Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng thực hành môn Công nghệ 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.22 KB, 41 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
MÔN CÔNG NGHỆ 9"
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo dục và đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống chính trị
của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, ngay từ khi
giành được chính quyền, Hồ Chủ Tịch đã chỉ rõ “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.
Do đó xác định Giáo dục và đào tạo là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt
Nam. Bắt đầu từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng (1979) đã ra quyết định số
14-NQTƯ về cải cách giáo dục với tư tưởng: Xem giáo dục là bộ phận quan trọng của
cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến
lúc trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp
với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Tư tưởng chỉ đạo trên được phát
triển bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VII, VIII,
IX, X của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định:
"Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước" ; “Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương
pháp dạy và học”; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", chấn hưng nền
giáo dục Việt Nam; Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở -
mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa
các bậc học, ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và
những hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên;
tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội
trong giáo dục.”
Nhằm thực hiện tốt đường lối chủ trương đó, những năm học qua, ngành Giáo
dục đã tích cực tham gia công cuộc đổi mới toàn diện. Một trong những biện pháp đó là
việc giáo dục cơ bản – toàn diện các khoa học cơ bản và thực hành kỹ thuật cơ bản
nhằm bổ sung kiến thức và bổ trợ cho công tác hướng nghiệp cuối bậc Trung học cơ sở
và sau bậc Trung học phổ thông. Đây cũng là một trong những quan điểm giáo dục


“Học đi đôi với Hành” mà ngành giáo dục chúng ta được kế thừa từ tư tưởng của Hồ
Chủ Tịch và được các kì Đại hội Đảng nêu lên. Và thực sự vậy, các bộ môn giảng dạy
trong nhà trường phổ thông đều lồng ghép, tích hợp hoặc dành hẳn những thời lượng
lớn để giúp học sinh có áp dụng thực hành những kiến thức học tập được. Qua đó, củng
cố khắc sâu kiến thức lý thuyết đồng thời cũng nâng cao chất lượng thực hành, áp dụng
vào đời sống thực tế.
Tổng kết kết quả thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 của
Chính Phủ có chỉ ra: “Nội dung chương trình, phương pháp dạy và học, công tác thi,
kiểm tra, đánh giá chậm đổi mới. Nội dung chương trình còn nặng về lý thuyết, phương
pháp dạy học lạc hậu, chưa phù hợp với đặc thù khác nhau của các loại hình cơ sở giáo
dục, vùng miền và các đối tượng người học; nhà trường chưa gắn chặt với đời sống kinh
tế, xã hội; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội; chưa chú trọng giáo dục
kỹ năng sống, phát huy tính sáng tạo, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên”
Đây là một tồn tại chung của các bậc học, ngành học trên toàn quốc, còn thực tế
tại cơ sở giáo dục thì:
Ở trường THCS, môn Công nghệ 9 là môn học mới được thiết kế theo mô-đun
nghề nên thời lượng thực hành khá cao, môn học mang tính thực tế, rất thiết thực cho
việc chọn nghề, hướng nghiệp cho học sinh.
Trong thời kỳ kinh tế mở cửa thì việc học tập của học sinh ngày càng được nâng
cao, từ cơ sở vật chất đến nội dung kiến thức bài học. Trong những năm gần đây, chương
trình đổi mới của sách giáo khoa nói chung và môn Công nghệ nói riêng là một bước
ngoặt về sự đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và học sinh.
Tuy nhiên, trong thực tế, môn Công nghệ hiện nay vẫn chưa thực sự là môn
học thế mạnh ở nhiều nhà trường, nhiều nơi – nhiều lúc còn coi đây là môn bổ trợ kiến
thức về đời sống, mới mang tính thường thức xã hội chứ chưa là tiền đề, cơ sở trong
việc đào luyện học sinh có hiểu biết cơ bản về một số nghề hoặc áp dụng trong đời
sống, trong hướng nghiệp. Tâm lý của học sinh, nhất là học sinh nữ thường ngại thực
hành các bài thực hành của bộ môn.
Điều này làm cho các em chưa có hứng thú trong học lý thuyết, chưa để ý từng
bước cơ bản trong thực hành, dẫn đến những lỗi kỹ thuật, lỗi mỹ thuật trong thực hành.

Cũng phải nhắc đến chất lượng của giáo viên khi hướng dẫn thực hành, một phần do e
ngại sự mới mẻ của bộ môn, một phần do tính chất nghề đặc thù của việc làm nên đôi
khi giáo viên cũng xem nhẹ phần thực hành hoặc hướng dẫn thực hành qua loa, có lúc
còn thực hiện mang tính giới thiệu hàn lâm, giới thiệu trên tranh vẽ, trình chiếu máy
tính, … thiếu tính chuyên môn nghề. Đồng thời, một lý do rất thực tế nữa là đồ dùng
dạy học cho phân môn qua các năm học đều đã cũ, xuống cấp, thiếu – mất mát, … cần
bổ sung liên tục.
Chính vì vậy, khi được nhà trường giao giảng dạy bộ môn Công nghệ, tôi xác
định cần nâng cao chất lượng dạy học, chuẩn bị tiết giảng chu đáo giúp HS có lý thuyết
vững chắc và có thực hành hiệu quả. Qua mỗi tiết học thì học sinh tăng cường thói quen
chủ động trong việc học, thuần thục và sáng tạo trong thực hành. Có tâm lý vững vàng
để tự mình thực hành tại lớp và làm thực tế tại gia đình. Với mong muốn đó, trong thời
gian được giảng dạy Công nghệ 9, tôi đã mạnh dạn nêu sáng kiến và áp dụng trực tiếp
vào thực tế với sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng thực hành Công
Nghệ 9” – Công nghệ 9 – Mô đun Lắp đặt mạch điện gia đình
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tâm lý học lứa tuổi THCS có ghi nhận: Học sinh lứa tuổi THCS có bước nhảy
vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát
triển cao hơn tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt: thể chất, trí tuệ, tình
cảm, đạo đức, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng xử lí tình huống, … Đây là lứa tuổi có vị trí quan
trọng trong sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức nhân cách, những cơ sở này là
tiềm tàng để hình thành rõ nét trong thời kì thanh niên tiếp theo. Như vậy, nếu như gia
đình, nhà trường và xã hội chăm lo cho các em học sinh ở giai đoạn này thì sẽ có tác
dụng to lớn cho sự phát triển tài năng, tạo tiền đề cho các tài năng, làm cơ sở cho các bậc
học cao hơn. Trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng, phát triển nhân lực nhân tài thì mắt
xích Nhà trường có vai trò rất quan trọng, mà trong đó mối liên hệ hữu cơ giữa thầy – trò
– kiến thức là điều chủ yếu. Ở lứa tuổi THCS, học sinh được học nhiều môn học với
nhiều thầy cô giáo do vậy các em được tiếp xúc với hệ thống kiến thức, kĩ năng phong

phú và với các tác phong sư phạm đa dạng. Bên cạnh đó các em cũng có những tâm lý
coi trọng môn học này, thích “cách dạy” của thầy cô kia, … Nắm bắt được điều này thì
mỗi thầy cô giáo đều hết lòng yêu nghề, đầu tư công sức vào bài soạn, bài giảng để giúp
các em có kiến thức đầy đủ, kĩ năng thành thạo và áp dụng được vào môi trường sống.
Với các môn học có giờ học thực hành nói chung và với môn Công nghệ với mô
đun Lắp đặt mạch điện trong nhà thì học sinh có cơ hội học lý thuyết và thực hành ngay
các kiến thức, kĩ năng đó. Đây là một điểm mạnh của môn học mà nếu thầy cô giáo phát
huy được thì học sinh sẽ ít nhàm chán, lo ngại. Tuy nhiên, với quan điểm giáo dục trọng
nhân văn, hướng đến người học làm trung tâm thì việc người thầy “diễn giảng” một tiết
học hay chưa quý bằng việc giúp học sinh làm tốt các yêu cầu của mục tiêu bài học. Mà
khẩu hiệu chúng ta vẫn nhắc đến đó là “Học đi đôi với Hành” nếu được áp dụng vào các
bài học của môn Công nghệ thì luôn luôn đúng đắn; tuy nhiên để có được tiết thực hành
đầy đủ, đúng mục tiêu, thành công thì công sức chuẩn bị của thầy và trò là rất lớn.
Hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của nền khoa học kĩ thuật và kinh tế xã
hội, những đòi hỏi đặt ra cho thầy những nhiệm vụ giáo dục vô cùng to lớn trong công
cuộc giáo dục nhân cách, bồi dưỡng nhân tài. Để hoàn thành nhiệm vụ thì người thầy
không chỉ là người có năng lực chuyên môn cao mà còn cần có năng lực sư phạm vững
vàng, kinh nghiệm. Càng tham gia vào sâu quá trình giáo dục thì người thầy càng tìm
thấy được những biện pháp giáo dục nhằm giúp HS của mình phát triển năng lực nhận
thức, kĩ năng – thái độ thực hành. Việc tìm hiểu, áp dụng, đối chiếu, điều chỉnh các biện
pháp này cần diễn ra thường xuyên, không mệt mỏi để hướng đến kết quả giáo dục cao
nhất.
2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Trong quá trình giảng dạy bộ môn Công nghệ 9 – mô đun Lắp đặt mạch điện
trong nhà. Tôi nhận thấy tâm lý học và khả năng thực hành của một số em khá tốt; các
em được coi như những “cột trụ” trong nhóm/lớp, có khả năng giúp đỡ các bạn khác
thực hành. Tuy nhiên, đa số các em có tâm lý e ngại, rụt rè khi học, nhất là các em nữ;
mặt khác chất lượng thực hành của các em cũng chưa cao; nhiều bài thực hành mới đáp
ứng được việc đảm bảo an toàn điện, đủ các bước kĩ thuật mà chưa có nhiều bài đáp
ứng các yêu cầu về trình bày, mĩ thuật, thời gian hoàn thành, độ bền cơ học, … Đây là

một trong những trăn trở của GV trong giảng dạy thực hành.
Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục đang tích cực cải cách chương trình
SGK, đổi mới phương pháp dạy học, phương thức kiểm tra đánh giá, … cũng nhằm một
mục đích chung là nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng từng bộ môn
nói riêng. Với quan điểm coi trọng và dành sự chăm lo nhiều nhất cho giáo dục của toàn
Đảng, toàn Dân ta thì mỗi GV cần tích cực, chủ động nắm bắt các cơ hội này trong việc
triển khai công tác giáo dục của mình. Công việc này cần được GV tìm hiểu, áp dụng và
tổng hợp kết quả qua mỗi năm học để không ứng đáp ứng nhu cầu mới của bộ môn và
thời đại.
Một thực tế cụ thể nữa ở trường THCS là số lượng, chất lượng các đồ dùng –
thiết bị - vật liệu để thực hành đều giảm dần theo số lượng tiết học; mặc dù được bổ
sung hàng năm nhưng với sĩ số học sinh luôn luôn cao cùng với tâm lý ai cũng muốn
được thực hành một lần nên đồ dùng qua các tiết học đều cần chỉnh sửa, bổ sung thêm.
Đồng thời, với sự phân hóa môn học nên học sinh đã bước đầu coi trọng môn học này,
xem nhẹ môn học khác; học sinh phải chăm lo nhiều bài tập của nhiều bộ môn nên việc
tham gia chuẩn bị đồ dùng thực hành nhất là tham gia theo nhóm còn rất hạn chế. Nếu
như giáo viên không chú ý hướng dẫn thì học sinh khó có thể chuẩn bị đúng đồ dùng
theo yêu cầu của bảng dự trù vật liệu mà các em vẫn thường lập được.
II. MỤC ĐÍCH SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Mục đích thứ nhất: Khi suy nghĩ, nêu và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, bản
thân tôi mong muốn được một lần nữa tôi và các đồng nghiệp, các em học sinh xác định
vai trò quan trọng của tiết học thực hành trong nhà trường, đặc biệt là trong bộ môn
Công nghệ với mô-đun nghề cụ thể. Với quan điểm không xem nhẹ khả năng của học
sinh và rất quan tâm đến tính thực tiễn của phân môn đồng thời qua đó giáo dục lòng
yêu lao động và tâm lý vững vàng cho học sinh khi thao tác nghề; thì tôi tin chắc giáo
viên và học sinh đều hứng thú và thực hành tốt; vai trò bộ môn Công nghệ được nâng
cao đúng tầm của nó. Khi xác định như vậy thì cả giáo viên và học sinh cần chuẩn bị tốt
cho mỗi bài học, điều này được đáp ứng bởi nhiều yếu tố trong đó cần có sự chủ động
của người thầy trong việc tìm tòi, áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
thực hành của mỗi bài học.

Thứ hai: Bước đầu có những cơ sở lý luận, bước làm thực tế cho từng biện pháp
cơ bản trong việc tìm hiểu, áp dụng các biện pháp giáo dục đặc thù cho phân môn;
những bước đi tiêu chuẩn trong thực hành trên lớp cho đến khi thực tế ở hộ gia đình
mình, bởi sai sót nhỏ cũng có thể gây hư hỏng mạng điện, thiệt hại kinh tế và nguy hiểm
đến tính mạng con người.
Thứ ba: Giúp học sinh thực hành tốt nội dung yêu cầu của bài thực hành. Có tâm
lý vững vàng khi làm việc, yêu thích lao động và tự giác áp dụng vào cuộc sống. Vì khi
học sinh được học tập, rèn luyện tốt thì các em có kĩ năng thuần thục hơn, có tính tiết
kiệm, lao động tập thể, …
Thứ tư: Rèn luyện phương pháp nghiên cứu khoa học của người giáo viên đồng
thời góp phần nhỏ bé làm tài liệu tham khảo cho đồng nghiệp và góp phần thực hiện
phong trào thi đua “Hai Tốt” và “Trường học thân thiện – Học sinh tích cực” của
ngành Giáo dục.
III. ĐỐI TƯỢNG – PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Sáng kiến này được tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng đối với học sinh khối 9 của
trường THCS Nhật Tân (Tiên Lữ - Hưng Yên) từ năm học 2010 -2011 đến năm học
2011 – 2012
Trong năm học 2010 – 2011 được áp dụng ở lớp 9C đối chứng với kết quả thực
hành của lớp 9A, 9B không áp dụng sáng kiến. Trong năm học 2011 – 2012 áp dụng ở
lớp 9A, 9C đối chứng với kết quả thực hành của lớp 9B không áp dụng sáng kiến.
IV. KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
Năm học 2009 – 2010, nghiên cứu SGK, SGV, Sách Thiết kế bài giảng, Phân
phối chương trình để áp dụng vào soạn giáo án, chuẩn bị đồ dùng thực hành. Bước đầu
cập nhật và tìm hiểu quan điểm hiện nay của Đảng và Nhà nước về giáo dục và giáo dục
hướng nghiệp nghề. Thống kê, kiểm tra số lượng, chất lượng các vật liệu – dụng cụ -
thiết bị có trong các hộp đồ dùng dạy học của nhà trường. Thu nhận những ý kiến góp ý
của đồng nghiệp về giờ giảng, giờ thực hành thông qua các buổi hội giảng, dự giờ; thu
nhận ý kiến phản hồi từ các em học sinh thông qua các bài kiểm tra lý thuyết, kiểm tra
thực hành và cả trong vấn đáp trực tiếp. Viết sáng kiến và lên kế hoạch áp dụng vào
năm học tiếp.

Năm học 2010 – 2011 và 2011 – 2012 bắt đầu áp dụng dần dần mở rộng từ lớp
chọn đến lớp đại trà. Từng bước đối chiếu kết quả hiểu lý thuyết và thái độ trong chuẩn
bị đồ dùng thực hành; nhẫn tới kết quả thực hành của từng tiết học.
Thang điểm chấm không có sự phân biệt giữa lớp chọn và lớp đại trà, mà đánh
giá công bằng kết quả học và thực hành của các lớp. Trên cơ sở kết quả đó, giáo viên
chỉnh sửa sáng kiến và lần lượt tổng kết kết quả qua mỗi kỳ học, mỗi năm học. Sau đó,
Sáng kiến được viết và trình bày với hội đồng khoa học chấm sáng kiến kinh nghiệm
của nhà trường để được đóng góp ý kiến xây dựng cho hoàn thiện.
Trong quá trình nghiên cứu, ngoài các tài liệu cơ bản trong thư viện và trong
phòng thí nghiệm của nhà trường thì giáo viên và học sinh tìm thêm kiến thức trên các
phương tiện thông tin khác nữa, đồng thời tự làm đồ dùng thực hành cho mỗi tiết học để
làm gương động viên khích lệ học sinh. Khuyến khích học sinh chuẩn bị đồ dùng thực
hành theo nhóm, với chú ý các đồ dùng đó không thử trực tiếp với bất cứ nguồn điện
nào nếu chưa được giáo viên kiểm tra.
V. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
Sau năm học 2008 – 2009, qua khảo sát thống kê, kiểm tra số lượng, chất lượng
đồ dùng dạy học của bộ môn Công nghệ của học sinh khối 9 trường THCS Nhật Tân
nhận thấy:
STT TÊN ĐỒ DÙNG SỐ
LƯỢNG
CHẤT LƯỢNG
1 Bút thử điện 04 Sử dụng tốt
2 Kìm điện 04 Sử dụng tốt
3 Kìm tuốt dây 04 Sử dụng tốt
4 Máy khoan cầm tay 04 Hỏng 1 máy
khoan
5 Mỏ hàn điện 04 Hỏng
6 Tuốc nơ vít điện loại dẹt và
4 cạnh

04 Sử dụng tốt
7 Ổ cắm điện + phích điện 04 Hỏng kẹp ổ cắm
8 Cầu chì 04 Hỏng dây chì
9 Công tắc (2 cực + 3 cực) 04 Hỏng 2 công tắc
10 Bóng đèn huỳnh quang 14 Một số bị cháy và
compact đui ngạnh và đui
xoáy
vỡ.
11 Bóng sợi đốt đui ngạnh và
đui xoáy
14 Một số bị cháy và
vỡ.
12 Attomat 7 Sử dụng tốt
13 Cầu dao 7 Sử dụng tốt
14 Vôn kế 7 Sử dụng tốt
15 Ampe kế 7 Sử dụng tốt
16 Đồng hồ vạn năng 7 Sử dụng tốt
17 Băng cách điện 0 Đã sử dụng hết
18 Giấy ráp 0 Đã sử dụng hết
19 Thiếc hàn + nhựa thông 0 Đã sử dụng hết
20 Dây điện đơn 0 Đã sử dụng hết
21 Dây điện đôi 0 Đã sử dụng hết
22 Mũi khoan 20 Một số bị gãy
23 Bảng điện 0 Đã sử dụng hết
Như vậy, các thiết bị đo điện, dụng cụ cơ khí và một số thiết bị khác thì tái sử
dụng được nhiều lần; còn các thiết bị - vật liệu: bóng điện, dây điện, giấy ráp, bảng
điện, … thì tỷ lệ cháy, hỏng, hao hụt khá nhiều, không tái sử dụng được. Hàng năm, nhà
trường đều dành một khoản kinh phí khá lớn đầu tư cho trang bị thiết bị dạy học, đồ
dùng – thiết bị cho các phòng chức năng, thực hành, bộ môn; tuy nhiên vì có nhiều mục
cần đầu tư nên thực tế việc tu sửa, mua sắm đồ dùng – thiết bị cho thực hành của nhiều

bộ môn còn hạn chế, trong khi đó mô đun Lắp đặt mạng điện trong nhà lại tiêu tốn và
làm hư hao thiết bị rất nhiều. Ví dụ: sau tiết học Lắp đặt mạch điện bảng điện, học sinh
thao tác đánh dấu vị trí rồi khoan lỗ bảng điện xong thì bảng điện không đáp ứng cho
yêu cầu bài học của tiết sau được nữa; muốn tái sử dụng thì giáo viên dùng giấy dán qua
lỗ đinh vít – để học sinh thực hành đánh dấu vị trí; hoặc dùng sáp nến để bít lỗ đinh vít
để học sinh thực hành khoan lỗ bảng điện. Cả hai cách xử lí này đều không giúp bài
thực hành đạt được mục tiêu về kĩ năng như mong muốn.
Về chất lượng học của học sinh, qua thống kê chúng tôi nhận thấy:
Lớp Sĩ số Điểm lý thuyết Điểm thực hành Điểm tổng kết
> 8 6,0 –
7,9
< 6 > 8 6,0 –
7,9
< 6 > 8 6,0 –
7,9
< 6
9A 37 7 25 5 4 20 17 0 30 7
9B 35 7 22 6 2 18 15 0 33 2
9C 37 12 22 3 7 25 5 7 28 2
Như vậy, điểm thực hành của học sinh thấp hơn nhiều so với điểm lý thuyết của
các em. Điểm tổng kết cả năm cũng chưa cao, ở các lớp đại trà thì không có HS đạt
điểm tổng kết giỏi và ở lớp chọn thì vẫn còn HS đạt điểm tổng kết dưới trung bình.
Qua trao đổi với các bậc phụ huynh thì tôi được nghe phản ánh: các em có giới
thiệu với gia đình về môn học Công nghệ 9 – mô đun Lắp đặt mạch điện trong nhà
nhưng ở nhà các em chưa mạnh dạn tham gia học tập và giúp đỡ người lớn sửa chữa,
lắp đặt mạch điện gia đình. Cá biệt có em còn chưa biết cách thay dây chì khi bị đứt
hoặc chưa biết dùng băng cách điện để băng mối nối, chưa biết cách sử dụng các thiết bị
tiết kiệm điện: công tắc tự động, thay đèn tròn sợi đốt bằng đèn compart hoặc đèn ống
huỳnh quang… Như vậy kỹ năng vận dụng vào đời sống chưa được các em phát huy và
làm thường xuyên.

Về tâm lý chung thì học sinh chưa coi trọng bộ môn Công nghệ, chưa có ý thức
thực hành nghiêm túc, sáng tạo trong công việc. Qua theo dõi thực hành tôi còn nhận
thấy các em bỏ qua nhiều thao tác kỹ thuật, bỏ bước trong quy trình, … Đôi khi có học
sinh làm bài vở của môn khác trong giờ Công nghệ. Qua thăm hỏi học sinh, tôi nhận
thấy đa số các em chưa thực hành hoặc tham gia thực hành cùng người thân để lắp đặt
mạng điện, lắp đặt bảng điện hoặc đấu nối dây điện ở gia đình. Đây là việc cần hướng
dẫn và khích lệ các em thực hành trên lớp tốt và tự tin thực hành ở thực địa gia đình.
2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH
Qua quá trình giảng dạy và tìm hiểu các tài liệu tham khảo, áp dụng các hướng
dẫn của ngành về đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá, … tôi có áp dụng
một số biện pháp cụ thể sau để nâng cao chất lượng thực hành của học sinh :
a. Chuẩn bị soạn giáo án.
b. Chuẩn bị tư liệu mẫu.
c. Hướng dẫn học sinh làm đồ dùng thực hành.
d. Áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy.
e. Tích hợp kiến thức liên môn vào môn Công nghệ
g. Kiểm tra, nhận xét – đánh giá, động viên học sinh
h. Thu thập kết quả thực hành của học sinh để đối chiếu và điều chỉnh phương
pháp.
a. Chuẩn bị giáo án
Để thực hiện tốt việc giảng dạy nói chung và áp dụng sáng kiến vào giảng dạy
nói riêng thì tôi xác định mình cần chuẩn bị tâm thế chủ động tích cực hoạt động giảng
dạy ngay từ phần việc soạn giáo án, chuẩn bị đồ dùng thực hành, tổ chức phân công
chia nhóm học, phân công chuẩn bị đồ dùng, thực hiện buổi học nghiêm túc – khoa học,
tổ chức thực hành đúng quy trình, đảm bảo thời gian, tiến độ cũng như chất lượng của
bài thực hành. Đồng thời có kế hoạch đôn đốc, kiểm tra, động viên khích lệ các em
trước – trong và sau khi chuẩn bị đồ dùng.
Cụ thể:
Khi soạn giáo án cho mô đun Lắp đặt mạng điện trong nhà thì tôi xác định cần
soạn hai loại giáo án là giáo án dành cho tiết lý thuyết và giáo án dành cho tiết thực

hành. Đối với giáo án lý thuyết thì chi tiết từng hoạt động, cụ thể hóa các thiết bị bằng
thiết bị thực tế hoặc tranh vẽ minh họa – nhất là những chi tiết cần sử dụng lát cắt kỹ
thuật. Trong giờ lý thuyết cần nhắc nhở học sinh liên tục chú ý sơ đồ nguyên lý và vẽ
sơ đồ lắp đặt trước khi đi dây thực tế, để làm điều này thì chính giáo viên khi thực hành
cũng tự vẽ lại sơ đồ mạch điện trên bảng. Khi giảng lý thuyết, giáo viên cũng động viên
và hướng dẫn học sinh tìm hiểu kỹ nguyên lý hoạt động của từng thiết bị cơ bản, khi
hiểu nguyên lý hoạt động hơn thì các em thao tác đỡ nhầm lẫn, đôi khi các em có thêm
ý tưởng sáng tạo. Ví dụ: khi các em hiểu cấu tạo, tác dụng, nguyên lý hoạt động của cầu
chì thì các em sẽ có ý thức lắp cầu chì trên mỗi bảng điện – nhánh điện, chú ý chọn dây
chì phù hợp với điện năng tiêu thụ của toàn đoạn mạnh đó.
Với giáo án tiết thực hành, thì trong phân phối chương trình mô đun Lắp đặt
mạng điện trong nhà đều dành từ 2 đến 4 tiết thực hành cho một phần việc. Do vậy, khi
soạn giáo án và giảng dạy thực tế tôi đều dành tiết thứ nhất của thực hành để hướng dẫn
lý thuyết, giới thiệu thiết bị, dụng cụ để thực hành: hình dáng ngoài, cấu tạo trong,
nguyên tắc hoạt động, vị trí lắp đặt trong mạch điện, vị trí lắp đặt trong bảng điện, nêu
yêu cầu thực hành và yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ lắp đặt (cần thiết thì yêu cầu vẽ lại sơ
đồ nguyên lý nữa). Đồng thời lên kế hoạch dự trù vật liệu, dụng cụ, thiết bị cho công
việc của tiết thực hành thứ 2 trở đi. Sau khi có kế hoạch dự trù vật liệu, dụng cụ, thiết bị
cho công việc thì tôi hướng dẫn học sinh chuẩn bị các vật liệu đó thông qua hai phương
án: chuẩn bị theo cá nhân, chuẩn bị theo nhóm. Dù phương án nào thì tôi vẫn tôn trọng
ý kiến xung phong hoặc tự ghép nhóm của các em. Điều căn dặn luôn luôn nhớ là: các
vật liệu, dụng cụ, thiết bị điện mà các em chuẩn bị hoặc tự làm không được đấu nối với
nguồn điện khi chưa có sự kiểm tra, giám sát của thầy giáo. Đối với giáo án thực hành
tiết thứ 2 trở đi thì bắt đầu cho học sinh thực hành theo nhóm dưới sự hướng dẫn của
giáo viên.
Việc soạn giáo án được tôi ứng dụng soạn trên văn bản MicrosoftWord hoặc/và
trình chiếu MicrosoftPowerPoint. Ngoài ra tôi còn tìm hiểu trên mạng các tư liệu bài
giảng, các hình ảnh, video, … để đưa vào giảng dạy. Tuy nhiên, việc trình chiếu
PowerPoint được xác định là công cụ hỗ trợ cho mục tiêu: hướng dẫn và phát huy học
sinh tích cực học tập; nên các Slide trình diễn đều đơn giản, không quá màu sắc rườm rà

hoặc hiệu ứng lạ kì để tránh sự phân tán của học trò.
Trong quá trình soạn giáo án, tôi cũng chú ý chỉnh sửa giáo án cho phù hợp với
trình độ của học sinh, đảm bảo các em không nhàm chán, không thấy giáo án là bản sao
y hệt của sách giáo khoa, lời giảng của thầy là đọc thuộc lòng từng trang SGK. Đối với
giáo án PowerPoint thì có trình chiếu một số ảnh chụp các kết quả tự làm của học sinh
các khóa trước, để làm mẫu và để khích lệ các em hiện tại làm đồ dùng; hoặc các video
về bước làm cụ thể để các em có kinh nghiệm, đôi khi tôi sử dụng một đoạn video có
sai sót kĩ thuật để các em phát hiện sai sót đó. Để hướng dẫn học sinh làm đồ dùng thì
trong lúc soạn giáo án tôi cũng cân nhắc chọn các đồ dùng cụ thể cần thiết để giao cho
các em tự làm, điều này giúp các em vừa có thời gian học môn học khác, vừa làm tốt
yêu cầu của môn Công nghệ; tiếp theo là việc hướng dẫn các em làm ở nhà.
Ví dụ: chuẩn bị dây dẫn điện thì xác định qua các câu hỏi: để dẫn điện từ nguồn
vào bảng điện hay từ bảng điện ra thiết bị điện? cần dây điện lõi một sợi hay lõi nhiều
sợi? Kích thước dây như thế nào? Để nối dây thì cần thêm dụng cụ gì? và thực tế, mẹo
đặt câu hỏi ở đây xuất phát từ yêu cầu của bài thực hành: mục đích làm gì? Làm như thế
nào? Có thể cải tiến gì không? Chính trong quá trình đàm thoại hoặc vấn đáp thầy –
trò thì người thầy có thêm điều kiện tích hợp một số kiến thức, kĩ năng liên môn; đặc
biệt là kiến thức của môn Vật lý, Hóa học, Sinh học, Giáo dục công dân, … và các kiến
thức về bảo vệ môi trường, tiết kiệm năng lượng.
Một điều không được thể hiện thành văn trong các giáo án nhưng lại luôn được
tôi tâm niệm trong giảng dạy đó là: học sinh là trung tâm, hiểu biết và thực hành của các
em là thành quả lao động của thầy; do vậy, dù các em làm tốt rồi hay chưa tốt thì tôi
luôn động viên, khuyến khích các em. Nhờ vậy, trong quá trình chuẩn bị ở nhà và làm ở
lớp, các em có tâm lý tự tin, thoải mái, nhiệt tình xây dựng bài. Điều này cùng với việc
giáo dục theo hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng sẽ giúp nhà trường đào tạo được
những học sinh có đủ kiến thức, kĩ năng, có tác phong lao động gương mẫu; đồng thời
cũng giúp cho các em có liên hệ với kiến thức, kĩ năng của các môn học khác khi học
môn Công nghệ.
b. Chuẩn bị tư liệu mẫu:
Khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, ngoài việc chuẩn bị soạn giáo án theo đúng

quy định chuyên môn của ngành với việc chuẩn bị đồ dùng – thiết bị - vật liệu theo yêu
cầu của từng bài thực hành - các đồ dùng này đã có sẵn như trong danh mục đồ dùng
của phân môn; tôi còn chuẩn bị tư liệu mẫu. Gọi là tư liệu mẫu đó là các tư liệu như:
hình ảnh, video, mô hình, … do giáo viên và học sinh chuẩn bị cho tiết học. Các tư liệu
này do tôi thu thập qua các năm học, tiết học để học sinh có đồ dùng trực quan trong
học tập. Có cả các ảnh chụp đồ dùng sai quy cách, kỹ thuật để các em đối chiếu, so sánh
rút kinh nghiệm cho mình.
Tư liệu mẫu cần phản ánh được mong muốn: trên cơ sở đồ dùng trực quan do
chính thầy cô và bạn bè khóa trước đã làm thì học sinh cũng sẽ có kế hoạch làm tốt yêu
cầu tự làm đồ dùng và khích lệ bản thân làm tốt hơn. Về tâm lý mà nói, việc được quan
sát thành quả của các bạn học sinh khóa trước, cùng với khích lệ của thầy cô thì học
sinh rất hào hứng tham gia chuẩn bị đồ dùng thực hành ở nhà và tích cực chủ động thực
hành tốt, đúng yêu cầu kĩ thuật ở trên lớp. Do vậy, qua mỗi năm học tôi đều chọn một
số kết quả thực hành ưng ý nhất để làm tư liệu mẫu cho các năm học tiếp theo.
Trong quá trình chuẩn bị tư liệu mẫu, tôi có một số kinh nghiệm: đối với các đồ
dùng có chi tiết giản đơn: dây dẫn, cầu chì, bóng đèn, … thì có thể phân công chuẩn bị
theo cá nhân; các đồ dùng có chi tiết phức tạp hơn: bộ bóng đèn, ghép mối các mối nối,
… thì phân công chuẩn bị theo nhóm. Các đồ dùng sau khi chuẩn bị được đặt vào các
túi đựng riêng biệt, tránh để lẫn, hư hỏng, sai số liệu, … Đối với tư liệu mẫu là hình
ảnh, đoạn video, bài giảng mẫu,… thì tôi lưu trữ trên máy tính cá nhân, hòm thư cá
nhân, USB, … để đảm bảo không bị mất dữ liệu do lỗi máy tính hoặc “virut”. Sau một
thời gian áp dụng sáng kiến, mỗi bài học tôi đều có bộ thực hành mẫu do tôi và các em
học sinh cùng làm. Đây là một khích lệ nho nhỏ cho thầy và trò trong quá trình tìm hiểu
và thực hành các bài tiếp theo.
c. Hướng dẫn học sinh làm đồ dùng thực hành.
Bản thân mỗi tiết học thực hành đều có bộ đồ dùng của nhà trường, nhưng qua
quá trình giảng dạy tôi nhận thấy số lượng, chất lượng, … các đồ dùng ngày một giảm;
cần bổ sung liên tục qua các năm học. Chính trong lúc chuẩn bị đồ dùng cho học sinh
tôi đã mạnh dạn cùng các em chuẩn bị rồi giao một số công việc chuẩn bị đồ dùng thực
hành cho các em, đây được coi là công việc chuẩn bị đương nhiên của các em trước mỗi

bài học. nhưng nếu người thầy quan tâm, hướng dẫn chu đáo các em chuẩn bị thì các em
có cơ hội tìm hiểu kĩ các đồ dùng, bước đầu có những thao tác kĩ thuật với đồ dùng đó,
… khi tham gia thực hành các em không bỡ ngỡ và bắt kịp hoạt động thực hành trên
lớp. Vì vậy, tôi coi việc hướng dẫn học sinh làm đồ dùng là một trong những biện pháp
giúp nâng cao chất lượng giờ thực hành.
Mặc dù luôn ý thức bản thân mình soạn bài, chuẩn bị tư liệu mẫu, … cho sáng
kiến kinh nghiệm của mình nhưng tôi cũng luôn ý thức mỗi tiết thực giảng trên lớp của
tôi không phải là tiết học hướng dẫn làm đồ dùng – chệch hướng nghiêm trọng mục tiêu
bài học. Tôi chỉ coi đây là một trong các phương pháp, phương tiện dạy học để khích lệ
học sinh chủ động trong học tập và có được đồ dùng thực hành đầy đủ, đảm bảo mục
tiêu bài học. Vì vậy, trong phần này tôi xác định mình lồng ghép việc hướng dẫn làm đồ
dùng trong nội dung bài giảng cần đảm bảo sự tôn trọng tính giáo khoa của bài học,
đảm bảo sự đầy đủ không bớt xén các kiến thức – kĩ năng của bài, đảm bảo sự lồng
ghép sáng kiến này là để phục vụ bài giảng được thành công.
Trong thực tế giảng dạy, ngoài việc đảm bảo trình tự của một tiết học tôi còn
đưa nội dung sáng kiến của mình vào bài giảng với các yêu cầu cụ thể và cũng là trình
tự sau:
* Đối với tiết lý thuyết hoặc thực hành tiết 1:
- Giới thiệu mục tiêu bài học, phân bố thời gian cho các tiết học.
- Giới thiệu tranh ảnh, mô hình hoặc sản phẩm kết quả của bài học; trên cơ sở đó
học sinh phát hiện ra tên các loại thiết bị, vật liệu, số lượng, yêu cầu kĩ thuật, … qua đó
các em xây dựng được bảng dự trù vật liệu.
- Giáo viên tiếp tục hướng dẫn học sinh quan sát sơ đồ nguyên lý, sơ đồ lắp đặt;
với các kiến thức mở rộng và thực tế thì giáo viên giới thiệu qua trình chiếu PowerPoint
hoặc qua tranh ảnh, mô hình hoặc sản phẩm cụ thể. Từ đó, hướng dẫn học sinh chuẩn bị
từng thiết bị - đồ dùng cụ thể như thế nào. Đây là khâu rất quan trọng, bởi học sinh nắm
chắc sơ đồ nguyên lý, sơ đồ lắp đặt, hiểu được cấu tạo, chức năng, cách dùng thì sẽ thao
tác thực hành được (phục vụ lợi ích của bài học) và chuẩn bị ở nhà các đồ dùng này
được.
Ví dụ: Khi học bài 5: Thực hành nối dây dẫn điện. Giáo viên chuẩn bị bảng phụ

là ảnh các mối nối như SGK, các mối nối thực tế do học sinh khóa trước đã làm và ảnh
các mối nối trong thực tế lắp đặt. Sau khi học sinh quan sát thì giáo viên hỏi học sinh:
+ Tên của mối nối (Học sinh tham khảo qua SGK nếu chưa biết)
+ Em thường thấy kiểu mối nối này ở đâu trong thực tế?
+ Với loại mối nối (ví dụ chỉ vào mối nối nhánh của dây một lõi) này thì em cần
chuẩn bị dây như thế nào?
+ Theo em, vì sao phải vòng dây nhánh qua dây chính rồi quay qua chính dây
nhánh của mình ngược 1 vòng?
+ Để mối nối chặt hơn thì em cần làm như thế nào?
+ Em thấy bước nào khó nhất? dễ nhất?
+ Em có sáng kiến gì cho việc nối dây này không?
Song song với việc học sinh trả lời thì giáo viên có thể chiếu video công đoạn
nối dây hoặc tự giáo viên làm. Sau đó, giáo viên mở rộng thêm với các loại mối nối
khác. Cùng với bảng dự trù vật liệu các em đã lập, yêu cầu các em phân công nhau
chuẩn bị đồ dùng cho tiết thực hành tiếp theo. Nếu các em chưa biết phân công thì giáo
viên giúp đỡ.
Ở bước này, các câu hỏi tôi thường dùng là:
+ Tên của đồ dùng – vật liệu – thiết bị, … này là gì?
+ Em gặp chúng ở đâu trong thực tế ?
+ Em cần chuẩn bị gì để hoàn thành yêu cầu này?
+ Em thấy bước nào khó nhất? dễ nhất?
+ Em có sáng kiến nào để làm tốt yêu cầu này không?
Các hoạt động tôi thường làm là:
+ Giới thiệu đồ dùng trực quan: tranh ảnh, video, mô hình, vật thật, …
+ Giới thiệu nguyên lý làm việc, nguyên tắc lắp đặt hoặc đặc điểm kĩ thuật của
các đồ dùng trực quan trên.
+ Thao tác mẫu hoặc trình chiếu thao tác mẫu.
+ Lắng nghe, tiếp nhận các ý kiến của các em để giải đáp hoặc đánh giá nhận xét
các ý tưởng của các em.
* Đối với tiết thực hành thứ 2 trở đi:

- Kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh.
- Tổ chức cho học sinh quan sát một hình ảnh hoặc 1 sản phẩm thực hành cụ
thể (quan sát tư liệu mẫu) : bảng điện trong lớp học, một mối nối cụ thể hoặc ảnh chụp
một sơ đồ lắp đặt, …
- Học sinh trình bày đồ dùng thực hành mình đã chuẩn bị dưới sự hướng dẫn
của giáo viên. Giáo viên kiểm tra đồ dùng, nếu đảm bảo yêu cầu nhất là yêu cầu an toàn
điện thì động viên, khen ngợi học sinh và đồng ý cho các nhóm thực hành với đồ dùng
này. Ngược lại, nếu kiểm tra thấy chưa đảm bảo các yêu cầu thì phân tích cho học sinh
các lỗi đấy; động viên các em đã có tinh thần chuẩn bị đồ dùng và yêu cầu các em tham
gia thực hành với các nhóm khác hoặc sử dụng đồ dùng của phòng thiết bị đồ dùng. Để
giảm thiểu các lỗi sai sót thì ngay từ tiết học trước, giáo viên lưu ý cho học sinh một số
thao tác có thể nhầm lẫn trong khi chuẩn bị.
- Học sinh thực hành theo nhóm đã phân công. Giáo viên theo dõi sát sao từng
nhóm. Bước đầu chú ý việc chọn thiết bị điện phù hợp, quy trình nối dây, an toàn điện
rồi mới đến vấn đề kỹ thuật, mỹ thuật.
- Cho các nhóm chấm chéo kết quả của nhau, nêu các ưu điểm – nhược điểm
của từng kết quả thực hành sau đó giáo viên chấm kết quả các nhóm, rút kinh nghiệm
chung và đưa ra yêu cầu tiếp theo.
Để tiết thực hành được thành công, giáo viên cần chia nhóm hợp lý: cân đối nam
nữ, trình độ hiểu biết, … hoặc phân công phần việc phù hợp: vẽ sơ đồ, tách vỏ dây, nối
dây, đánh dấu, khoan – vít, đi dây, … Tuy nhiên, cũng cần tôn trọng tính tự quyết của
học sinh khi mong muốn ghép nhóm để phát huy hết sở trường của các em.
Đối với thiết bị, dụng cụ thực hành thì giáo viên cần chú ý: thiết bị, dụng cụ của
giáo viên cần đạt chuẩn và có tính gương mẫu trong chuẩn bị. Đối với thiết bị, dụng cụ
của học sinh thì yêu cầu đơn giản hơn nhưng vẫn phải đảm bảo tính khoa học, an toàn,
đúng mục đích sử dụng; trong trường hợp các thiết bị phức tạp có thể chia nhỏ yêu cầu
chuẩn bị cho các em, ví dụ: chuẩn bị cho lắp đặt bảng điện thì chia nhỏ công việc:
chuẩn bị khoan và các đinh vít – chuẩn bị công tắc và đi dây công tắc – chuẩn bị cầu chì
và đi dây cầu chì, …
Đối với các thao tác thực hành khó: khoan lỗ, lắp đặt thiết bị điện tử trong máng

điện, … thì giáo viên cần làm mẫu và hướng dẫn tỉ mỉ. Có thể yêu cầu 1 – 2 học sinh
thực hành thử rồi mới yêu cầu các nhóm làm đại trà.
Đặt ra các tình huống có thể xảy ra để học sinh có thêm kĩ năng giải quyết trong
thực tế: đèn không sáng, thiết bị không hoạt động, đèn sáng yếu, mối nối bị rò điện, …
để học sinh suy tư, tìm hiểu trong thực tế, tham khảo kiến thức ở người thân. Nhờ quá
trình học trên lớp, học ngoài nhà trường như vậy, khả năng thực hành và xử lí tình
huống của các em sẽ được nâng cao dần.
Động viên học sinh mạnh dạn thực hành tại gia đình nhưng phải nhắc nhở các
em cần làm dưới sự quản lý giám sát của bố mẹ hoặc người có kiến thức nghề điện.
d. Áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy.
Trong các năm học gần đây, ngành Giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng, từ
hệ thống SGK, chuẩn kiến thức – kỹ năng, … đến đổi mới phương pháp dạy học. Đây
thực sự là một cơ hội tốt cho các thầy cô giáo được tìm hiểu, tiếp cận, áp dụng các
phương pháp dạy học tiên tiến, hiệu quả vào giảng dạy. Tuy nhiên, với đặc trưng riêng
của mỗi bộ môn và căn cứ vào tình hình điều kiện cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục mà
người thầy chọn lọc và áp dụng các phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với học
sinh của mình và góp phần nâng cao chất lượng môn học. Với sự hướng dẫn, chỉ đạo
chuyên môn của tổ chuyên môn, nhà trường và các cấp, qua thực tế giảng dạy tôi thấy
mình tâm đắc và áp dụng một số phương pháp dạy học tích cực sau:
Phương pháp vấn đáp: đây là phương pháp được sử dụng khá nhiều trong các
công việc: đặt vấn đề để vào bài, kiểm tra nhận thức – kĩ năng của HS/ nhóm HS, ghi
nhận các thông tin phản hồi từ phía các em học sinh. Trong quá trình giảng dạy, tôi
thường sử dụng vấn đáp giải thích – minh họa nhằm làm sáng tỏ nội dung của yêu cầu
thực hành, cách vấn đáp này sử dụng cùng với đồ dùng trực quan rất có ích cho việc
nghe – nhìn – hiểu – làm của các em.
Ví dụ: khi dạy bài 5 Thực hành: Nối dây dẫn điện, tôi áp dụng phương pháp vấn
đáp trong việc đặt vấn đề vào bài:
GV: Mạng điện trong mỗi gia đình chỉ có 1 đường nhánh duy nhất từ bảng điện
đến thiết bị điện hay không?
HS: không, trên đường đi của dây nguồn, có thể phân nhiều nhánh.

GV: Có thể ghép một số thiết bị điện vào chung một đường dây không? Cách
mắc thế nào?
HS: có thể mắc nhiều thiết bị vào chung một đường dây, bằng cách mắc song
song.
GV: Khi mắc như vậy, thì sẽ có nhiều đoạn mạch ta phải thực hiện các mối nối:
nối thẳng, nối phân nhánh, … trong thực tế việc nối dây dẫn điện là việc làm thường
gặp nên chúng ta sẽ tìm hiểu và thực hành nối dây dẫn điện.
Khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong bộ môn thì tôi ghi nhớ một
nhận xét rất quý:
“Nói cho tôi nghe – tôi sẽ quên
Chỉ cho tôi thấy – tôi sẽ nhớ
Cho tôi tham gia – tôi sẽ hiểu”
bởi vì: “Ta nghe – ta sẽ quên.
Ta nhìn – ta sẽ nhớ.
Ta làm – Ta sẽ học được”
Vì vậy, việc vấn đáp phải được sử dụng để gợi nhớ kiến thức cũ hoặc liên hệ
kiến thức liên môn để gợi ý kiến thức mới, tránh hiện tượng vấn đáp các vấn đề
chung chung hoặc không có liên quan đến mục tiêu của bài học hiện tại.
Phương pháp dạy học nhóm: Đối với mỗi lớp 9, khi vào năm học tôi hướng dẫn
chia nhóm các em học sinh, bước đầu là tự các em ghép nhóm, mỗi nhóm từ 4 – 6 HS,
qua một số bài thực hành GV sẽ chia lại thành các nhóm có sự cân đối về số lượng, lực
học, giới tính, … Để thúc đẩy việc các nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập,
GV yêu cầu trong mỗi nhóm có cử nhóm trưởng, phân công nhiệm vụ từng bạn trong
nhóm một phần việc cụ thể, có ghi chép công việc của các thành viên trong bảng báo
cáo thực hành, khi trình bày kết quả thực hành GV có thể chỉ định bất kể thành viên nào
trong nhóm trình bày, không cứ chỉ mỗi trưởng nhóm trình bày báo cáo. Qua các năm
học tôi nhận thấy: ban đầu các em kết nhóm theo những sở thích, hứng thú của các em;
điều này có lợi thế là các em gần nhau hơn và dễ phân công trợ giúp nhau thực hành,
nhưng hạn chế của cách lập nhóm này là có thể xảy ra sự phân biệt giới tính, làng xóm,
mức độ học tập, … nên sau một số buổi ghép nhóm ban đầu, GV sẽ hướng dẫn lập

nhóm theo hướng: có HS khá để hỗ trợ HS yếu, có HS nam trợ giúp HS nữ, …
e. Tích hợp kiến thức liên môn và một số chủ đề khác vào môn Công nghệ.
Không có gì tuyệt vời bằng việc từ bài học lí thuyết đến bài học thực hành trong
phòng thí nghiệm lại được minh họa hoặc triển khai ở một số môn học khác hoặc trong
thực tế. Đối với mô đun Lắp đặt mạch điện trong gia đình thì điều này dễ dàng nhận
thấy và học sinh khi nhìn nhận được điều này đều thấy sự ích lợi của bộ môn và hào
hứng trong việc học và áp dụng vào đời sống.
Trong quá trình giảng dạy Công nghệ 9 tôi nhận thấy có một số kiến thức liên
môn có thể áp dụng vào trong việc khơi gợi kiến thức cho HS, kiểm chứng các kiến
thức đó bằng hành động thực hành, thực tế. Ví dụ cụ thể:
Trong bài 5: Thực hành nối dây dẫn điện, tôi có liên hệ với kiến thức của một số
môn học khác để bổ sung cho mục tiêu dạy học của bài một số điểm sau:
* Kiến thức:
- Biết được các yêu cầu của mối nối dây dẫn điện.
- Ôn lại kiến thức về sự ô xi hóa kim loại (Kiến thức bài 25 – Hóa học 8).
- Ôn lại kiến thức: tác dụng của dòng điện (Kiến thức bài 22, 23 – Vật lý 7)
* Kỹ năng:

×