lệ %
52
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
tộc thiểu số (2,6) và cao nhất là nữ thanh niên
thành thò 22-25 tuổi (3,5).
Biểu đồ 23 cho thấy, thông tin đại chúng là
nguồn cung cấp thông tin phổ biến nhất cho
thanh thiếu niên về sức khỏe sinh sản (trong số 4
nhóm được liệt kê nói trên). Một điều thú vò là sự
khác biệt giữa thành thò và nông thôn chỉ là 5%
trong việc tiếp cận thông tin từ nguồn thông tin
đại chúng (97% thành thò và 92% nông thôn), mặc
dù chỉ có 73% thanh thiếu niên nông thôn có tivi.
Tỷ lệ thanh thiếu niên có được thông tin từ những
cán bộ chuyên môn xếp thứ 2 (80,2%), bao gồm giáo
viên (67,8%), nhân viên y tế (47,6%), và cộng tác
viên dân số (42,3%). Có sự khác biệt rõ rệt giữa tỷ lệ
thanh niên có gia đình (62%) và chưa có gia đình
(36,3%) tiếp cận thông tin từ cộng tác viên dân số.
Thanh thiếu niên còn đang đi học nhận được thông
tin từ giáo viên nhiều hơn từ các nguồn khác (70-
80%). Điều này cho thấy giáo viên ở các trường phổ
thông có trao đổi một số thông tin về sức khỏe sinh
sản với học sinh. Tuy nhiên nghiên cứu này không đi
sâu tìm hiểu các chương trình sức khỏe sinh sản ở
trường có đầy đủ và toàn diện hay không. Các
phương tiện thông tin đại chúng có thể truyền đạt các
thông điệp tới thanh thiếu niên, tuy nhiên giáo viên
và nhà trường có thể làm tốt hơn trong việc hỗ trợ
các em phát triển kỹ năng sống, vì kỹ năng không

thể chuyển tải được qua các kênh truyền thông đại
chúng. Ngoài ra, cũng cần nâng cao kỹ năng truyền
thông chuyển đổi hành vi cho cán bộ y tế.
Có sự khác biệt rõ rệt giữa nam và nữ trong việc
nhận được các thông tin về sức khỏe sinh sản từ
gia đình (84,9% nữ và 62,7% nam).
5.3. Chia sẻ thông tin về hiện tượng
dậy thì
Thanh thiếu niên được hỏi có nói với ai về hiện
tượng dậy thì của mình không. Kết quả cho thấy
sự khác biệt đáng kể giữa hai giới. Mặc dù có
khoảng một nửa số thanh thiếu niên kể chuyện
này với người khác, nhưng nữ kể nhiều hơn hẳn
(80,6%) so với nam (14,9%). Tỷ lệ nữ nói chuyện
với một người nào đó trong gia đình cũng nhiều
hơn so với nam (91,1% nữ và 24,2% nam). Một
trong những giải thích có thể là hiện tượng kinh
nguyệt lần đầu gây lo lắng cho thiếu nữ và các
em cần sự giúp đỡ về vệ sinh cơ thể nhiều hơn
là các em nam khi xuất tinh lần đầu.
Trong số nữ có chia sẻ với người khác về hiện
tượng dậy thì của mình, 92,6% tâm sự với gia
đình và người thân, chủ yếu nói với cha mẹ,
trong khi đó nam thích nói chuyện với bạn bè
hơn (72%). Tuy nhiên ở nam thanh thiếu niên
càng trẻ tuổi, xu hướng tâm sự với gia đình càng
cao (42% nam thành thò 14-17 giảm còn 31,1% ở
nhóm 18-21 và tới 13,3% trong nhóm 22-25). Hiện
tượng này cũng thấy ở nam nông thôn với tỷ lệ
tương ứng với các nhóm tuổi là 42%, 14,2%, và

13,4% nói chuyện về dậy thì với gia đình.
Khi so sánh việc tâm sự về hiện tượng dậy thì ở
nữ, có thể thấy một điều đáng khích lệ là tỷ lệ
nhóm nữ 14-17 tuổi tâm sự nhiều hơn so với
nhóm tuổi 18-21 và 22-25 khi họ trải qua giai
đoạn dậy thì (92%, 89%, 85% ở khu vực thành thò;
86%, 74%, 69% ở khu vực nông thôn tương ứng
với 3 nhóm tuổi tăng dần), điều này cho thấy sự
BIỂU ĐỒ 23 Các nguồn thông tin
Tỷ lệ %
53
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
nhận thức cởi mở hơn trước khi nói về những vấn
đề đã từng được coi là thầm kín và dấu diếm.
Nhìn chung, 75,9% thanh thiếu niên cho biết họ
có nghe các chủ đề nói trên từ bạn bè, nhóm 22-
25 tuổi là 85,1% tiếp đến là 82,2% ở nhóm 18-21
tuổi và 66,6% ở nhóm 14-17 tuổi. Điều này cũng
dễ hiểu vì chủ đề sức khỏe sinh sản thường dễ
nói ở lứa tuổi lớn.
5.4. Tiếp cận với thông tin đại
chúng
Thông tin đại chúng không chỉ là một phương tiện
giải trí mà còn là một nguồn cung cấp thông tin
hữu ích, và cuộc điều tra này đã tập trung tìm hiểu
khía cạnh thứ hai đó. Như đã phân tích ở phần
trên, thông tin đại chúng là nguồn cung cấp thông
tin về sức khỏe sinh sản phổ biến nhất đối với tất
cả các nhóm thanh thiếu niên. Trong SAVY thanh
thiếu niên được hỏi về việc tiếp cận các nguồn

thông tin (tivi, radio/đài, sách, báo/tạp chí và
Internet), được tính thang điểm từ 1-4, với điểm tối
đa là 4 nghóa là đã tiếp cận tất cả nguồn được liệt
kê. Điểm trung bình chung là 3,1.
Thanh thiếu niên được hỏi về tần suất xem tivi,
nghe đài và đọc báo. Kết quả cho thấy tivi vẫn là
nguồn thông tin quan trọng nhất.
z Tivi: 86,5% thanh thiếu niên xem ít nhất 2 lần
một tuần, có 50% xem hàng ngày.
z Đài: 52% nghe đài ít nhất 2 lần một tuần.
z Báo, tạp chí: 45% đọc ít nhất 2 lần một tuần.
z Internet: 17,3% đã từng sử dụng; khác biệt đáng
kể giữa thành thò và nông thôn (50,2% và 12,8%).
Ở khu vực thành thò, việc sử dụng tivi, sách báo và
Internet nhiều hơn hẳn so với nông thôn tuy nhiên
nghe đài thì theo chiều ngược lại (Biểu đồ 25).
Điều này có thể giải thích do điều kiện kinh tế,
Internet là tốn kém nhất, sách báo, tạp chí phải
mua từng số và tivi thì không phải nhà nào ở nông
thôn cũng có. Đây là chỉ báo rất tốt cho việc nên
tập trung vào nguồn thông tin nào hay đối tượng
nào cho hiệu quả khi thiết kế các chương trình
truyền thông trong tương lai.
Tuy chỉ có 73% thanh thiếu niên nông thôn gia đình
có tivi, nhưng 85% cho biết xem tivi thường xuyên,
có thể là xem ở nhà hàng xóm, bạn bè hoặc quán
xá làm cho việc xem tivi trở nên một sinh hoạt giao
lưu. Chương trình tivi yêu thích bao gồm: phim
BIỂU ĐỒ 25 Sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng

BIỂU ĐỒ 24 Kể với người khác về hiện tượng dậy thì
(phân theo tuổi, giới, thành thò và nông thôn)
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
54
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
truyện, kể cả phim truyền hình (29,4%), thời sự
(23,9%) và âm nhạc (23,2%). Chương trình radio yêu
thích nhất là âm nhạc (40%), kể chuyện (22,2%) và
thời sự (10,5%). Báo được yêu thích nhất là các báo
Thể thao (11,9%), các báo Phụ nữ (11,3%), báo Hoa
học trò phổ biến hơn đối với nữ (10,3%).
Khi trưởng thành hơn, thanh thiếu niên thường có
xu hướng xem, nghe, đọc các nội dung mang tính
thông tin nhiều hơn giải trí đơn thuần. Xu hướng
của nam thích xem báo Công an và chương trình
thời sự trên tivi, xu hướng của nữ là chuyển từ báo
Hoa học trò sang báo Phụ nữ.
Internet
Thanh thiếu niên phần lớn đều biết Internet là một
nguồn thông tin và giải trí: 90,3% thanh thiếu niên
ở thành thò và 65,6% ở nông thôn đã nghe nói về
Internet, tuy nhiên tỷ lệ đã sử dụng còn thấp. Chỉ
có 17,3% trên tổng số đã từng dùng Internet, trong
đó thanh thiếu niên nông thôn sử dụng ít hơn
thanh thiếu niên thành thò tới 4 lần (12,8% và
50,2%). Thanh thiếu niên sử dụng Internet làm
phương tiện giải trí nhiều hơn để tìm kiếm thông
tin. Phần đông (68,7%) có sử dụng Internet để tán
gẫu và 61,4% sử dụng máy tính/Internet để chơi

games.
5.5. Nhận thức và kiến thức về sức
khỏe sinh sản
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục
(STI)
Thanh thiếu niên được hỏi về 9 bệnh lây truyền
qua đường tình dục ngoài HIV mà họ đã nghe nói.
Khi nêu đúng một tên bệnh, được tính 1 điểm.
Nhìn chung điểm trung bình của mỗi thanh thiếu
niên là 3. Mức độ nhận thức về các bệnh: nam
thành thò 22-25 tuổi 4,7 điểm, nam nông thôn 14-17
tuổi 2,5 điểm, nhóm thanh thiếu niên các dân tộc
thiểu số 2,1 điểm. Nhận thức về các bệnh lây qua
đường tình dục có vẻ thấp hơn nhận thức về các
chủ đề sức khỏe sinh sản, bao gồm HIV. Nhận
thức giữa hai nhóm có gia đình và còn độc thân
tương tự nhau.
Biểu đồ 28 cho thấy tỷ lệ thanh thiếu niên đã từng
nghe nói đến bệnh viêm gan B cao nhất 72,2%. Có
sự khác biệt khá rõ giữa các nhóm, trong đó nhóm
nam nữ thành thò cao hơn cả (81%). Một tỷ lệ khá
cao đã nghe nói về giang mai và lậu (61,9% và
62,8%). 24,5% đã nghe nói về trùng roi, trong đó
thanh thiếu niên nông thôn được nghe nói nhiều
hơn thành thò, mụn rộp (herpes) (20,4%) và sùi
mào gà/u nhú/mồng gà (21,8%). Chỉ có 7,2% nghe
nói về chlamydia. Có sự liên hệ rõ ràng giữa kiến
thức về chlamydia ở các nhóm tuổi, càng lớn tuổi,
thanh thiếu niên càng hiểu biết về bệnh này nhiều
hơn.

Có sự khác biệt về nhận thức giữa các nhóm về
lậu và giang mai. Nhóm nam thanh niên thành thò
22-25 tuổi nhận thức về giang mai (87%) và lậu
(91%) cao hơn các nhóm khác. Sự khác nhau về
BIỂU ĐỒ 27 Sửû dụng Internet
BIỂU ĐỒ 26 Sở thích đọc báo của nữ theo nhóm tuổi
Tỷ lệ %
Tuổi
55
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
nhận thức 2 bệnh này chênh lệch 20% giữa nhóm
thành thò và nông thôn (Biểu đồ 29).
Chỉ có 0,3% thanh thiếu niên cho biết đã từng mắc
STI, tuy nhiên tỷ lệ này ở nhóm đã lập gia đình là
0,5% và nhóm còn độc thân có quan hệ tình dục
là 0,2%. Tỷ lệ này là nhỏ, và trong số những người
đã mắc, phần lớn đi chữa trò tại các cơ sở y tế
công, một số nhỏ tới phòng khám tư, một số tự
mua thuốc chữa và một vài người nói là không
điều trò gì.
Hiểu biết về chu kỳ kinh nguyệt
Thanh thiếu niên còn thiếu kiến thức về thời điểm
dễ thụ thai trong chu kỳ kinh nguyệt, chỉ có 27,8%
trả lời đúng trong đó nữ hiểu biết cao hơn nam
(33,3% so với 21,1%). Đáng ngạc nhiên là mức độ
kiến thức của nhóm đã lập gia đình và chưa có gia
đình ngang nhau.
Phát hiện này cũng đáng lưu tâm vì thanh thiếu
niên sẽ khó có thể chủ động về vấn đề thai nghén
của họ và có quyết đònh về các hành vi tình dục

của mình cũng như ý thức được các hậu quả có
thể xảy ra. Mặc dù thanh thiếu niên biết về các
biện pháp tránh thai, nếu họ không biết thời điểm
thích hợp nhất để sử dụng các biện pháp này thì
hiệu quả cũng bò giảm sút. Nữ thanh niên cũng
cần biết về sự rối loạn chu kỳ kinh nguyệt và cần
có biện pháp dự phòng vào bất kỳ lúc nào. Rõ
ràng là thông tin về thời điểm có thể thụ thai đã
không được truyền thông đầy đủ. Cũng có thể là
thanh thiếu niên chưa hiểu rõ hoặc nhầm lẫn các
khía cạnh khác của vấn đề sức khỏe sinh sản.
Điều này cho thấy cần làm cho công tác truyền
BIỂU ĐỒ 29 Nghe nói về lậu, giang mai
Biểu đồ 28 Nghe nói về bệnh lây truyền qua đường tình dục
Tỷ lệ %Tỷ lệ %

×