Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.71 KB, 25 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“RÈN KỸ NĂNG NÓI TRONG GIỜ TẬP LÀM VĂN LỚP 5”
A: PHẦN MỞ ĐẦU
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết mục tiêu của Giaó dục Tiểu học đó là nhằm giúp học sinh
hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt
Nam xã hội chũ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho
học sinh tiếp tục học trung học cơ sở ( theo Điều 23 Luật Giaó dục 2009)
Để đạt được mục tiêu trên trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng việt chiếm vị
trí rất quan trọng. Tiếng việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các bộ môn. Đặc
biệt môn Tiếng việt lớp 5 và cụ thể là môn tập làm văn nói. Thực tế dạy học hiện nay cho
thấy kỷ năng nói của HS đang ngày bị xem nhẹ và hình thức kiểm tra chủ yếu hiện nay là
kiểm tra viết và giáo viên chỉ tập trung vào các kỹ năng: đọc, viết, tính toán trong nhà
trường là việc có thật. Việc rèn luyên kỹ năng nói cho HS trong phân môn Tập làm văn
lớp 5 hiện nay chưa làm nổi bật các đặc thù là rèn kỹ năng nói cho học sinh mà chủ yếu
mới chỉ tập trung vào lập dàn bài để phục vụ cho giờ văn viết. Do đó, việc rèn luyện kỹ
năng nói lưu loát trong cách diễn đạt cho học sinh là việc làm cần thiết của người giáo
viên ở trên lớp, đây là cả một quá trình đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực, cố gắng, tìm hiểu và
quan tâm đến từng đối tượng học sinh ở trong lớp để có thể có biện pháp giúp đỡ các em
có điều kiện luyện tập tùy theo cách nhìn nhận vấn đề của từng học sinh. Do đó việc cải
tiến, đổi mới về phương pháp luyện nói cho học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5
nói riêng là vấn đề cần quan tâm, bởi vì khả năng diễn đạt vấn đề của học sinh hiện nay
hầu hết còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục.
Bởi vậy làm thế nào để dạy tốt vấn đề hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học.
Từ thực trạng việc diễn đạt vấn đề của học sinh lớp 5, trường tiểu học Xuyên Mộc
hiện nay. Là một giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, tôi thiết nghĩ cần phải cải tiến và đổi
mới về thực trạng hiện nay để nâng cao khả năng diễn đạt, khả năng
giao tiếp và nhận biết vấn đề của học sinh.Vì vậy tôi mạnh dạn nghiên cứu sáng


kiến. “Rèn kỹ năng nói trong giờ Tập làm văn.”
1. Cơ sở lý luận
Bước vào thế kỷ 21 giáo dục Việt Nam đã trải qua hơn 20 năm đổi mới và thu
được những thành quả quan trọng về mở rộng quy mô, đa dạng hóa các hình thức giáo
dục và nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường. Chất lượng giáo dục có những chuyển
biến rõ rệt.
Đất nước ta ngày càng phát triển, đổi mới, việc đào tạo một lớp người mới biết sử
dụng thành thạo điêu luyện ngôn ngữ diễn đạt một cách mới mẻ sáng tạo tư duy là vô
cùng cần thiết. Cũng bởi Tiếng việt là ngôn ngữ, là phương tiện giao tiếp quan trong nhất
của xã hội hiện nay. Do vậy Tiếng việt được đưa vào dạy học trong tất cả các cấp học với
lượng kiến thức và thời gian nhiều. Môn Tiếng việt là một trong những môn học trong
trường tiểu học phải được thực hiện theo nguyên tắc dạy và học. Nguyên tắc dạy học
Tiếng việt cho học sinh tiểu học cần dựa trên cơ sở những quy luật và nguyên tắc để đề ra
những phương pháp dạy học cũng như cách tổ chức quá trình dạy học cụ thể hơn, khoa
học hơn.Khắc phục lối truyền thụ một chiều,rèn luyện lề nết tư duy sáng tạo của người
học,từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học. Do vậy rèn
luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh của mỗi giáo viên tiểu học cần phải được
chú trọng và quan tâm.
2.Cơ sở thực tiễn
Trong tất cả các môn thì Tiếng việt là môt trong những môn học có vị trí đặc
biệt,nó chiếm thời lượng tiết học nhiều hơn cả (8/23 tiết/tuần). Sau khi học xong chương
trình Tiếng Việt tiểu học các em phải thực hiện tốt 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết mà
chương trình yêu cầu. Đặc biệt là kỹ năng nói thông qua việc diễn đạt các vấn đề một
cách rõ ràng, mạch lạc, trọng tâm làm cho người nghe có hứng thú và tiếp cận lời nói
môt cách tự nhiên và hiệu quả.
Các yêu cầu của môn Tiếng Việt lớp 5 đối với học sinh vùng thành phố thị xã thì
việc thực hiện dễ dàng. Song đối với học sinh lớp 5 trường tiểu học Xuyên Mộc cần phải
thực hiện thường xuyên, nhiệt tình để nâng cao chất lượng học tập tốt hơn.
Ở đơn vị trường Tiểu học Xuyên Mộc, tỷ lệ học sinh đạt chất lượng cao ở môn
Tiếng Việt nói chung và khả năng trình bày bằng lời nói của học sinh nhìn chung còn

chưa đồng đều ở các khối, lớp.
Trước yêu cầu thực tế của đơn vị là “ Nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo” là
giáo viên đang trực tiếp giảng dạy ở lớp 5A1 trường tiểu học Xuyên Mộc.
Xuất phát từ những luận điểm trên và qua thực tế giảng dạy tôi đã tìm hiểu, nghiên
cứu và đổi mới phương pháp để nâng cao chất lượng, rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh
thông qua môn Tiếng Việt và phân môn Tập làm văn theo tiêu chuẩn của Bộ Giáo Dục
Và Đào Tạo, đồng thời tạo ra những phương pháp đổi mới,những biện pháp cần thiết là
động lực thúc đẩy cho giáo dục của nhà trường góp phần hoàn thiện các kỹ năng để học
sinh có thể tiếp cận với các kiến thức mới dễ dàng và có hiệu quả.
II / MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục là coi giáo dục đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là nền tảng, là động lực của sự nghiệp Công nghệ hóa – hiện đại hóa Đất nước,phát
huy yếu tố con người phát triển toàn diện là yếu tố cơ bản cho sự phát triển lâu dài và bền
vững trong mọi lĩnh vực. Trọng tâm là việc chú trọng đến con người được đào tạo là con
người có đầy đủ năng lực,trí tuệ, có đạo đức thích nghi được với những thay đổi, có kỹ
năng hành động, biết “ Học thường xuyên,bhọc suốt đời” và có ý tưởng “học để biết, học
để làm, học để cùng sống với nhau và học để làm người ”. Để đáp ứng như cầu của xã
hội là đào tạo ra những con người phát triển toàn diện thì việc dạy học ở trường Tiểu học
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì bậc tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống
giáo dục Quốc dân, do đó đòi hỏi phải dạy đúng, dạy đủ các môn học theo quy định nhằm
giúp các em có thêm kiến thức sâu rộng để có thể tiếp cận được với nền khoa học tiên
tiến hiện nay là “Nâng cao dân tri, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài ”.
Các môn học ở tiểu học cần có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí rất đăc biệt quan trọng, nó chiếm thời lượng
nhiều hơn cả so với các môn học khác. Phương tiện chủ yếu của môn Tiếng Việt là ngôn
ngữ, là công cụ không thể thiếu để giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày và là phương tiện
để học sinh có thể tiếp cận và học tốt được các môn học khác. Ngôn ngữ phát triển thì tư
duy cũng phát triển.
Môn Tiếng Việt còn giúp cho các em cảm nhận, khám phá ra những nét đẹp tâm
hồn, sự hiểu biết về thế giới xung quanh. Môn Tiếng Việt là cơ sở, là chỗ dựa cho học tốt

các môn học khác.Vì muốn học môn nào cũng cần sử dụng kỹ năng nói, đọc, viết mà
môn Tiếng Việt là môn bước đầu hình thành kỹ năng này. Trong Tiếng Việt thì phân
môn: Tập làm văn lai là môn tổng hợp các kỹ năng và kiến thức của các phân môn:
Luyện từ và câu, Chính tả, kể chuyện. Vì thế, Bậc Tiểu học cần rèn luyện cho các em có
kỹ năng học tốt phân môn Tập làm văn để giúp các em nắm bắt được cái hay, cái đẹp,
biết cảm thụ văn học và có tình yêu quê hương, đất nước và con người.
Như ta đã biết dạy Tập làm văn là nhằm phát triển và hoàn thiện năng lực văn học
cho học sinh trên bốn kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi, trong đó kỹ năng nói có vai trò quan trọng trong đời sống
học sinh, nó giúp các em hình thành các kỹ năng học tập khác. Vì thế mục đích cao nhất
của bài Tập làm văn là rèn kỹ năng nói cho học sinh giúp các em sử dụng Tiếng Việt một
cách có hiệu quả trong hoc tập và giao tiếp trong gia đình, nhà trường và xã hội, tôi cũng
mong muốn sẽ có môt bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn dạy môn tập
làm văn nói cho học sinh trong trường. Đối với học sinh lớp 5, các em đã có một số vốn
kỹ năng nhất định,đã biết môi quan hệ giữa người với người trong những mối quan hê
khác nhau, để có thể sáng tạo bằng ngôn từ một cái gì đó của mình và thể hiện những
khía cạnh của đời sống. Ngôn ngữ nói là ngôn ngữ gợi đươc cảm xúc trực tiếp, người nói,
người nghe có thể nắm bắt được những nội dung cần trao đổi và để đạt được mục đích
của giao tiếp.
Qua ngôn ngữ nói ta dễ nhận thấy trí tuệ, tâm hồn của người nói bởi lời nói luôn
mang phong cách riêng của mỗi người. Trong lời nói cần thể hiện tư duy, nếu tư duy tốt
lời nói sẽ dễ dàng, gọn gàng, hấp dẫn được người nghe, ngược lại nếu nói ấp úng, không
rõ ràng sẽ không thuyết phục được người nghe và đôi khi còn hiểu sai ý mình muốn nói.
Vì thế mục đích của giao tiếp sẽ khó được thực hiện hoàn chỉnh. Để có những lời nói đẹp
mỗi người cần phải rèn luyện trong một quá trình lâu dài. Những giờ Tập làm văn chính
là giờ học hình thành cho học sinh những kỹ năng nói đầu tiên, ở lứa tuổi này các em đã
có một sự thay đổi đáng kể đặc điểm tâm sinh lý. Các em đã tự thay đổi trong quá trình
nhận thức, việc sử dụng các công cụ trực quan đã giảm bớt so với ở các lớp học trước và
thay vào đó là học sinh có thể dùng lời để chứng minh một vấn đề. Vì vậy, lời nói cho
phép diễn đạt dể dàng hơn rất nhiều về những vấn đề phức tạp hơn những tính chất bên

trong những sự vận động lo-gic. Ở lớp 5 hoạt động yêu thích của trẻ em là sáng tạo văn
học, nếu được học văn theo một chương trình đúng và có một phương pháp truyền thụ
tốt thì trẻ em ở tuổi này rất thích học văn, dễ nói hết ra những điều mình suy nghĩ, đó là
diều kiện thuận lợi nhất cho giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng nói cho từng học sinh,
nhận ra những chỗ khiếm khuyết của từng học sinh để uốn nắn kịp thời. Theo quan điểm
dạy học hiện nay, cần phải rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt mỗi vấn đề cụ thể một cách
rõ ràng, mạch lạc. Vì vậy giờ Tập làm văn còn rèn cho học sinh kỹ năng nói, dạy các em
biết tổng hợp kiến thức từ các phân môn như: Luyện từ và câu, Tập đọc và các kinh
nghiệm cuộc sống mà học sinh có được. Cùng một vấn đề nhưng không phải học sinh nào
cũng nói như nhau, do đó giáo viên phải luôn quan tâm tới đặc điểm riêng của từng học
sinh để rèn luyện kỹ năng nói cho phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
III /GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
Nhằm đi sâu vào một vấn đề nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên
cứu việc dạy học kiểu bài luyện nói cho học sinh lớp 5 với phạm vi nghiên cứu hẹp
như vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả, góp phần thực hiện nhiệm vụ giáo
dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới.
V/ CÁC GIẢ THIẾT NGHIÊN CỨU
- Để thực hiện giải pháp trong việc nâng cao kỹ năng trình bày bằng lời nói trong
giờ Tập làm văn ở lớp 5, bản thân tôi có dự kiến ban đầu về công viêc cần làm như sau:
- Thực hiện kết hợp gia đình với nhà trường, tuyên truyền vận động để tất cả các
phụ huynh đều thấu hiểu về tầm quan trọng của môn Tiếng Việt lớp 5.
- Giáo viên nghiên cứu tài liệu, đổi mới nội dung phương pháp dạy học để rèn
luyện kỹ năng lời nói trong phân môn Tập làm văn lớp 5.
- Thường xuyên kiểm tra chất lượng học sinh, dự kiến giúp đỡ đến từng học sinh để
các em trong lớp đều có thể có kỹ năng giao tiếp thông qua việc rèn luyện kỹ năng nói.
- Thực hiện tốt việc luyện đọc đối với học sinh thông qua các giờ Tập làm văn,
thông qua các văn bản đã học giúp học sinh có khả năng trình bày văn bản bằng lời
nói.
- Tìm hiểu cụ thể thực trạng ban đầu về chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh
trong trường đặc biệt là chất lượng môn Tiếng Việt của học sinh lớp 5.

V/ KẾ HOẠCH THỰC HIỆN
Tôi thực hiện kế hoạch từ năm học 2010-2011
B: PHẦN NỘI DUNG
I/ THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG MÂU THUẪN
Nhìn chung chất lượng các môn học đối với lớp do tôi chủ nhiệm khá đồng đều,
nhưng riêng môn Tập làm văn của các em kết quả còn hạn chế, đó là khả năng trình bày
bằng lời nói còn nhiều hạn chế, ngữ điệu trong khi trình bày chưa thể hiện được theo nội
dung của văn bản. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, nhà trường còn gặp không ít khó
khăn ảnh hưởng đến chất lượng chung. Do đây là vùng kinh tế mới,một số học sinh ở xa
khu địa bàn trung tâm, cuộc sống còn gặp
nhiều khó khăn,gia đình chưa thực sư quan tâm đến các em nên phần nào ảnh
hưởng đến kết quả học tập. Thực tế trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi đã khảo
sát trực tiếp lớp 5A1 trong năm học 2010 – 2011 và năm học khi trình bày bằng lời
nói thông qua bài văn tả cảnh, kết quả thu được như sau:


TSHS
HS tham
gia khảo sát
KẾT QUẢ
Trình bày lưu
loát
Trình bày chưa
lưu loát
Trình bày còn
lúng túng
TS % TS % TS %
28 28 3 10,7 11 39,3 14 50,0
Việc học sinh còn lúng túng trong khi diễn đạt văn bản bằng lời nói làm cho việc
tiếp cận các kiến thức khoa học kỹ thuật càng trở nên khó khăn hơn, làm cho các em mất

lòng tin khi bước vào cuộc sống sau này. Nhìn bảng thống kê kết quả khảo sát việc diễn
đạt bằng lời nói của học sinh ở trên, chúng ta có thể thấy việc đọc hiểu và trình bày lưu
loát văn bản bằng lời nói làm cho người nghe có hứng thú khi nghe của học sinh còn rất
nhiều hạn chế. Tỷ lệ học sinh còn lúng túng khi trình bày bài tập còn khá cao. Mà những
học sinh này do vốn Tiếng Việt còn hạn chế, cho nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng
học tập của các môn học khác.
Nhận thức được rõ điều đó và trước thực trạng học môn luyện nói của học
sinh thông qua phân môn Tập làm văn chương trình tiểu học mới của học sinh lớp 5 tôi
đã tìm ra các biên pháp để nâng cao chất lượng trình bày bằng lời nói môn Tiếng Việt lớp
5.
II/ CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Qua những năm tháng học tập, nghiên cứu phương pháp dạy học môn Tiếng Việt,
bản thân tôi đã áp dụng những phương pháp để nâng cao chất lượng kỹ năng nói môn
Tiếng Việt lớp 5 như sau:
II.1. Nghiên cứu tài liệu:
Để nắm vững nội dung và phương pháp dạy học môn Tiếng Việt tiểu học,tôi đã tiến
hành nghiên cứu các tài liệu, chuẩn kiến thức và kỹ năng các môn học ở Tiểu học ; tài
liệu dạy văn cho học sinh tiểu học – nhà xuất bản Giáo dục năm 1999 của tác giả Hoàng
Hòa Bình. Dạy tập làm văn ở tiểu học. NXB: Giáo dục năm 2003 của tác giả Nguyễn Trí.
Tập làm văn lớp 5 Biên soạn theo chương trình mới của NXB Tổng hợp TPHCM. Tài
liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5 NXB-GD năm 2006. Giáo dục kĩ năng
sống trong các môn học ở Tiểu học. NXB: giáo dục năm 2010- Tác giả Hoàng Hòa Bình,
Lê Minh Châu,…. Vì vậy chương trình phân môn Tập làm văn lớp 5 cũng nằm trong sự
đổi mới đó là: Chương trình kế thừa ưu điểm của nội dung chương trình môn Tiếng Việt
theo chương trình sách giáo khoa cũ, đồng thời phát triển những thành tựu có được của
chương trình, khắc phục được tồn tại và bất cập của chương trình Tiếng Việt cải cách
giáo dục. Bổ sung một số nội dung cần thiết phù hợp với thực tế cuộc sống và hội nhập
cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Từ mục tiêu, nội dung chương trình trên đòi hỏi giáo viên phải cải cách đổi mới
phương pháp dạy học.

II.2. Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với Gia đình:
Hằng năm nhà trường có tổ chức họp phụ huynh đầu năm nhân dịp này giáo viên
trao đổi về tình hình hoc tập cũng như một số vấn đề có liên quan trong việc giáo dục học
sinh. Ngoài ra, giáo viên cũng thống nhất với hội CMHS phối hợp chặt chẽ trong công
tác giáo dục để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh. Đặc biệt là đặt
vấn đề về việc nâng cao kỹ năng nói, kỹ năng trình bày của học sinh thông qua cuộc sống
giao tiếp hàng ngày ở gia đình, nhắc nhở học sinh chuẩn bị bài ở nhà như lập dàn ý, dựa
vào dàn ý học sinh tập nói để gia đình nghe nhận xét bổ sung đồng thời tạo tính tự tin,
mạnh dạn để ngày mai nói trước lớp và để kịp thời uốn nắn khi học sinh chưa hoàn thành
được mục tiêu của bài học.
II.3. Thiết kế Giaó án:
Để nâng cao kỹ năng nói cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 5, và
giờ học đạt hiêu quả cao đòi hỏi người giáo viên phải biết thiết kế giáo án trước khi lên
lớp - đây là khâu quyết định 50% thành công của tiết dạy vì vậy trước khi lên lớp giáo
viên cần đầu tư để soạn giáo án thực sự có chất lượng, thể hiện rỏ nội dung và phương
pháp. Việc chuẩn bị bài học càng chu đáo bao nhiêu thì chất lượng dạy học sẽ càng đạt
hiệu quả bấy nhiêu. Do vậy việc thiết kế kế hoạch bài học chi tiết, cụ thể sẽ giúp cho học
sinh có điều kiện để tiếp thu kiến thức một cách chủ động hơn.
Soạn bài thực chất là lập kế hoạch để tổ chức hướng dẫn học sinh hoạt động học tập
cụ thể phân môn Tập làm văn .
* Ví dụ: Mẫu thiết kế giáo án của một tiết TLV nói đươc thể hiện qua các nội dung
chính sau:
A – Mục tiêu:
- Kiến thức( tùy bài)
- Kỹ năng:
- Rèn kĩ năng nói cho học sinh thông qua yêu cầu đề ra ở môn Tập làm văn nói với
từng thề loại, từng đề bài cụ thể ( từ mức độ thấp đến mức độ cao hơn)
- Rèn tư duy ngôn ngữ và phát triển vốn từ ngữ phong phú, sáng tạo cho học sinh
trong quá trình tập nói.
- Thái độ:( tùy bài)

B – Đồ dùng dạy học:
- Thầy: tranh, ảnh( tùy bài)
- Trò: dàn ý; ảnh( tùy bài)
C- Các hoạt động dạy học:
I- Kiểm tra bài cũ
II – Dạy học bài mới
1/ Giới thiệu bài
2/ Dạy bài mới
+ Hướng dẫn học sinh lập dàn bài
+ Hướng dẫn học sinh tập nói
+ Nhận xét, rút kinh nghiệm
3/ Củng cố dặn dò
Một giờ Tập làm văn thường được tiến hành theo các bước sau:
1. GV chọn đề và chép bài, hướng dẫn HS xác định yêu cầu của bài và kết hợp
củng cố lý thuyết bài văn theo thể loại.
2. Hướng dẫn học sinh lập dàn bài hoặc hoàn thiện dàn bài đã chuẩn bị trước của
học sinh có thể hướng dẫn cụ thể về cách tìm ý, triển khai phần trọng tâm, học sinh xem
lại dàn bài đã lập của mình để bổ sung chuẩn bị bài nói.
3.Hướng dẫn học sinh tập nói
4. Nhận xét,rút kinh nghiệm.
Trong 4 bước trên, cần xác định rõ nhiệm vụ chính của tiết học tập trung ở bước 3:
hướng dẫn học sinh tập nói.
II.4/ Chuẩn bị đồ dùng (thiết bị dạy học
Trong các giờ dạy học ở trên lớp giáo viên đều phải sử dụng thiết bị đồ dùng dạy
học. Sử dụng thiết bị dạy học chính là tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên đa dạng hóa
các hình thức tổ chức dạy học và hoạt động theo hướng tích cực hóa, cá thể hóa người
học trong hoạt động học tập, rèn luyện. Vì vậy trước các tiết học, giáo viên phải dặn học
sinh chuẩn bị trước ở nhà như:
Ví dụ:Với bài: “Luyện tập tả cảnh”, “tà người”… dặn HS quan sát ở nhà ngoài
quan sát GV và HS chuẩn bị những tranh, ảnh: cảnh công viên, cảnh đường phố, cảnh

cánh đồng, nương rẫy. Tranh, ảnh người thân, em bé, chú công an… Vì quan sát chính
xác về đối tượng là tìm được nhũng chi tiết tiêu biểu để không lẫn nó với đối tượng khác.
Ví vụ: Tả một em bé ở tuổi tập nói tập đi thì phải quan sát như thế nào để không
nhầm lẫn ở độ tuổi này với độ tuổi khác( vì những chi tiết kiểu: “lúc bé cười nở ra hai cái
răng sún” ( khi mà bé mới nảy ra răng sữa), “bé chạy sà vào lòng mẹ ”( khi mà bé còn
đang chập chững từng bước tập đi ), đồng thời để em bé được tả đúng là một em bé cụ
thể chứ không phải một em bé chung chung, ước lệ.
Vì vậy trước các tiết học, giáo viên dặn các em quan sát trước ở nhà sưu các
hình ảnh và giáo viên chuẩn đồ dùng và sử dụng triệt để các đồ dùng dạy học.
II.5/ Xây dựng nội dung nói.
Phải hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung nói, vì vậy khi ra đề, giáo viên phải
móc nối mục đích của đề bài và đề bài phải hấp dẫn đối với các em, phải rộng rải mở ra
nhiều khả năng cho học sinh lựa chọn, có như vậy mới hấp dẫn được các em, giúp các em
hứng thú trong học tập.
Phân tích để xác định trọng tâm vấn đề cần quan sát và tiếp thu, hướng dẫn học
sinh quan sát bằng nhiều giác quan đễ tái hiện chân thực sự vật. Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt
đễ tìm được những nét riêng, nét tiêu biểu của sự vật và xác định rõ vị trí khởi điểm và
trình tự quan sát, xác định rõ trọng tâm mà đề bài yêu cầu để vạch ra hướng quan sát cho
học sinh. Khi đã có đầy đủ những chi tiết, những điều cần nói về đề tài giúp cho các em
lập dàn ý, sắp xếp các ý quan sát được cho hợp lo-gíc. Trong tiết tập làm văn này giáo
viên cần rèn luyện cho học sinh tập nói theo các ý đã sắp xếp và học sinh không thể nói
nếu không chuẩn bị kĩ nội dung nói, do đó việc giúp học sinh xây dựng nội dung nói là
điều kiện đầu tiên đễ giờ tập làm văn thành công.
II.6/ Những điều cần chú ý trong lúc học sinh trình bày( nói)
Như chúng ta đã biết trong 4 bước của một tiết tập làm văn thì nhiệm vụ chính của
tiết học tập trung ở bước 3: hướng dẫn học sinh tập nói. Để thực hiên tốt bước này, GV
cần nắm vững những yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong từng tiết
học với từng kiểu bài, từng đối tượng cụ thể. Nhìn chung, có thể tiến hành theo phương
pháp sau cần:
* Giaó viên cần chuẩn bị cho mình lời mở đầu sao cho có thể thu hút người nghe

hoặc gây tác động kích thích không khí lớp học sôi nổi. Tôi thường gọi những em bạo
dạn, có khả năng nói tốt để mở đầu, tránh gọi những em nhút nhát, khả năng nói còn yếu
nói trước.
* Tạo nhu cầu, không khí tốt cho học sinh nói: Biết tạo nhu cầu nói cho học sinh để
học sinh có nhu cầu nói thì đề tài phải có vốn sống, vốn hiểu biết của các em đánh thức ở
các em những gì các em đang có. Trước mỗi giờ học giáo viên phải tạo bầu không khí
hào hứng, cách nêu vấn đề phải hấp dẫn để lôi cuốn học sinh vào học tập.
Biết tạo hoàn cảnh nói tốt, ngoài việc tránh sự tác động ở bên ngoài, giáo viên còn
phải biét thiết lập một quy tắc tế nhị trong hội thoại. Khi học nói ngoài việc nghe, giáo
viên cũng cần chú ý đến hoạt động chung của cả lớp, chú ý đến tất cảnhững lời động
viên, những ánh mắt nhìn bạn bè với người nói. Đặc biệt giáo viên phải vui vẻ, tuyệt đối
không có những lời nói, những cử chỉ gay gắt với học sinh kể cả khi không vừa ý.
* Tạo tính tự tin: Để HS tự tin khi nói giáo viên phải tạo được bầu không khí học
tập thân mật cởi mở, giáo viên cần khéo léo khuyến khích,động viên cho các em bộc lộ
và phát huy khả năng, biết gợi ý đúng lúc khi các em lúng túng, không ngắt lời của học
sinh để nhận xét làm cho các em hoang mang thiếu tự tin và hứng thú để nói tiếp.
* Trong khi học sinh nói giáo viên tổ chức cho các học sinh khác lắng nghe và hạn
chế các yếu tố gây nhiễu trong quá trình học sinh nói. Đồng thời giáo viên cần phải chú ý
lắng nghe học sinh nói, biết tiếp sức cho học sinh đúng lúc, các em gặp khó khăn trong
việc chọn từ để diễn đạt, phải giúp đở kịp thời nếu học sinh nói lan man, ý rời rạc không
thể hiện rõ nội dung, giáo viên có thể khéo léo ngắt lời học sinh đễ các em điều chỉnh
bằng cách tự đặt câu hỏi.Sử dụng câu hỏi gợi mở để dẫn dắt HS tìm ý hoặc gợi tìm từ ngữ
diễn đạt mỗi khi lúng túng. Giáo viên cần kiên trì hướng dẫn HS tập nói theo dàn bài một
cách tự nhiên, không gò ép. Khuyến khích HS nói nhiều cách khác nhau, khai thác sắp
xếp ý theo cách riêng của mình miễn là bám sát theo yêu cầu chung:
+ Hướng dẫn HS tập nói từng ý, nói 2 đến 3 ý liên tục, nói một đoạn,một phần bài
và tiến tới nói toàn bài (nhất là học sinh khá giỏi), mỗi ý giáo viên thường cho 2-3 em
học sinh tập nói. Đây là nhiệm vụ chính của tiết học. Tùy theo trình độ của học sinh mà
giáo viên có thể yêu cầu các em nói từng ý, từng đoạn hay cả bài, yêu cầu học sinh khác
lắng nghe và nhận xét kết quả trình bày của bạn về ý xem bạn đã đúng, đủ và cụ thể hay

chưa về lời, về cách dùng từ đặt câu, diễn đạt có chính xác hay không, sau đó giáo viên
tóm tắt những ý học sinh đã nói, chỉ rõ ưu, khuyết điểm và đặt biệt nếu học sinh trình bày
tốt hoặc có nhiều cố gắng, giáo viên biểu dương và cho điểm, dẫn dắt hoặc gợi ý tìm từ
ngữ diễn tả mỗi khi học sinh lúng túng. Hướng dẫn học sinh tập nói theo dàn bài giúp học
sinh trình bày bài nói một cách tự nhiên, thoải mái. Yêu cầu học sinh còn lại nghe bạn
trình bày đễ nhận xét, rút kinh ngiệm cho bản thân.GV giúp HS thấy rõ ưu, khuyết điểm
để rút kinh nghiệm, Đồng thời khen ngợi,động viên HS kịp thời.
* Nâng dần mức độ nói từ thấp đến cao.( theo đối tượng HS )
Ví dụ : Với HS yếu, trung bình yếu GV gợi ý các em nói miệng mở bài trực tiếp
(hoặc thân bài nói một phần nhỏ như tả ngoại hình … ), ví dụ: Với bài văn “Tả hình
dáng và tính tình của bà em ” các em chỉ cần nói được như “ Trong gia đình người em
yêu quý nhất đó là bà ”.
Với HS khá giỏi các em nói kiểu mở bài gián tiếp (hoặc nói cả phần thân bài,cả bài
…). Như “Chuông đồng hồ buông chín tiếng.Màn đêm yên ắng,tĩnh mịch lạ thường. Chỉ
còn âm thanh của gió khua xào xạc trong khu vườn trước ngõ.Em rời bàn học ra trước
sân, vươn vai hít thở không khí trong lành để cố xua đi cơn buồn ngủ. Còn lại bài tập
toán nữa,phải cố làm cho hết. Từ giường lên có tiếng trở mình khe khẽ. Bà nội còn thức
để chờ em.”
Phần thân bài HS yếu, trung bình yếu Với bài văn “Tả hình dáng và tính tình của
bà em ” HS chỉ cần nói được phần tả hình dáng.
HS khá giỏi cả phần thân bài: Hình dáng và tính tình, tiến tới cả bài.
* Sửa các em cách dùng từ, nếu các em dùng từ để tả chưa chính xác thì GV gọi
bạn nhận xét với gợi ý các câu hỏi của GV.
Ví dụ: Với bài văn ”Tả một em bé đang tuổi tập nói, tập đi” trong giờ tập làm văn
miệng có em nói “mái tóc của em bé mỏng manh như mảnh giấy được tạo bởi những sợi
tơ ngắn”
- Để sửa các em dùng từ, GV gọi bạn nhận xét với gợi ý câu hỏi như: cách dùng từ
để so sánh mái tóc em bé như vậy đã phù hợp chưa? HS nhận xét, GV hướng dẫn HS sửa
như: “ mái tóc của em bé mềm mượt như tơ”
* Mở rộng thêm ý văn bổ sung về cảm xúc cho các em. Nếu học sinh chưa sử dụng

các biện pháp nghệ thuật thì giáo viên phải gợi mở đễ bổ sung ý văn và rèn tư duy ngôn
ngữ cho các em.
Ví dụ: Với bài văn “ Tả hình dáng và tính tình của cô giáo ” một học sinh nêu:
“Mái tóc đen nhánh ôm lấy khuôn mặt hồng hào của cô, thật dễ mến”
Một học sinh khác sửa lại: “Tả hình dáng và tính tình của cô giáo ” một học sinh
nêu: “Mái tóc đen nhánh mượt mà như dòng suối ôm lấy khuôn mặt trái xoan hồng hào
của cô, thật dễ mến ”
+ Với bài văn “ Tả hình dáng và tính tình của bà em” một học sinh nói: ”Bà em có
đôi mắt ánh lên vẻ hiền từ và những nếp nhăn đã hằn sâu khuôn mặt phúc hậu của bà, tóc
bà bạc trắng”
Đễ mở rộng thêm ý văn, cô giáo hỏi: Đứng nhìn ngắm bà gợi cho em cảm xúc gì?
(Lòng xót thương vì bà đã vất vả nắng sương nên tóc bà bạt trắng, mắt mờ, lưng còng, em
kính trọng bà và yêu thương bà đễ bà lúc nào cũng vui).
+ Trong bài văn tả cảnh sinh hoạt, có em nêu: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra sân
trường. Sân trường bỗng nên ồn ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng, áo màu thật nhộn
nhịp”
Nội dung như thế là được. Câu văn gọn, rõ ý. Nhưng để sinh động hơn, HS có thể
sửa lại: “Từ các cửa lớp, học sinh ùa ra như một đàn ong vỡ tổ. Sân trường bỗng nên ồn
ào. Những chiếc áo hoa, áo trắng như những đàn bướm đủ màu sắc bay rập rờn”
* Mở rộng thêm ý văn bổ sung và rèn tư duy ngôn ngữ cho các em để bài văn sinh
động, học sinh có hứng thú học tập. Học sinh đã sử dụng các biện pháp nghệ thuật thì
giáo viên có thể gợi mở thêm để từ một ý mà cảm nhận qua nhiều hình ảnh khác nhau.
- Ví dụ: Với bài văn “ Tả cảnh sông nước” có em nêu: “ Ngoài khơi, đoàn thuyền
đánh cá trông như những cánh bướm bay dập dờn trên mặt biển”
Câu văn giàu hình ảnh có dùng biện pháp nghệ thuật như thế là tốt, nhưng để học
sinh tránh lặp các hình ảnh so sánh giống nhau của em này với em kia thì giáo viên gợi
mở để HS có nhiều hình ảnh so sánh khác nhau như: “ Ngoài khơi, đoàn thuyền đánh cá
trông như những hộp đồ chơi của trẻ em”.
- “ Dọc dờ biển, hàng dừa như những chú Hải quân đang ngày đêm đứng canh giữ
biển đảo”. hoặc “ Dọc dờ biển, hàng dừa đang nghiêng mình che mát cho khách du lịch”.

hoặc “ Dọc dờ biển, hàng dừa đang nghiêng mình soi bóng xuống mặt biển”.
Như vậy mỗi tiết tập làm văn miệng có khoảng 50% số học sinh được nói, nghĩa là
trong tổng số 28 học sinh của lớp 5A1 có khoảng 14 học sinh được nói trong giờ tập làm
văn với cùng nội dung một câu chuyện giống nhau, mặc dù số lượng học sinh được nói
chưa nhiều nhưng như vậy đã là sự cố gắng của giáo viên trực tiếp giảng dạy và qua đây
chất lượng nói của học sinh cũng được nâng cao một cách rõ rệt.
III. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG:
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, học sinh mạnh dạn, tự tin hơn biết sử
dụng từ, các biện pháp nghệ thuật, chất lượng của học sinh thông qua các giờ tập làm văn
được nâng lên rõ rệt so với khi chưa áp dụng sáng kiến. Vì vậy hiệu quả của sáng kiến
được nâng lên rõ rệt, kỹ năng trình bày vấn đề bằng lời nói được nâng lên, khắc phục
được tình trạng trình bày vấn đề lúng túng của học sinh.
Kết quả cụ thể như sau:


Qua số liệu khảo sát việc học sinh nói trong giờ tập làm văn lớp 5 như trên, so sánh
với thống kê khảo sát đầu năm ta thấy tỉ lệ học sinh biết trình bày vấn đề một cách lưu
loát tăng 8 em = 27,6 số học sinh đọc trình bày vấn đề còn lúng túng giảm 9 em = 32,1
%
Thời điểm
đánh giá
TSHS
HS tham
gia khảo sát
Kết quả
Trình bày
lưu loát
Trình bày
chưa lưu
loát

Trình bày
còn lúng
túng
TS % TS % TS %
Đầu năm 28 28 3 11,7 11 39,3 14 50.0
Cuối năm 28 28 11 39.3 12 42,6 5 17,9
So sánh = = +8 +27,6 +1 +3,3 9 32,1
C: KẾT LUẬN
I/ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC:
Trong sự nghiệp đổi mới ‘Công nghiệp hoá- hiện đại hoá” Mục tiêu giáo dục là
thực hiện giáo dục toàn diện: Đức- Trí - Thể - Mỹ cho học sinh. Chúng ta thự hiện
chương trình thay sách đó là chiến dịch lớn của ngành giáo dục.
Trong đó môn tiếng việt có vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triễn tư duy,
sáng tạo cho học sinh, giúp cho các em học tốt các môn khác.
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và môn tập làm văn lớp
5 nói riêng góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh.
Kinh nghiệm này không chỉ có tác dụng đối với giáo viên trực tiếp giảng dạy mà nó
giúp phụ huynh học sinh có cách nhìn đúng đắn hơn về phần dạy Tiếng Việt cho học sinh
con em mình.
Trong quá trình học tập đòi hỏi mỗi người phải biết tự học tự tìm tòi sáng tạo torng
thực tế. Đó là cả một quá trình phấn đấu không ngừng của thầy và trò trong nhà trường
tiểu học. Nhất là đối với học sinh lớp 5 khi luyện nói qua các tiết học Tập làm văn. Là
người đặt nền móng cho sự nghiệp giáo dục, đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có tâm
huyết với nghề nghiệp, có đầu óc suy luận khoa học, sáng tạo mềm dẻo trong việc vận
dụng các phương pháp dạy học, thích hợp với đặc điểm tâm sinh lý và điều kiện của học
sinh lớp mình dạy.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM, HƯỚNG PHÁT TRIỂN
Bài học kinh nghiệm:
Để giờ học đạt kết quả tốt thì những việc làm trước khi nói, trong khi nói và sau khi
nói phải được tiến hành thường xuyên đối với từng giai đoạn, từng học sinh. Giáo viên

phải chuận bị tốt về mọi mặt nội dung cũng như yêu cầu của bài, dự kiến những khả năng
có thể xãy ra trong giờ học, chỉ rõ mức độ cần đạt của giờ học để từ đó lựa chọn những
phương pháp cho phù hợp.
Muốn học sinh có kĩ năng nói tốt chỉ cần rèn luyện cho các em nói, cách diễn đạt
trực tiếp không chỉ trong giờ tập làm văn mà còn ở tất cả các giờ học khác để thành lập
thói quen nói tự tin, nói có văn hóa cho học sinh vì giờ tập làm văn là giờ học tổng hợp
kiến thức của nhiều phân môn nên cần sự hỗ trợ của các phân môn khác trong việc rèn kĩ
năng nói.
Khi đặt câu hỏi cho học sinh cần đặt luu ý đến khả năng từ lời nói của các em vì
nếu câu hỏi khá dài rộng sẽ không tổng hợp được kiến thức của học sinh và còn làm giảm
khả năng nói của các em. Khi tổ chức cho học sinh nói, giáo viên nên nhập vai cùng các
em, đi cùng hướng cảm xúc của các em để các em nói ra cảm xúc của mình. Nghĩa là lúc
này giáo viên phải vừa là “đạo diễn” vừa là “ diễn viên”, có như vậy mới thu hút được
các em vào giờ học và gây hứng thú để các em nói.
Trong quá trình học sinh nói giáo viên chú ý cho học sinh trong việc diễn đạt câu
đúng, đủ, rõ ý bằng lời văn tự nhiên chân thành và giản dị chưa đòi hỏi sự “chau chuốt”
bóng bẩy về lời. Do vậy có thể chấp nhận học sinh dùng nhiều từ ngữ thông dụng có phần
“nôm na” chưa thật hay nhưng diễn đạt được ý muốn nói của các em học sinh, có thể
dùng nhiều câu ngắn gọn hoặc câu dài kết hợp với ngữ điệu hay cử chỉ, điệu bộ nét mặt
để làm tăng sức gợi cảm của câu nói.
Ngoài ra giáo viên cần quan tâm đến cách trình bày mạch lạc giữa các ý để nhằm
tạo ra sự thuyết phục đối với ngôn ngữ, giọng nói phải phù hợp với nội dung diễn tả, thái
độ thoải mái, tự nhiên.
Tóm lại, cái khó khăn của việc dạy tập làm văn miệng là giáo viên phải giúp học
sinh chọn từ ngữ, văn bản nghĩa là học sinh phải thực sự làm việc sáng tạo. Vì vậy, đễ
học sinh tạo lập được văn bản nói, giáo viên cần phải tạo được không khí hào hứng, kích
thích học sinh muốn nói và mạnh dạn, từ đó hưỡng dẫn các em nói sao cho đạt kết quả tốt
nhất.
Việc sử dụng sáng kiến kinh nghiệm có thể đạt hiệu quả cao torng giờ tập làm văn
thì người giáo viên phải nắm được quy trình, công việc chuẩn bị của giáo viên cũng cần

phải chu đáo, sử dụng lời nói mẫu mực, uốn nắn kịp thời và có cách điều chỉnh phù hợp
với đặc điểm tam sinh lý của lứa tuổi học shinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 5 để các
em có kỹ năng trình bày vấn đề một cách lưu loát, mạch lạc để người nghe có thể hiểu và
tiếp nhận nội dung một cách tự nhiên và hiệu quả.
Hướng dẫn phát triển sáng kiến kinh nghiệm
Để sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao kỹ năng nói
cho học sinh tiễu học nói chung và học sinh tiểu học ở vùng miền núi nói riêng cần có sự
cố gắng trong quá trình giảng dạy, đầu tư về trang thiết bị dạy học, có cách tổ chức hoạt
động cho học sinh cụ thể để có thể động viện khuyến khích học sinh bộc lộ được những
điều mình suy nghĩ của mình qua lời nói.
III/ ĐỀ XUẤT
Để đạt được kết quả trong việc nâng cao chất lượng Tiếng Việt môn lớp 5 chương
trình tiểu học mới tôi mong rằng tất cả giáo viên cần nghiên cứu tìm ra phương pháp
giảng dạy hay và phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình, đầu tư nghiên cứu để rèn
luyện các em có đử đức, đủ tài giúp ích nước nhà sau này.
- Mong các bậc phụ huynh học sinh cần trang bị cho con em mình đầy đủ đồ dùng
học tập nhằm bổ sung vốn kiến thức, nhắc nhở con em chăm chỉ học bài.
- Học sinh cần chăm chỉ chịu khó tìm hiểu trao dồi kiến thức qua sách, vở,
báo,chuyện ….tự tìm tòi học hỏi, tự phát hiện những kiến thức cho bản thân.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm mà tôi đã nghiên cứu và thực nghiệm có hiệu
quả trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn nói lớp 5. Rất mong được sự đóng
góp của các bạn đồng nghiệp và các cấp quản lý để sáng kiến của tôi có thể áp dụng rộng
rãi trong các trường tiểu học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học
sinh Tiểu học.
Xuyên Mộc,ngày 22 tháng 02 năm 2012
Người viết

Bành Thị Cảnh





TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Hòa Bình: Dạy văn cho học sinh tiểu học NXB giáo dục năm 1999
2. PGS.TS.Đỗ Đình Hoan: Một số vấn đề cơ bản của chương trình tiểu họcmới:
NXB: Giáo dục năm 2002.
3. Nguyễn Trí:Dạy tập làm văn ở trường tiểu học.NXB: giáo dục năm 2003
4.Trần Hoàng Túy: Để học tốt các môn học lớp 5.NXB: giáo dục năm 2006
5. Nguyễn Xuân Hòa: Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5 NXB-
GD năm 2006.
6. Nguyễn Thị Kim Dung, Hồ Thị vân Anh Tập làm văn 5. Biên soạn theo chương
trình mới. NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh năm 2007
7. Nguyễn Minh Thuyết: Tiếng việt 5 (sách giáo viên) Tập 1-2 NXB: giáo dục năm
2008.
8.Nguyễn Minh Thuyết: Tiếng việt 5 (sách giáo khoa) Tập 1-2 NXB: giáo dục năm
2009.
9. Hoàng Hòa Bình, Lê Minh Châu,…. Giáo dục kĩ năng sống trong các môn học ở
Tiểu học. NXB: giáo dục năm 2010

×