Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Các nhân tố tác động nghèo đói ở vùng ven đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2003-2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 72 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo là vấn đề quan trọng của Việt Nam trong định hướng Xã hội Chủ
nghĩa, nghiên cứu về nghèo đói giúp các nhà làm chính sách có cơ sở để ra
các quyết định về phát triển kinh tế - xã hội nói chung cũng như XĐGN
nói riêng. Do đó, yêu cầu bức thiết là phải có thêm nhiều nghiên cứu nghèo
đói ở cấp vùng và cấp địa phương với nhiều cách tiếp cận khác nhau kể cả
định tính và định lượng. Thực hiện nhiều nghiên cứu hơn với những thơng
tin chi tiết hơn, chính xác hơn sẽ là bước đầu tiên quan trọng trong mọi
chiến lược phát triển ở Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, chúng tơi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu Các nhân
tố tác động đến nghèo đói ở vùng ven biển ĐBSCL giai đoạn 2003-2004
nhằm xác định các nhân tố chủ yếu (mang tính đặc trưng) ảnh hưởng đến
xác suất rơi vào nghèo đói của hộ gia đình, từ đó gợi ý chính sách XĐGN
cho Vùng.

1


CHƯƠNG 1

GIỚI THIỆU

1.1 Vấn đề nghiên cứu
Việt Nam đạt được nhiều thành tựu về xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh từ
58,1% năm 1993 xuống còn 19,5% năm 2004, tương đương 24 triệu người đã thoát
nghèo sau 11 năm. Nếu so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc là
giảm tỷ lệ nghèo đói xuống còn một nửa trong giai đoạn dài hơn là 1990-2015 thì quả là
một thành tích đặc biệt. Thế nhưng Việt Nam đang là nước có thu nhập bình qn đầu
người thấp, năm 2004 là 550 USD/người (GSO, 2004) và thốt khỏi nghèo đói vẫn cịn là
giấc mơ của hàng triệu người dân. Đại bộ phận dân cư có mức thu nhập chỉ trên ngưỡng
nghèo chút ít nên rất dễ bị tái nghèo nếu có những chấn động kinh tế từ bên ngoài (Báo


cáo cập nhật nghèo, 2006).
Theo GSO (2004), hơn 90% người nghèo sống và làm việc ở nông thôn và 45% dân nông
thôn sống dưới mức nghèo). Họ là những người sản xuất nhỏ hoặc là nông dân khơng đất
đi làm th. Tối đa hố lợi ích và giảm thiểu rủi ro; đảm bảo rằng người nghèo cũng được
tiếp cận với các cơ hội mới và được hưởng lợi từ quá trình gia nhập WTO cũng như
chống tái nghèo, xuất hiện hình thái nghèo mới là một thách thức lớn lao cho Việt Nam.
Vùng ven biển ĐBSCL, phần lớn là nông thôn, kinh tế chủ yếu là sản xuất nơng nghiệp
(trồng lúa và thủy sản) nên tính dễ bị tổn thương đối với nông dân và nông nghiệp ở đây
là rất lớn trong bối cảnh Việt Nam hội nhập WTO. (Tổn thương thường do cạnh tranh
khốc liệt dẫn đến giá nơng sản giảm mạnh, nơng dân khơng có trình độ chun mơn - kỹ
thuật nên khó tìm việc làm phi nông nghiệp… ). Hệ quả là nguy cơ xuất hiện hình thái
nghèo mới khó chữa hơn, chi phí cho thốt nghèo cũng lớn hơn. Do đó, nghiên cứu
nghèo ở vùng này trở nên rất cần thiết cho Chính phủ, Chính quyền địa phương, tổ chức
Chính phủ, và NGOs, từ đó có chính sách XĐGN phù hợp cho Vùng.
Ở Việt Nam, bộ số liệu ĐTMSHGĐ 2004 (do GSO thực hiện năm 2004) cung cấp thông
tin để mô tả tổng quát về đời sống kinh tế - xã hội của hộ gia đình. Ngồi ra, bộ số liệu
này cho phép chúng ta nghiên cứu các chủ đề liên quan đến tình trạng nghèo đói của hộ

-2-


cũng như xem xét liệu một hộ gia đình có khả năng thốt khỏi tình trạng nghèo đói hay
khơng.
Có nhiều nghiên cứu về nghèo đói cho ĐBSCL với cách tiếp cận thiên về định tính, mơ tả
thay vì tiếp cận định lượng nhằm lượng hóa các nhân tố tác động đến khả năng nghèo đói
của hộ gia đình. Với ý nghĩa đó, đề tài “Các nhân tố tác động nghèo đói ở vùng ven
biển Đồng bằng sơng Cửu Long giai đoạn 2003-2004” sử dụng phương pháp định
lượng xác định các nhân tố tác động đến xác suất nghèo đói của hộ gia đình, từ đó gợi ý
chính sách xóa đói giảm nghèo cho Vùng.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Đánh giá tình trạng nghèo đói và phân tích ngun nhân dẫn đến nghèo đói của vùng
ven biển ÐBSCL trong giai đoạn 2003-2004.
Xác định các nhân tố tác động đến xác suất rơi vào nghèo đói của các hộ gia đình
trong Vùng.
Gợi ý chính sách xóa đói giảm nghèo cho Vùng.
1.3 Các giả thuyết nghiên cứu
Khi nghiên cứu về tình trạng nghèo đói của hộ gia đình vùng ven biển ĐBSCL, chúng tơi
giả thuyết rằng nhóm nhân tố kinh tế, xã hội sau sẽ tác động đến xác suất nghèo đói của
hộ:
Nhóm các đặc điểm của hộ gia đình:
• Điều kiện kinh tế của hộ bao gồm tình trạng việc làm của hộ (có việc làm hay thất
nghiệp), loại ngành nghề (nơng nghiệp hay phi nơng nghiệp);
• Quan hệ xã hội của hộ thể hiện qua trình độ giáo dục phổ thơng (số năm đi học,
bằng cấp cao nhất của chủ hộ…); thuộc nhóm dân tộc thiểu số hay khơng; chủ hộ
là nam hay nữ…

-3-


Nhóm các nhân tố có liên quan đến vai trị Chính phủ:
• Khả năng tiếp cận hạ tầng cơ sở như đường giao thơng, trường học, cơ sở y tế…
• Phân bổ đất canh tác, hệ thống tín dụng chính thức ở nông thôn.
Nghiên cứu này sẽ tiến hành phân tích các nhân tố trên và kiểm định tác động của từng
nhân tố đến xác suất rơi vào nghèo đói của hộ.
1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu là các huyện ven biển ở vùng ĐBSCL.
Đơn vị nghiên cứu là các hộ dân cư sống ở vùng ven biển ĐBSCL.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp định lượng: xây dựng mơ hình kinh tế lượng xác định những nhân tố
kinh tế, xã hội chủ yếu tác động đến xác suất rơi vào ngưỡng nghèo của hộ gia đình.

Phương pháp thống kê mơ tả kết hợp với so sánh và tổng hợp dữ liệu sơ và thứ cấp.
1.6 Đề tài có kết cấu
Ngồi chương mở đầu (chương 1 - giới thiệu), đề tài cịn có 4 chương khác.
Chương 2 - Khung lý thuyết về nghèo - trình bày tổng quan các lý thuyết về nghèo đói
liên quan đến các khái niệm, các phương pháp xác định nghèo, các nguyên nhân dẫn đến
nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn Việt Nam, từ đó rút ra khung lý thuyết để
làm cơ sở xây dựng mơ hình nghiên cứu nghèo đói cho Vùng.
Chương 3 – Phương pháp nghiên cứu – chương này mô tả sơ lược về vùng nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu và nguồn dữ liệu cần thiết cho các mơ hình kinh tế lượng.
Chương 4 - Kết quả phân tích – trình bày kết quả phân tích các nhân tố kinh tế, xã hội
liên quan đến nghèo đói Vùng trong mối tương quan với vùng ĐBSCL.
Chương 5 - Gợi ý chính sách XĐGN - nêu ra những gợi ý chính sách về xóa đói giảm
nghèo cho Vùng.

-4-


CHƯƠNG 2

KHUNG LÝ THUYẾT VỀ NGHÈO

2.1 Khái niệm nghèo đói
Nghiên cứu này không hướng đến mục tiêu đưa ra một định nghĩa về nghèo. Vì vậy, phần
này chỉ nhằm lược khảo một số quan điểm về nghèo.
Một khái niệm thường được sử dụng ở Việt Nam là: “nghèo đói là tình trạng một bộ
phận dân cư khơng có khả năng thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà
những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán
của từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận.” Khái niệm này được đưa
ra tại hội nghị về chống nghèo đói do Ủy ban kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình
Dương tổ chức ở Thái Lan năm 1993).

Nhà kinh tế học người Mỹ Galbraith: “Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập
của họ, ngay dù khi thích đáng để họ tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng
đồng. Khi đó, họ khơng thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như là cái cần thiết
tối thiểu để sống một cách đúng mức.” (Bộ LĐTBXH, 2003)
Tại hội nghị Thượng đỉnh thế giới và phát triển xã hội tổ chức tại Copenhagen, Đan
Mạch năm 1995: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới 1 USD một
ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm thiết yếu để tồn
tại”.
WB (1990), định nghĩa nghèo là tình trạng “khơng có khả năng có mức sống tối thiểu”.
Chúng bao gồm tình trạng thiếu thốn các sản phẩm và dịch vụ thiết yếu như giáo dục, y
tế, dinh dưỡng. Nghèo cịn là tình trạng bị gạt ra bên lề xã hội hay tình dễ bị tổn thương:
“Xét về mặt phúc lợi, nghèo có nghĩa là khốn cùng. Nghèo có nghĩa là đói, khơng có nhà
cửa, quần áo, ốm đau và khơng có ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường.
Nhưng đối với người nghèo, sống trong cảnh bần hàn còn mang nhiều ý nghĩa hơn thế.
Người nghèo đặc biệt dễ bị tổn thương trước những sự kiện bất thường nằm ngồi khả
năng kiểm sốt của họ. Họ thường bị các thể chế của nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị

-5-


gạt ra bên lề xã hội nên khơng có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó” (WB
2001).
Những đoạn trích từ Báo cáo phát triển thế giới 2001 của WB dưới đây cho thấy cái mà
người nghèo nhận thức về cuộc sống nghèo khó của họ:
“Đừng hỏi tơi đói nghèo là gì vì ơng đã thấy nó ngay từ bên ngồi nhà tơi. Hãy
quan sát ngơi nhà và xem nó có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn những đồ
đạc trong nhà và những quần áo tơi đang mang trên người. Hãy quan sát tất cả
và ghi lại những gì ơng thấy. Cái mà ơng thấy chính là đói nghèo đó.”
Một người nghèo ở Kênia
Don’t ask me what poverty is because you have met it outside my house. Look at

the house and count the number of holes. Look at the utensils and the clothes I
am wearing. Look at everything and write what you see. What you see is poverty.
Poor man, Kenya

“Nghèo đói là sự hổ thẹn, cảm giác phải phụ thuộc vào người khác và buộc phải
chấp nhận sự bạo hành, sỉ nhục, thái độ thờ ơ khi tìm kiếm sự giúp đỡ.”
Một người nghèo ở Latvia
Poverty is humiliation, the sense of being dependent on them, and of being forced
to accept rudeness, insults, and indifference when we seek help.
Poor woman, Latvia
“Nghèo đói đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh, tre, nứa, lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột
nát; khơng đủ đất đai sản xuất, khơng có trâu bị, khơng có tivi, con cái thất học,
ốm đau khơng có tiền đi khám chữa bệnh… “
Một người nghèo ở Việt Nam

Tóm lại, tất cả những quan niệm về nghèo đói nêu trên đều phản ánh ba khía cạnh chủ
yếu của người nghèo:

-6-


• Có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư.
• Khơng được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người.
• Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghiên cứu này sử dụng định nghĩa của Ngân hàng thế giới về nghèo, đó là tình trạng
“khơng có khả năng có mức sống tối thiểu”.
2.2 Xác định nghèo đói
Theo Sarah Bales (2001), tiêu chí chung nhất để xác định nghèo đói là mức chi tiêu (hay
thu nhập) để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục,
văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau chung nhất thường là ở chỗ thỏa mãn ở

mức cao hay thấp mà thôi, điều này phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội
cũng như phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia.
Theo WB (2007), có 3 bước để xác định nghèo đói: (i) định nghĩa phúc lợi của hộ gia
đình / cá nhân, (ii) xác định một giá trị chuẩn (tối thiểu) để tách biệt 2 nhóm nghèo và
khơng nghèo (gọi là ngưỡng nghèo) và (iii) tính tốn các chỉ số thống kê tổng hợp dựa
trên mối quan hệ giữa phúc lợi kinh tế và ngưỡng nghèo.
Đo lường phúc lợi nói chung thì phức tạp hơn nhiều, nó rộng hơn chỉ số phúc lợi kinh tế.
Bỡi lẽ phúc lợi còn bao gồm tuổi thọ, chế độ dinh dưỡng, điều kiện nhà ở, tỷ lệ trẻ em
đến trường, tỷ suất tử của trẻ em (WB, 2007). Cách tiếp cận phổ biến nhất trong đo lường
phúc lợi (kinh tế) là dựa vào chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập của hộ gia đình. Nếu chúng
ta chia đều cho tất cả các thành viên trong hộ thì được chi tiêu tiêu dùng hay thu nhập
bình quân đầu người (chỉ số phúc lợi kinh tế của cá nhân).
Hầu hết các nước phát triển sử dụng thu nhập (income) để xác định nghèo đói, trong khi
các nước đang phát triển sử dụng chi tiêu (expenditure). Đối với các nước phát triển, thu
nhập phần lớn là từ tiền lương nên dễ xác định, trong khi chi tiêu dùng thì phức tạp và
khó xác định. Ngược lại, ở các nước đang phát triển thu nhập khó tính tốn hết bỡi phần

-7-


lớn thu nhập đến từ công việc tự làm (self employment) nhưng rất khó tách biệt, trong khi
chi tiêu thì dễ thấy hơn, rõ ràng hơn (WB, 2005 – trang 36).
Theo Glewwe và Twum-Baah (1991), chi tiêu khơng những ít bị khai thấp hơn thu nhập
mà nó cịn ổn định hơn từ năm này qua năm khác. Do đó, có đủ căn cứ lý thuyết để dùng
các thước đo chi tiêu nhằm phản ánh mức sống.
Theo Alderman và Paxson (1994) và Paxson (1993), ở các nước kém phát triển, thu nhập
của hộ thường biến động theo mùa vụ trong khi chi tiêu dùng tương đối ổn định giữa các
tháng trong năm. Vì thế, chi tiêu tiêu dùng phản ánh mức sống của hộ tốt hơn con số thu
nhập.
Hình 2.1

Đường thu nhập và chi tiêu trong năm của hộ gia đình

Nguồn: WB (2007).

Phương pháp xác định ngưỡng nghèo theo chuẩn quốc tế. Theo WB (1990), ngưỡng
nghèo đói ở mức thấp gọi là ngưỡng nghèo đói lương thực-thực phẩm (LT-TP). Ngưỡng
nghèo đói ở mức cao hơn gọi là ngưỡng nghèo đói chung (bao gồm cả mặt hàng LT-TP
và phi LT-TP).
Ngưỡng nghèo đói LT-TP đo lường mức chi tiêu cần thiết để đảm bảo một hộ gia đình có
thể đủ mua được một lượng LT-TP để cung cấp cho mỗi thành viên trong hộ một lượng
calo là 2100 calo 1 ngày. Ví dụ, nếu sử dụng chuẩn nghèo này thì Việt Nam có 10,9%
-8-


người nghèo năm 2002. Nhưng phương pháp này có hạn chế là nó khơng tính đến các
khoản chi tiêu cho việc tiêu dùng các hàng hóa phi LT-TP, mặc dù các hàng hóa này
cũng cần thiết cho các nhu cầu cơ bản của con người.
Ngưỡng nghèo chung đo lường chi phí để mua đủ một lượng hàng hóa LT-TP cung cấp
lượng calo là 2100 calo và một số mặt hàng phi LT-TP. Trở ngại ở đây là việc xác định
một cách phù hợp lượng hàng hóa LT-TP. Ví dụ, theo ngưỡng này Việt Nam có 28,9%
người nghèo, cao hơn so với ngưỡng nghèo LT-TP.
Ở Việt Nam, Bộ LĐTBXH dựa trên điều tra gồm những câu hỏi về tài sản và về thu nhập
từ các nguồn khác nhau. Thu nhập từ tất cả các nguồn này được cộng lại, chia cho số
người trong hộ, và so sánh với một trong ba chuẩn nghèo tùy theo xã đó thuộc vùng nào.
Năm 2001, chuẩn nghèo ở thành thị 150.000 VNĐ/tháng/người; nông thôn vùng đồng
bằng là 100.000 VNĐ, nông thôn miền núi, vùng sâu và hải đảo là 80.000 VNĐ. Tỷ lệ
nghèo có thể được tính bằng tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo trong xã, huyện, hoặc
tỉnh. (Quyết định số 1143/2000/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2000, áp dụng từ năm 2001).
Phương pháp này bị phê phán vì hai lý do: Thứ nhất, về mặt lý luận, các mốc thu nhập
dùng để phân loại hộ nghèo ở những loại xã khác nhau có tính chủ quan, và chưa chắc đã

so sánh được. Một hộ thành thị có thu nhập đầu người 150.000 VNĐ/tháng có thể nghèo
hơn hoặc giàu hơn một hộ có thu nhập là 80.000 đồng/tháng ở vùng sâu hay miền núi.
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo, chúng ta tính tốn một số chỉ tiêu thống kê tóm tắt
để mơ tả quy mơ, mức độ và tính nghiêm trọng của đói nghèo. Những thống kê này bao
gồm chỉ số đếm đầu người (xác định tỷ lệ đói nghèo), khoảng cách đói nghèo (xác định
mức độ sâu của đói nghèo), bình phương khoảng cách đói nghèo (xác định tính nghiêm
trọng của đói nghèo). Theo Foster, Greer và Thorbecke (1984) thì có 3 thước đo xác định
mức độ nghèo đói này có thể tính bằng cơng thức sau:

1
Pα =
N

⎡ ( z − yi ) ⎤
∑⎢ z ⎥

i =1 ⎣
P

α

(1)

-9-


Trong đó, yi là đại lượng xác định phúc lợi (thường là chi tiêu bình quân đầu người) cho
người thứ i , z là ngưỡng nghèo, N là số người có trong mẫu dân cư, P là số người nghèo
và α có thể diễn giải như là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa
những người nghèo.

Khi α = 0, đẳng thức trên tương đương P/N, tức là bằng số người nghèo chia cho tổng số
người ở trong mẫu. Thước đo xác định quy mô đói nghèo được sử dụng rất phổ biến này
được gọi là tỷ số đếm đầu người hay chỉ số đếm đầu người khi chuyển sang tính dưới
dạng %. Mặc dù chỉ số đếm đầu người dễ được diễn giải song nó khơng nhạy cảm với
khoảng cách của những người nghèo so với ngưỡng nghèo.
Khi α = 1, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi
tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức trung bình của
tất cả mọi người trong tổng thể. Khoảng cách nghèo đói được tính đơn giản như là tổng
của tất cả các khoảng cách nghèo đói ở trong tổng thể, có thể được sử dụng để xác định
chi phí tối thiểu để xố bỏ nghèo đói trong điều kiện mọi khoản chuyển nhượng được
chuyển đến đúng đối tượng.
Khi α = 2, ta có chỉ số bình phương khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này thể hiện mức độ
nghiêm trọng của nghèo đói và làm tăng thêm trọng số cho nhóm người nghèo nhất trong
số những người nghèo (Nghèo, 2000).
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói
Theo WB (2007), các nhân tố có thể ảnh hưởng đến tình trạng nghèo đói được tóm tắt ở
bảng 2.1:

-10-


Bảng 2.1
Các nhân tố gây ra tình trạng nghèo đói

Phân theo đặc tính
Cấp độ vùng

Các nhân tố



(Regional-level
characteristics)

Sự cách biệt về địa lý/xã hội do thiếu hạ tầng cơ sở; hạn chế trong
việc tiếp cận các loại thị trường và các dịch vụ xã hội.



Nguồn lực cơ bản như đất đai và chất lượng đất đai



Điều kiện tự nhiên (thời tiết…)



Quản lý Nhà nước



Bất bình đẳng

Cấp độ cộng đồng



Hạ tầng cơ sở (điện, nước, đường giao thơng…)

(Community level




Phân bổ đất đai



Khả năng tiếp cận các hàng hóa và dịch vụ cơng (y tế, giáo dục)

Cấp độ hộ gia đình



Quy mơ hộ

(Household



Tỷ lệ phụ thuộc (phần trăm số người trưởng thành không có hoạt

characteristics)

characteristics)

động taọ thu nhập)


Giới tính của chủ hộ




Tài sản của hộ gia đình: đất đai, phương tiện sản xuất, nhà cửa…



Tỷ lệ có việc làm của những thành viên trưởng thành trong hộ,
loại việc làm chính, tự làm hay làm th…và theo nguồn thu nhập
nhập chính của hộ…



Trình độ học vấn trung bình của hộ

-11-


Phân theo đặc tính

Các nhân tố

Đặc điểm cá nhân



Tuổi

(Individual




Giáo dục (số năm đi học, bằng cấp cao nhất)



Việc làm (tình trạng việc làm, loại cơng việc)



Dân tộc (có hay khơng có thuộc nhóm dân tộc thiểu số)

characteristics)

Nguồn: WB (2007).
2.3.1 Nghề nghiệp, tình trạng việc làm
Theo BCPTVN (2000), nghèo đói là một hiện tượng mang tính đặc thù của nơng thơn,
các tính tốn về tỷ lệ nghèo theo nghề nghiệp và theo loại chủ lao động cũng chỉ ra rằng
những người sống ở dưới ngưỡng nghèo thường là thành viên của những hộ có chủ hộ là
nơng dân tự do. Trong năm 1998, gần 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp và là
những người lao động tự do.
Theo Sarah Bales (2001), tỷ lệ người nghèo năm 1998 trong ngành nông nghiệp ở mức
cao, 47% đối với lao động tự làm trong nông nghiệp và 55,4% đối với lao động làm th
trong nơng nghiệp. Các ngành có tỷ lệ nghèo đói thấp nhất là dịch vụ, đặc biệt là ngành
thương mại, khách sạn – nhà hàng và công việc nhà nước. Các chỉ số về khoảng cách
nghèo đói P1 (biều hiện mức độ thiếu hụt) và chỉ số bình phương khoảng cách nghèo P2
(mức độ nghiêm trọng của vấn đề nghèo đói) cho thấy nghèo đói của những người làm
thuê trong nông nghiệp là lớn nhất, kế đến là những người tự làm nông nghiệp (bảng 2.2).
Như vậy, với tỷ trọng lao động trong nơng nghiệp chiếm nhiều nhất và có tỷ lệ nghèo cao
nhất, người nghèo là nông dân vẫn chiếm phần lớn người nghèo ở Việt Nam.

-12-



Bảng 2.2
Thay đổi chỉ số nghèo đói của Việt Nam 1993-1998
Tỷ lệ nghèo đói (%)
1992-1993

1997-1998

P0

P1

P2

P0

P1

P2

Tự làm nơng nghiệp
Làm th nơng nghiệp

66,4

19,7

8,3


47,0

12,3

4,7

67,6

22,9

10,2

55,4

14,9

5,5

Tự làm công nghiệp, xây dựng

39,5

13,7

5,3

21,0

4,2


1,3

Làm thuê công nghiệp, xây dựng
Thương mại, khách sạn và nhà hàng

36,4

12,8

4,9

20,6

4,4

1,4

24,2

8,9

3,3

11,2

1,8

0,5

Chính phủ, Đảng và các tổ chức xã hội


21,0

6,1

2,2

9,1

1,7

05

Dịch vụ khác

30,1
53,3

10,7
16,6

4,2
6,8

15,4
34,6

3,4
8,7


1,2
3,2

Cả nước

Nguồn: Sarah Bales (2001).

Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) phát hiện thấy việc chuyển đổi trong nghề nghiệp của
chủ hộ gia đình từ nơng nghiệp sang sản xuất phi nơng nghiệp hoặc kinh doanh thương mại
làm giảm nguy cơ hộ gia đình rơi vào nghèo đói.
Theo MDPA (2004), nghèo đói có gắn chặt với nông nghiệp và lưu ý rằng phần lớn các
hộ nghèo sống ở nông thôn và chỉ trồng lúa. Một nghiên cứu của AusAID 2003 cũng cho
thấy rằng tỷ lệ nghèo đói cấp tỉnh ở vùng ĐBSCL có tương quan tỷ lệ thuận với số dân
hoạt động nông nghiệp của tỉnh đó.
2.3.2 Trình độ học vấn
Người nghèo thường có học vấn tương đối thấp, gần 90% người nghèo chỉ có trình độ
phổ thơng cơ sở hoặc thấp hơn (BCPTVN, 2000). Trong số người nghèo, tỷ lệ người
chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%; phổ thơng cơ sở chiếm
37% (bảng 2.3). Chi phí cho giáo dục đối với người nghèo còn lớn gây khơng ít khó khăn
cho họ trong việc tiếp cận với giáo dục nhiều hơn. Học vấn thấp buộc chặt người nghèo
với những cơng việc có thu nhập thấp trong nơng nghiệp và hạn chế khả năng tìm được
việc trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn hay ít
ra là ổn định hơn.
-13-


Bảng 2.3
Trình độ học vấn của người nghèo ở Việt Nam 1998

Trình độ học vấn cao nhất

Khơng được đi học
Tiểu học
Phổ thông cơ sở
Phổ thông trung học
Dạy nghề
Đại học
Tổng cộng

Tỷ lệ nghèo
(%)
57
42
38
25
19
4
37

Tỷ lệ tính trong
tổng số người
nghèo
(%)
12
39
37
8
3
0
100


Tỷ lệ trong tổng
dân số
(%)
8
35
36
12
6
3
100

Nguồn: BCPTVN (2000).

Các nghiên cứu đói nghèo có sự tham gia của người dân (PPA) cho thấy bản thân các hộ
nghèo cũng hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khóa quan trọng để thốt khỏi nghèo
đói. Các PPA cũng cho thấy những hộ thuộc nhóm khá giả là những hộ thường xuyên
tiếp xúc với cán bộ khuyến nông, quan hệ với những người ở ngoài cộng đồng, tiếp cận
với thông tin và với các phương tiện truyền thông đại chúng (BCPTVN 2000).
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả khác (2006) phát hiện thấy các hộ gia đình có chủ hộ đạt trình
độ giáo dục cấp phổ thơng cơ sở có nhiều cơ hội thốt nghèo hơn so với hộ gia đình có đặc
điểm tương tự, song chủ hộ khơng có trình độ học vấn.
2.3.3 Khả năng tiếp cận nguồn lực cơ bản
2.3.3.1 Đất đai
Theo BCPTVN (2000), các hộ nghèo coi diện tích đất và chất lượng đất là yếu tố quan
trọng đến mức sống. Khơng có đất đai hoặc hầu như khơng có đất đai đồng nghĩa với
nghèo đói. Các hộ này được mơ tả như những hộ đặc biệt dễ bị tổn thương. Trong năm
1998, 10% hộ ở nơng thơn được đánh giá là khơng có đất. Việc khơng có đất phổ biến
hơn ở ĐBSCL với hơn một phần năm số hộ ở nơng thơn khơng có đất.
Người nghèo do khơng có khả năng sản xuất và túng thiếu nên thường chuyển nhượng
quyền sử dụng cho các hộ giàu. Chính vì vậy mà dù người dân được chia đất một cách


-14-


bình đẳng theo các tiêu chuẩn quốc tế thì những hộ nghèo vẫn thường có ít đất hơn so với
các hộ giàu. Bảng 2.4 cho thấy diện tích đất sản xuất của các hộ tăng lên theo nhóm chi
tiêu bình qn đầu người. Trong đó, diện tích đất trồng cây hàng năm của các hộ thuộc
nhóm giàu nhất lớn hơn của các hộ ở nhóm thấp nhất tới 1,4 lần. Sự khác biệt cịn lớn
hơn nhiều ở diện tích trồng cây lâu năm tính trên đầu người: 6 lần (BCPTVN, 2000).
Bảng 2.4
Diện tích đất nơng nghiệp của hộ gia đình Việt Nam phân theo nhóm chi tiêu (m2)

6437

Khá
nghèo
6953

Trung
bình
7138

3600
613

3928
845

4625
1016


Nghèo
Tổng diện tích đất
Trong đó:
Diện tích trồng cây hàng năm
Diện tích trồng cây lâu năm

Khá giàu

Giàu

6928

9856

4414
1485

5081
3527

Nguồn: BCPTVN (2000).

Theo MDPA (2004), một khi nông dân khơng cịn sở hữu đất, họ dễ rơi vào cảnh nghèo
khó. Hầu hết các nơng hộ nghèo bán đất hay cầm cố đất do gặp rủi ro, trắc trở trong thu
hoạch, trong kinh doanh và trong cuộc sống hàng ngày. Những rủi ro, thất bát này dẫn
đến việc thu nhập của gia đình kém đi, chi phí cuộc sống tăng lên; vì vậy khiến họ dễ bị
lâm nợ, buộc họ phải dùng đất đai như cứu cánh cuối cùng để thanh tốn nợ nần và tiếp
tục sống.
2.3.3.2 Tín dụng chính thức

Theo Waheed (1996), thiếu vốn đầu tư dẫn đến năng suất thấp, kéo theo thu nhập hộ gia
đình thấp. Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp. Tiết kiệm thấp lại là nguyên nhân của sự
thiếu hụt vốn đầu tư, và lại dẫn đến thu nhập thấp. Không đủ vốn, người nghèo khơng thể
làm gì được; từ việc cơ bản nhất là mua giống cây trồng vật nuôi hay phân thuốc chứ
đừng nói đến việc cải tiến sản xuất hay áp dụng khoa học kỹ thuật mới. Muốn thoát khỏi
cái vịng luẩn quẩn này cần phải có nguồn vốn từ bên ngoài, trong trường hợp này là
nguồn vốn vay hay vốn tín dụng từ các tổ chức tín dụng chính thức và phi chính thức, hay
từ các dự án cấp tín dụng cho người nghèo của chính phủ.

-15-


Phạm Vũ Lửa Hạ (2003), ở Việt Nam, người nghèo thường bị hạn chế trong việc tiếp cận
được với các nguồn tín dụng chính thức của Chính phủ trong lúc các nguồn phi chính
thức có ít khả năng giúp hộ gia đình thốt nghèo. Mặc dù hiện nay có rất nhiều nguồn,
nhiều dự án cung cấp tín dụng cho người nghèo thơng qua các chương trình quốc gia về
XĐGN nhưng vẫn cịn rất nhiều người rất nghèo khơng thể tiếp cận được các nguồn tín
dụng này. Có nhiều ngun nhân, loại trừ sự nhũng nhiễu của người có quyền quyết định
thì ngun nhân cịn lại là do người nghèo thiếu hiểu biết, thiếu hiểu biết, khơng có khả
năng thế chấp, khơng biết cách làm ăn dẫn đến khơng có khả năng trả nợ. Và rồi họ tiếp
tục nghèo hơn.
“Nợ nần làm cho chúng tôi thức trắng đêm - cảm giác nợ nần thật là khủng khiếp.
Tôi cảm thấy khiếp sợ mỗi khi có chủ nợ đến nhà địi tiền cịn bản thân thì khơng
thể trả được. Tơi cảm thấy xấu hổ vì lúc đó họ rất coi thường tơi.” - PPA tại Trà
Vinh, Oxfam Anh. (Nguồn: BCPTVN,2000).

2.3.4 Những đặc điểm về nhân khẩu học
2.3.4.1 Quy mô hộ và số người sống phụ thuộc
Quy mơ hộ gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân
của các thành viên trong hộ. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói.

Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo cịn rất cao. Năm 1998, số con bình quân trên 1
phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm giàu nhất.
Quy mơ hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ người ăn theo tăng cao. Tỷ lệ người ăn theo của
nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất. Do đó, những hộ này khơng
những có ít lao động, đồng nghĩa với việc có nhiều người ăn theo hơn mà cịn phải chịu
những chi phí lớn hơn như chi cho việc đi học hay chi cho việc khám chữa bệnh, những
khoản chi thường gây bất ổn cho đời sống kinh tế gia đình (GSO, 2000).
2.3.4.2 Giới tính của chủ hộ
Theo BCPTVN (2000), phần lớn những hộ có chủ hộ là nữ là những hộ nghèo. Hộ gia
đình có chủ hộ là nữ thường bị các cán bộ Nhà nước phân biệt đối xử (Oxfam, 1999).

-16-


VHLSS (2002) cho thấy phụ nữ ở vùng nông thôn Việt Nam phải chịu đựng nhiều thiệt
thòi. Phụ nữ chủ yếu làm nghề nông. Tiền công của nữ chỉ bằng 62% của nam giới. Dù
chiếm 50% lực lượng lao động, nhưng phụ nữ chỉ kiếm được 40% tổng tiền công. Phụ nữ
ít có tiếng nói hay cơ hội tham gia trong việc ra quyết định tại địa phương (WB, 2003).
Theo MDPA (2004), phụ nữ nghèo sống ở nông thôn vùng ĐBSCL có nhiều con hơn phụ
nghèo ở đơ thị hay phụ nữ thuộc các nhóm có cuộc sống khá giả hơn. Nhiều con thường
có nghĩa là phụ nữ nghèo phải làm việc nhiều hơn và bị nhiều vấn đề liên quan đến sức
khỏe sinh sản. Con họ không nhận được dinh dưỡng đầy đủ cần cho tăng trưởng và phát
triển.
2.3.4.3 Những hạn chế của người dân tộc thiểu số
Theo Dominique van de Walle và Dileni Gunewardena (2000) có bằng chứng cho thấy có
sự khác biệt giữa cộng đồng người dân tộc thiểu số và người Kinh – Hoa về mối quan hệ
giữa đặc điểm hộ với tình trạng nghèo đói. Sự khác biệt này có thể phần nào tạo nên
“những khoảng cách về chất lượng”. Ví dụ, trình độ giáo dục mà người dân tộc thiểu số
nhận được có thể có chất lượng thấp hơn. Nhưng lý do phần nào có thể do sự khác biệt
trong hành vi kể cả về việc sử dụng đất chung (BCPTVN, 2004).

Theo Báo cáo cập nhật nghèo (2006), nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số bị tụt hậu khá
nhiểu so với nhóm đồng bào Kinh – Hoa về các chỉ số xã hội. Cụ thể, vào năm 2004, chỉ có
4% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận điều kiện vệ sinh so với 36% người Kinh –
Hoa và 19% đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận nước sạch so với 63% người Kinh –
Hoa.
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) cho thấy hộ gia đình thuộc nhóm Kinh – Hoa dễ có
khả năng thốt nghèo hơn hộ gia đình có đặc điểm tương tự thuộc nhóm dân tộc thiểu số.
Nhóm dân tộc thiểu số có tốc độ giảm nghèo chậm hơn so với nhóm người Kinh – Hoa ở
tại tất cả các vùng nơi có người dân tộc thiểu số sinh sống.
Hoàng Thanh Hương và các tác giả (2006) phát hiện thấy ngay cả khi các dân tộc thiểu
số sống cùng với người Kinh – Hoa trong cùng một địa bàn nhỏ, tức là ở cùng xã, họ vẫn

-17-


khó theo kịp so với nhóm Kinh – Hoa. Nghiên cứu này cũng phát hiện thấy rằng nhóm
các dân tộc thiểu số sống ở các xã khơng có người Kinh – Hoa cùng sinh sống có mức
sống thấp hơn đáng kể so với nhóm các dân tộc thiểu số sống ở các xã có cả người Kinh
– Hoa sinh sống.
Hồng Thanh Hương và các tác giả (2006) và Nguyễn Thị Minh Hịa (2006) cho thấy có
sự khác biệt đáng kể về các đặc tính ở cấp hộ giữa hai nhóm hộ và sự khác biệt dường như
có chiều hướng gia tăng. Năm 2004, sự khác biệt về đặc tính cấp hộ giải thích 18% chênh
lệch chi tiêu dùng giữa hai nhóm ở trong tồn bộ vùng nơng thơn Việt Nam, song tạo ra
51% chênh lệch chi tiêu dùng ở những xã có cả đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào
Kinh – Hoa sinh sống.
2.3.5 Khả năng tiếp cận các hạ tầng cơ sở thiết yếu
Hồng Văn Kình, Bob Baulch và các tác giả (2001) cho thấy những nơi khơng có nghề
thủ cơng hoặc chợ họp thường xun thì thu nhập theo giờ lao động thấp hơn đáng kể.
Theo Lê Thúc Dục và các tác giả (2006), có đường ôtô đến các xã là một trong những yếu
tố quan trọng quyết định mức chi tiêu dùng bình quân đầu người của năm 2004.

Wan de Walle và Cratty (2002) cho rằng có tác động tích cực của việc cải tạo đường giao
thông nông thôn đối với người nghèo là rất tích cực. Larsen, Phạm Lan Hương và Rama
(2004) cho thấy tăng thêm 1 điểm phần trăm GDP chi vào cơ sở hạ tầng đã dẫn đến việc
giảm tương ứng tỷ lệ nghèo khoảng 0,5%. Tác động này ở các tỉnh nghèo sẽ lớn hơn. Đầu
tư vào giao thông, nước sạch và hạ tầng vệ sinh có tác động giảm nghèo lớn hơn.
Vũ Hoàng Đạt và các tác giả (2006) cho thấy rằng tiếp cận đường giao thông, trường phổ
thông cơ sở, trạm xá và đường giao thông thường xuyên ở cấp thơn tăng khả năng thốt
nghèo của hộ gia đình.

-18-


2.4 Mơ hình nghiên cứu đề nghị
Qua phân tích các ngun nhân gây ra tình trạng nghèo đói của những lý thuyết và các
nghiên cứu trước, chúng tôi đề nghị mơ hình nghiên cứu nghèo đói cho vùng ven biển
ĐBSCL với các nhân tố cơ bản sau:
Nhóm các nhân tố thuộc hộ gia đình:
1. Giới tính của chủ hộ. Hộ có chủ hộ là nữ sẽ có xác suất nghèo cao hơn. Cũng theo
ĐTMSDC và các nghiên cứu khác cho rằng tại các nước Châu Á phụ nữ nói chung
và nhất là phụ nữ ở các khu vực nông thôn ít có điều kiện tiếp cận với giáo dục do
tư tưởng “trọng nam truyền thống” nên hệ quả là phụ nữ có cơ hội ít hơn trong q
trình tìm kiếm thu nhập, cho dù Việt Nam vấn đề giới chưa thể hiện sự nghiêm
trọng nhưng hiện tượng này rất phổ biến. Nghiên cứu này giả định là chủ hộ là nữ
sẽ có khả năng rơi vào ngưỡng nghèo nhiều hơn chủ hộ là nam.
2. Số người sống phụ thuộc. Đó là số người trưởng thành khơng có hoạt động tạo thu
nhập của hộ. Điều này cũng đương nhiên về mặt lý thuyết và bằng chứng từ các
nhà nghiên cứu nghèo đói. Khi số thành viên trong hộ khơng có việc làm càng
tăng lên thì càng làm giảm khả năng tích luỹ của gia đình, dẫn đến khả năng vay
tín dụng phi chính thức càng tăng, và hệ quả là dễ rơi vào hoàn cảnh nghèo.
Nghiên cứu này giả định tỉ lệ phụ thuộc của hộ sẽ có mối quan hệ đồng biến với

xác suất rơi vào ngưỡng nghèo.
3. Dân tộc (có thuộc nhóm cộng đồng người Khmer). Cộng đồng người Khmer ngồi
những biệt về tập qn văn hóa thì hầu hết các chỉ số kinh tế, xã hội của họ đều thua
kém hơn so với người Kinh-Hoa. Trong ĐTMSDC của GSO phối hợp với UNDP
có một sự chênh lệch về thu nhập giữa dân tộc Kinh-Hoa và dân tộc thiểu số và
dẫn đến các hộ dân tộc thiểu số nằm trong diện XĐGN nhiều hơn là dân tộc KinhHoa, điều này xuất phát từ sự khác biệt các điều kiện tự nhiên, xã hội dẫn đến sự

-19-


khác biệt thấp về kinh tế của các hộ gia đình dân tộc. Do vậy chúng tơi giả định là
hộ dân tộc thiểu số có nguy cơ nghèo nhiều hơn các hộ khác.
4. Tình trạng việc làm (có hay khơng có làm việc) và loại ngành nghề của chủ hộ. Hộ
có việc làm sẽ có nguồn thu nhập lớn hơn so với hộ khơng có việc làm. Hộ có việc
làm phi nơng nghiệp sẽ có cơng việc ổn định hơn, thu nhập khá hơn so với hộ làm
việc trong ngành nông nghiệp, đặc biệ so với hộ đi làm thuê trong ngành nơng
nghiệp. Nghiên cứu này giả định, hộ có việc làm và làm việc trong khu vực phi
nông nghiệp sẽ có xác suất nghèo thấp hơn so với các hộ khơng có việc làm hay làm
việc trong ngành nơng nghiệp.
5. Số năm đi học trung bình của những người trưởng thành trong hộ. Trình độ học vấn
của các thành viên trưởng thành trong hộ càng cao càng có khả năng tiếp cận với
công nghệ, kỹ thuật nông nghiệp, tiếp cận với thị trường lao động và nâng cao cơ
hội cải thiện thu nhập. Nghiên cứu này giả định số năm đi học của những thành
viên đã đến tuổi lao động có mối quan hệ nghịch biến với xác suất rơi vào ngưỡng
nghèo.
Nhóm nhân tố liên quan đến vai trị Chính phủ (trong phân bổ nguồn lực):
6. Phân bổ đất sản xuất đến hộ gia đình. Nơng dân ở nơng thôn sống chủ yếu dựa vào
sản xuất nông nghiệp mà nơng nghiệp gắn liền với đất đai. Hộ có nhiều đất canh
tác thì có nhiều thu nhập từ nơng nghiệp hơn. Nếu hộ có ít đất hay mất đất thì
nguy cơ rơi vào nhóm hộ người nghèo là rất lớn. Nghiên cứu này giả định rằng hộ

có nhiều đất sẽ có khả năng làm giảm xác suất nghèo.
7. Tiếp cận nguồn tín dụng chính thức. Trong ĐTMSDC do GSO phối hợp với UNDP
cho thấy rằng khi các hộ gia đình tiếp cận được với các nguồn tín dụng chính thức
để đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm tăng thu nhập cho
hộ. Như vậy, hộ tiếp cận được với tín dụng chính thức và nhận được giá trị khoản
vay càng lớn thì càng có khả năng giảm xác suất rơi vào ngưỡng nghèo.

-20-


8. Tiếp cận hạ tầng cơ sở thiết yếu bao gồm đường giao thông, điện, trạm y tế, trường
học… PPA cũng cho thấy việc đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng đã góp phần tăng
phúc lợi của người dân và giảm nghèo. Nghiên cứu giả định hộ gia đình tiếp cận
dễ dàng các hạ tầng cơ sở thiết yếu trên sẽ có xác xuất rơi vào nghèo đói thấp hơn
so với các hộ khác.

-21-


Sơ đồ 2.1
Mơ hình nghiên cứu đề nghị
Nghèo

Các đặc
tính của
hộ gia
đình

Chính Phủ


Hạ tầng
cơ sở

Phân bổ
nguồn lực

Nhân
khẩu học

Kinh tế

Xã hội

Đất đai

Giới tính
của chủ
hộ

Tình trạng
việc làm

Tín dụng

Tỷ lệ phụ
thuộc

Loại
ngành
nghề


Dân tộc

-22-

Sơ năm đi
học trung
bình của
hộ


CHƯƠNG 3

PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH

3.1 Sơ lược về vùng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vùng ven biển ĐBSCL. Mẫu khảo sát bao gồm 360 hộ
gia đình sống ở 120 xã (40 xã ven biển) thuộc 26 huyện ven biển của 7 tỉnh giáp biển
gồm Tiền Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau (sơ đồ
3.1).
Theo VHLSS 2004, vùng ĐBSCL có 467 xã tham gia điều tra “Phỏng vấn xã” trong đó
có 109 xã là xã nghèo thuộc Chương trình 135 (các xã đặc biệt khó khăn) của Chính phủ.
Đối với vùng ven biển, có 120 xã tham gia trong mẫu VHLSS 2004 thì có 45 xã thuộc
Chương trình 135. Như vậy, vùng ven biển chiếm 25% số xã của vùng ĐBSCL nhưng
chiếm 40% tổng số xã thuộc Chương trình 135.
Sơ đồ 3.1
Tổ chức vùng nghiên cứu
Vùng
nghiên cứu
(7 tỉnh, 26

huyện, 120
xã, 360 hộ)

Tỉnh Tiền
Giang
2 huyện

Tỉnh Bến
Tre
4 huyện

Tỉnh Kiên
Giang
5 huyện

Tỉnh Trà
Vinh
4 huyện

Tỉnh Sóc
Trăng
2 huyện

Tỉnh Bạc
Liêu
4 huyện

Tỉnh Cà
Mau
5 huyện


Nguồn: tác giả.

3.2 Xác định nghèo đói
3.2.1 Sử dụng chi tiêu bình qn đầu người làm tiêu chí phân tích nghèo
Với những lý do như đã phân tích ở phần 2.2, nghiên cứu này chọn chi tiêu bình quân
một người trong hộ gia đình (thay vì thu nhập bình quân đầu người) làm cơ sở để phân

-23-


tích nghèo. Chi tiêu dùng để so sánh với ngưỡng nghèo gồm chi tiêu bằng tiền cho hàng
hóa lương thực thực phẩm và phi lương thực thực phẩm. Các ước lượng về giá trị sử
dụng nhà ở và hàng hóa lâu bền cũng được tính trong chi tiêu, mặc dù ở Việt Nam thị
trường nhà ở cho thuê vẫn còn kém phát triển. Sau khi tính tốn chi tiêu, cần điều chỉnh
chi tiêu về giá trị thực để có thể so sánh giữa các vùng. Trong bộ dữ liệu VHLSS 2004
(GSO, 2004), biến chi tiêu dùng thực bình quân đầu người có tên là pcexp1rl, ở tập tin có
tên hhexpe04.
3.2.2 Lựa chọn ngưỡng nghèo
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng ngưỡng nghèo (PL) do GSO đưa ra, có giá trị
PL = 2.077.110 VNĐ (GSO, 2004). Như vậy, một hộ gia đình là nghèo nếu mức chi tiêu
bình quân đầu người của hộ thấp hơn 2.077.110 VNĐ và ngược lại, hộ khơng là hộ nghèo
khi chi tiêu dùng bình qn đầu người của hộ từ 2.077.110 VNĐ trở lên.

-24-


Sơ đồ 3.2

Nguồn: tác giả.

25


×