13
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
Chương 1
Giới thiệu khái quát
Cuộc điều tra quốc gia về
Vò thành niên và Thanh
niên Việt Nam (SAVY)
Đây là báo cáo của cuộc Điều tra Quốc gia về Vò
thành niên và Thanh niên Việt Nam (SAVY), đánh
dấu một bước ngoặt trong công tác phát triển đối
với vò thành niên và thanh niên ở Việt Nam. Kết
quả cuộc điều tra chọn mẫu quốc gia lần đầu tiên
này nhằm cung cấp thông tin cho các sáng kiến
chương trình trong tương lai để thúc đẩy sự phát
triển của thanh thiếu niên trên cả nước, không chỉ
trong lónh vực sức khỏe mà các lónh vực khác như
giáo dục, việc làm, văn hóa thông tin và vai trò
của gia đình.
Theo kết quả điều tra SAVY, đa số thanh thiếu
niên Việt Nam chăm chỉ, siêng năng, có mối quan
hệ mật thiết với gia đình, lạc quan về tương lai và
nhìn chung hài lòng với công việc hiện tại của họ.
Thanh thiếu niên phấn khởi về việc học hành và
trường lớp đồng thời cảm thấy được đối xử công
bằng. Rất ít cá nhân tham gia vào các hành vi có
hại hoặc không phù hợp với thuần phong mỹ tục.
Đa số không ủng hộ quan hệ tình dục sớm, mà có
thái độ cam kết mang tính bền vững, yêu và tiến
tới hôn nhân trước khi có quan hệ tình dục. Tuy
nhiên có những khác biệt về giới, trong đó nam
thường tham gia vào các hành vi có hại cho sức
khỏe như hút thuốc, uống rượu, quan hệ tình dục
không an toàn, đua xe hoặc các hành vi bạo lực.
Một số ít nhưng khá quan trọng có nguy cơ bỏ học
sớm do tình trạng khó khăn về kinh tế và những
sức ép khác của quá trình phát triển. Môi trường
gia đình có một vai trò quan trọng trong việc đònh
hình các hành vi và lối sống của thanh thiếu niên,
mang lại cho họ những cơ hội và đáp ứng nhu cầu
của họ như: cải thiện hoàn cảnh kinh tế, sự hài
hòa gia đình, sự cởi mở trao đổi những vấn đề như
dậy thì, tình bạn, tình yêu và HIV/AIDS. Cha mẹ
cũng có thể là những mẫu hình tích cực hoặc tiêu
cực đối với giới trẻ.
Những kiến nghò đề xuất của báo cáo này bao
gồm các chiến lược xây dựng môi trường thân
thiện mang tính hỗ trợ cho thanh thiếu niên, đồng
thời củng cố những hành vi tích cực về mặt sức
khỏe và xã hội của họ, thúc đẩy nghò lực và tính
tích cực lạc quan hướng về tương lai. SAVY là kết
quả của một quá trình phối hợp với sự tham gia
của nhiều cơ quan, ban ngành, sự đóng góp đáng
kể của hàng ngàn thanh thiếu niên trên toàn quốc.
Kết quả SAVY được thể hiện trong báo cáo này
cần được xem như là sự khởi đầu hơn là sự kết
thúc. Nó khởi đầu một quá trình còn đang tiếp
diễn nhằm theo dõi hoàn cảnh kinh tế, xã hội của
thanh thiếu niên đang được cải thiện theo thời
gian.
SAVY là một công trình nghiên cứu cấp quốc gia
đầu tiên về thanh thiếu niên được tiến hành ở Việt
Nam nhằm cung cấp thông tin để xây dựng những
chương trình giúp thanh thiếu niên trên toàn quốc
phát triển một cách toàn diện.
Phần I
Giới thiệu
và Phương pháp
14
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
1.1. Giới thiệu khái quát về Việt
Nam
Việt Nam có diện tích tự nhiên là 331.000 km
2
với
3/4 là đồi núi và cao nguyên. Hơn 40% dân số cả
nước sống ở Châu thổ Đồng bằng sông Hồng và
sông Cửu Long.
Việt Nam là quốc gia gồm hơn 54 dân tộc, trong
đó đa số là người Kinh (chiếm 86%), có 4 dân tộc
có trên 1 triệu dân là Tày, Thái, Mường, Kh’me
(Tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 1999). Tiếng
Việt là ngôn ngữ chính thức. Năm 2003 dân số Việt
Nam là 80,6 triệu người, thuộc nhóm 14 nước đông
dân nhất trên thế giới. Đa số dân số sống ở khu
vực nông thôn và làm nông nghiệp (hơn 75%). Tốc
độ tăng dân số bình quân hàng năm từ 1989-1999
là 1,64%/năm.
Các tôn giáo chính
1
: Phật giáo (7,1 triệu tín đồ),
tiếp đó là Công giáo (5,1 triệu tín đồ), Hòa hảo
(1,2 triệu tín đồ), Cao đài (0,9 triệu tín đồ), Tin
lành (0,4 triệu tín đồ). Người Việt Nam chòu nhiều
ảnh hưởng của Khổng giáo và Lão giáo.
Bước vào thập niên 90, Việt Nam đã có những
bước chuyển biến tích cực và toàn diện về kinh tế-
xã hội, kết quả của những thành công trong công
cuộc đổi mới được tiến hành từ năm 1986. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 7-
7,2% giai đoạn 2000-2003. Từ năm 1990 đến 1999,
GDP tăng lên gấp đôi
2
, hiện nay đã đạt hơn 400
USD.
Mặc dù đã có những thành tựu đáng kể về kinh tế
và xóa đói giảm nghèo nhưng Việt Nam hiện tại
vẫn là một nước nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo đến nay
vẫn ở mức cao (28,8% năm 2002). Quan điểm của
Việt Nam là không tách rời giữa phát triển kinh tế
với công bằng xã hội. Công cuộc xóa đói giảm
nghèo được coi trọng, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu
chuẩn quốc tế liên tục giảm nhanh. Từ một nước
có tới 58% hộ nghèo năm 1993, giảm xuống còn
37,4% năm 1998 và ở mức 28,8% năm 2002. Những
chỉ số xã hội và sức khỏe của Việt Nam có thể so
sánh được với nhiều nước có điều kiện kinh tế khá
hơn. Chỉ số phát triển con người HDI là 0,688, tỷ
lệ biết chữ ở người lớn năm 2002 là 94,3%
3
, tuổi
thọ bình quân là 68,8 năm 2003.
Do đặc điểm đòa lý nằm trải dài từ Bắc xuống
Nam, đòa hình đồi núi gãy khúc nên việc đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng tốn kém, hiệu quả thấp.
Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu tạo
nên sự bất bình đẳng về kinh tế và xã hội giữa
các vùng, đặc biệt là giữa dân tộc thiểu số và dân
tộc Kinh. Nhận thức được điều này, trong nhiều
năm qua Nhà nước Việt Nam đang thực hiện nhiều
chương trình mục tiêu nhằm ưu tiên cho phát triển
kinh tế-xã hội miền núi như chương trình 135, 143,
v.v...
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu không thể
phủ nhận trong một thập niên qua về phát triển
kinh tế - xã hội, chính sách hội nhập, mở cửa
cũng làm gia tăng và phát sinh những thách thức
mới, các vấn đề xã hội như ma túy, mại dâm, vấn
đề lây nhiễm HIV/AIDS, tình trạng di dân, tai nạn
giao thông, bạo lực trong gia đình và tình trạng gia
đình tan vỡ, tính cá nhân hóa ngày càng tăng
trong thò trường cạnh tranh…
1.2. Thanh thiếu niên Việt Nam
Sự phát triển của thanh thiếu niên luôn là vấn đề
được quan tâm hàng đầu ở Việt Nam cũng như ở
nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, thanh thiếu
niên ở độ tuổi 14-25 là nhóm đông nhất (chiếm
24,5% dân số - theo số liệu Tổng điều tra dân số
1999). Vì thanh thiếu niên có tiềm năng to lớn
quyết đònh sự lớn mạnh và thònh vượng của đất
nước nên việc nắm được những vấn đề cốt lõi
trong sự phát triển của họ là hết sức quan trọng.
Mặc dù vò thành niên và thanh niên trên toàn thế
giới đều trải qua quá trình phát triển với những
đặc điểm chung, nhưng ở mỗi quốc gia, giai đoạn
này mang một số đặc trưng văn hóa nhất đònh. Tại
Việt Nam, vò thành niên là một hiện tương tương
đối mới mẻ đang nhận được nhiều sự quan tâm do
đây là độ tuổi thường gắn liền với sự phát triển trí
15
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
tuệ, khả năng và tính tự chủ, người ta thường quan
niệm thanh niên và vò thành niên vẫn cần được
người lớn đònh hướng, uốn nắn để theo dõi hành
vi của họ.
Tuy vậy, quan niệm về vò thành niên ở Việt Nam
cũng đang dần thay đổi. Thanh thiếu niên ngày
càng khẳng đònh vai trò và bản sắc của mình cùng
với quá trình đổi mới về kinh tế xã hội không
ngừng ở Việt Nam cũng như xu hướng toàn cầu
hóa. Tuổi vò thành niên là một hiện tượng xã hội
đang phát triển cùng với xu thế kinh tế thời đại:
giới trẻ đang hòa mình vào thời đại mà xu thế
người ta đi du lòch ngày càng nhiều, tính lưu động
của dân cư cao, mức sống được nâng lên, một xã
hội mà việc giáo dục ngày càng được đánh giá cao
và cơ hội việc làm trở nên khó khăn hơn... Tất cả
những sự vận động này đã và đang đònh hình môi
trường phát triển của thanh thiếu niên.
1.3. Điều tra về vò thành niên và
thanh niên Việt Nam (SAVY)
Cuộc Điều tra SAVY được tiến hành nhằm mục
đích:
z Cung cấp thông tin để làm cơ sở cho các sáng
kiến trong tương lai để thúc đẩy sự phát triển
lành mạnh của thanh thiếu niên trên cả nước.
z Làm cơ sở cho quá trình phát triển chính sách
và chương trình để hỗ trợ thanh thiếu niên.
z Cung cấp dữ liệu nền về thanh thiếu niên để
xác đònh xu hướng phát triển trong những
năm sắp tới.
Cuộc điều tra SAVY là một quá trình phối hợp giữa
nhiều cơ quan, tổ chức và thanh thiếu niên để xây
dựng cơ sở dữ liệu và thông tin về vò thành niên
và thanh niên đồng thời góp phần vận động nâng
cao sự hỗ trợ cho thanh thiếu niên. Đây là kết quả
của một quá trình đầu tư thích đáng và cộng tác
chặt chẽ giữa chính phủ Việt Nam thông qua Bộ Y
tế, Tổng cục Thống kê với các tổ chức Liên hợp
quốc gồm Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ
Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), đồng thời có sự
hỗ trợ của các bộ ngành như: Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam. Trung tâm Đông-Tây Honolulu, Hawaii phụ
trách hỗ trợ kỹ thuật để đảm bảo chất lượng về
phương pháp nghiên cứu. Trước cuộc điều tra này
cũng đã có nhiều thông tin về thanh thiếu niên
Việt Nam qua các nghiên cứu khác nhau. Tuy
nhiên, những thông tin đó chưa đủ tính đại diện
để có thể xây dựng những chương trình dựa trên
một cơ sở dữ liệu toàn diện. Các chương trình can
thiệp và dòch vụ cho vò thành niên và thanh niên
phần lớn vẫn chưa được thực hiện đầy đủ và đồng
đều do thiếu những căn cứ khoa học xác đáng.
Nghò quyết 4 của Ban chấp hành Trung Ương
Đảng khóa VII về công tác thanh niên trong thời
kỳ mới đã khẳng đònh: “Công tác thanh niên là
vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những
nhân tố quyết đònh sự thành bại của cách mạng”.
Trong Chiến lược Phát triển Thanh niên Việt Nam
đến năm 2010
4
, Chính phủ cũng đã xác đònh: Việc
làm, phòng chống HIV/AIDS và ma túy là những
vấn đề mà thanh niên phải đối mặt. Kết quả SAVY
cho thấy thanh thiếu niên cũng quan tâm đến nhiều
vấn đề khác. SAVY cung cấp thông tin cơ bản để
giúp hiểu được cuộc sống và các hoạt động của
giới trẻ như việc học hành, cuộc sống lao động,
nhận thức và hiểu biết về HIV/AIDS, vấn đề tiếp
xúc và sử dụng ma túy, sức khỏe, tai nạn thương
tích và bạo lực, tiếp cận phương tiện thông tin đại
chúng, thái độ và hành vi, quan hệ với bạn bè, gia
đình và hoài bão về tương lai.
1.4. Xác đònh đối tượng vò thành
niên và thanh niên nghiên cứu
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), “vò thành niên”
được đònh nghóa là thời kỳ trong độ tuổi 10-19,
“thanh niên” là nhóm tuổi từ 15-24 và khái niệm
“thanh thiếu niên” ở đây được hiểu kết hợp trong
độ tuổi 10-24
5
. Tuy nhiên đối tượng của điều tra
16
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
này là vò thành niên và thanh niên trong độ tuổi
14-25 vì những lý do sau: Đây là nhóm có thể đại
diện trung thực nhất cho thanh thiếu niên Việt
Nam hiện nay. Đây cũng là nhóm tuổi phù hợp
nhất để có thể tiến hành điều tra (vì vò thành niên
tuổi 14 trở lên có thể được xem là tương đối lớn
để trả lời một số câu hỏi nhạy cảm được thiết kế
trong phiếu hỏi mà không phải có sự có mặt của
cha mẹ như thiết kế của điều tra này). Trong báo
cáo này, thuật ngữ thanh thiếu niên được dùng để
chỉ nhóm tuổi 14-25.
Mặc dù nếu tìm hiểu về suy nghó và trải nghiệm
của nhóm tuổi 10-13 cũng sẽ mang lại một số giá
trò nhất đònh, nhưng đối với SAVY việc điều tra
nhóm tuổi 14-25 là phù hợp để tìm hiểu lứa tuổi vò
thành niên theo thực tế ở Việt Nam. Ví dụ theo kết
quả SAVY, độ tuổi dậy thì trung bình ở nữ là 14,4,
so với ở Hoa Kỳ là 12,5
6
. Tương tự, sự phát triển
về xã hội và tình cảm của thanh thiếu niên Việt
Nam cũng tương đối chậm hơn so với các nước
phương Tây: chỉ có 33% nam thanh niên thành thò
độ tuổi 22-25 cho biết có quan hệ tình dục thì tỷ
lệ này là hơn 90% nam thanh niên độ tuổi 20-24 ở
Anh
7
.
Thanh thiếu niên trong cuộc điều tra bao gồm các
lứa tuổi khác nhau nên kết quả của SAVY được
phân tích và trình bày theo 3 nhóm tuổi (14-17, 18-
21, và 22-25) để dễ dàng so sánh các thay đổi về
mặt sinh lý và xã hội đặc thù ở các lứa tuổi này.
Ví dụ hầu hết thanh thiếu niên đã trải qua quá
trình dậy thì ở độ tuổi 14-17, và tuổi trung bình bắt
đầu hút thuốc, uống rượu ở thanh thiếu niên là
dưới 17 tuổi. Tuy nhiên, tuổi trung bình quan hệ
tình dục lần đầu tiên xấp xỉ 20 tuổi. Lập gia đình
chủ yếu ở nhóm tuổi 22-25. Nếu cuộc điều tra
SAVY không nghiên cứu nhóm tuổi 22-25 thì khó
có thể có được nhiều thông tin về hôn nhân và gia
đình của giới trẻ Việt Nam.
1.5. Mô hình yếu tố nguy cơ và yếu tố
bảo vệ
Vò thành niên thường được xem là lứa tuổi đang
kiếm tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Tôi là ai? ”
8
.
Trên chặng đường xác đònh bản sắc cho riêng
mình và quá độ thành người trưởng thành, vò thành
niên phải nỗ lực xây dựng và củng cố một hệ
thống giá trò, trở nên độc lập hơn và trải qua hàng
loạt những thay đổi về thể chất, tinh thần và xã
hội
9
. Đây cũng là giai đoạn mà thanh thiếu niên
thường tò mò và thử những hành vi tương đối
nguy hại. Tuy hầu hết vò thành niên bước qua giai
đoạn chuyển đổi mà không gặp trở ngại khó khăn
gì, nhưng cũng có một số thanh thiếu niên tham
dự vào những hành vi và hoạt động gây tổn hại
đến sức khỏe. Nhiều chương trình trên thế giới
đang nỗ lực phòng ngừa những hành vi nguy hiểm
của giới trẻ bằng cách vận dụng mô hình yếu tố
nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Mô hình đó là giảm
những yếu tố được biết là có tác động tiềm tàng
làm tăng các hành vi “có vấn đề” (các yếu tố nguy
cơ), đồng thời nhấn mạnh vào các yếu tố giúp
thúc đẩy sự vững vàng, nghò lực, khả năng của tuổi
trẻ đối phó với các giai đoạn khó khăn của mình
(các yếu tố bảo vệ)
10
.
Nghiên cứu thanh thiếu niên trong khung cảnh gia
đình là một lăng kính hữu ích nhằm đánh giá giá
trò của mô hình yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ.
SAVY đã cho thấy hầu hết thanh thiếu niên dù
đang ở trong tình trạng khó khăn, vẫn gắn bó với
gia đình, sẵn sàng nỗ lực làm việc cho gia đình,
tôn trọng gia đình và ước mong có một gia đình
của riêng mình. Tất cả những điều này chính là
những yếu tố bảo vệ chủ đạo, sẽ nâng cao tính tự
chủ, củng cố lòng tự trọng, sự vững vàng và nghò
lực của thanh thiếu niên. Bên cạnh đó, có một số
vò thành niên không có quan hệ gắn bó với gia
đình, đó là một nguy cơ tiềm tàng cho sức khỏe
thể chất và tinh thần của họ.
Báo cáo này phân tích kết quả SAVY trên mô hình
yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Kết quả SAVY
cho thấy thanh thiếu niên Việt Nam đang phải đối
mặt với rất nhiều thách thức như tai nạn giao
thông, thuốc lá, rượu, bia, hoạt động tình dục
không an toàn, bạo lực giữa các cá nhân và các
vấn đề sức khỏe tâm thần. Đồng thời SAVY cũng
xác đònh được những tác động mang tính bảo vệ có
thể giảm thiểu nguy cơ mà thanh thiếu niên phải
đối mặt, chẳng hạn như hỗ trợ tích cực từ bạn bè,
gia đình và cộng đồng. Để áp dụng mô hình này
vào việc lập chương trình và xây dựng chính sách,
cần phải tập trung vào các chiến lược dự phòng để
giảm thiểu những yếu tố nguy cơ và khuyến khích
phát triển các yếu tố bảo vệ đã được chứng minh.
Cần lưu ý có một số nhóm thanh thiếu niên sống
trong hoàn cảnh dễ bò tổn thương, như các nhóm
sống trong hoàn cảnh nghèo, chưa bao giờ đến
trường hoặc bỏ học, nhóm các dân tộc thiểu số và
17
Điều tra Quốc gia về Vò thành niên và Thanh niên Việt Nam
có thể là nhóm ở vùng sâu vùng xa. Các nghiên
cứu khác có tập trung vào trẻ em đường phố, trẻ
em bò xâm hại và lạm dụng, trẻ hành nghề mại
dâm và nhóm thanh thiếu niên nghiện ma túy và
các chất kích thích. Tuy nhiên, cuộc điều tra SAVY
chưa bao gồm các nhóm này.
1.6. Điểm qua những vấn đề ưu tiên
Số liệu SAVY nhấn mạnh một số lónh vực cần can
thiệp nhằm tăng cường những yếu tố mang tính
bảo vệ đồng thời góp phần cải thiện cuộc sống
của giới trẻ:
z
Thúc đẩy các hành vi tích cực của thanh
thiếu niên: Những kết quả tương đối tích cực
trong điều tra SAVY cho thấy cần ghi nhận
một cách đầy đủ đồng thời triển khai các
chiến lược nhằm duy trì và thúc đẩy những
hành vi, thái độ tích cực, hợp lý và an toàn.
Tập trung củng cố hành vi không hút thuốc ở
phụ nữ, khuyến khích tính chung thủy trong
hôn nhân gia đình, tiếp tục tạo điều kiện để
thắt chặt mối quan hệ gia đình và giúp cho
giới trẻ có tiếng nói và được lắng nghe.
Những phương thức vẫn được vận dụng từ
trước đến nay nói chung chưa thực sự hấp
dẫn. Tuy nhiên, với thế mạnh của các yếu tố
bảo vệ (giáo dục, gia đình và tình bạn), thì
cách tiếp cận tăng cường các yếu tố này cần
phải là lónh vực ưu tiên trong tương lai.
z Đói nghèo và việc làm: Tập trung vào việc
tăng các cơ hội việc làm và nghề nghiệp cho
thanh niên ngay tại đòa phương có thể góp
phần giảm số hộ nghèo, giảm nhu cầu di dân
và các nguy cơ liên quan đến việc rời bỏ quê
hương đối với nam thanh niên và gia đình
của họ. Ước tính mỗi năm cần 1,4 triệu việc
làm mới để đáp ứng nhu cầu lao động của
người dân và tốc độ tăng trưởng dân số trẻ.
Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm vẫn
đang là mối quan tâm hàng đầu của giới trẻ.
z Thanh thiếu niên dân tộc thiểu số: SAVY
cho thấy thanh niên dân tộc thiểu số, đặc biệt
là nữ thanh thiếu niên còn nhiều thiệt thòi
đối với các vấn đề từ học hành và hướng
nghiệp đến việc tiếp cận với các nguồn thông
tin nhất là về sức khỏe sinh sản và HIV/AIDS.
z HIV/AIDS: Trên thế giới 50% trường hợp
nhiễm mới là thanh thiếu niên và 40% người
nhiễm HIV/AIDS trong độ tuổi 15 - 24
11
. Ở
Việt Nam, 62% trường hợp nhiễm mới là ở
thanh niên độ tuổi 20-29. Kết quả SAVY cho
thấy thanh thiếu niên có những ý kiến khác
nhau xoay quanh các chủ đề liên quan đến
sự lây lan của HIV/AIDS, bao gồm: tình dục
trước hôn nhân, sử dụng bao cao su và đối xử
đúng mực với người nhiễm HIV/AIDS. Cũng
cần ghi nhận rằng những đònh kiến xã hội
thường hạn chế thảo luận công khai những
vấn đề nhạy cảm và tế nhò này. Tuy vậy,
thanh thiếu niên cũng cần được tạo cơ hội để
tự tìm hiểu các phương án an toàn và những
lựa chọn có ý thức trách nhiệm cho tương lai
của mình. Cách hữu hiệu để ngăn chặn sự lây
lan của đại dòch HIV/AIDS
11
chính là phải tập
trung các nỗ lực phòng chống cho những đối
tượng thanh thiếu niên có nguy cơ cao nhất
như thanh thiếu niên sử dụng ma túy, mại
dâm.
z Giới: Vấn đề giới có vẻ như là yếu tố làm
giảm, trung hòa một số nguy cơ ở thanh thiếu
niên: So với các bạn nam, thanh thiếu niên nữ
rất ít khi vướng vào các chất gây nghiện và
có xu hướng tâm sự với gia đình nhiều hơn.
Tuy vậy, nữ lại kém lạc quan hơn nam về
bản thân và tương lai. Thúc đẩy bình đẳng
giới ở trường học có thể giúp nữ thanh thiếu
niên tiếp cận với cơ hội công bằng về việc
làm, thu nhập và tài chính; tăng cường cơ hội
học hành cho nữ thanh thiếu niên và tiếp cận
với các dòch vụ thông qua chương trình giáo
dục kỹ năng sống và các dòch vụ y tế thân
thiện sẽ nâng cao kiến thức về sức khỏe sinh
sản; kiến thức này thực sự hữu ích góp phần
giảm tử vong bà mẹ, thúc đẩy vai trò của nữ
giới trong kế hoạch hóa gia đình.
1.7. Cấu trúc báo cáo SAVY
Báo cáo này là báo cáo đầu tiên của nhiều báo cáo
kết quả SAVY. Các thông tin mô tả được trình bày
ở Phần II - Kết quả điều tra, tập trung vào các vấn
đề có liên quan đến vò thành niên và thanh niên.
Mỗi chủ đề được trình bày bằng các số liệu thu
thập và phân tích theo nhóm tuổi, giới, thành thò,
nông thôn, dân tộc với các nội dung phù hợp có
phân tích theo nhóm đã lập gia đình và chưa lập
gia đình. Nhìn chung ở các chương, số liệu được
trình bày cùng với phần thảo luận và phân tích
ngắn. Khi không có khác biệt đáng kể giữa các
nhóm, báo cáo cũng sẽ không nêu rõ từng nhóm.