Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm - Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2 “chương trình mới doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (464.14 KB, 31 trang )

 
 

Sáng kiến kinh nghiệm

Đề Tài
Áp dụng một số biện pháp
để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện
cho học sinh lớp 2 “chương trình mới”


Sáng kiến kinh nghiệm

Tên đề tài
Áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói
trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2
“chương trình mới”


Phần I: Lý do chọn đề tài

Phân môn kể chuyện ở tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp
phần bồi dưỡng tâm hịn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát
triển tư duy và ngơn ngữ cho học sinh. Ngồi ra nó cịn nhằm nâng cao năng lực
trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ. Chính vì
vậy tiết kể chuyện địi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa biết dạy cho
học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngơn ngữ, bước đầu tập dùng ngôn
ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể chuyện, học sinh
được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận được nội dung và
thu hoạch được những bài học bổ ích... nhưng điều quan trọng hơn là các em học
được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn,


một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Chương trình cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong chỉ có các
câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật nào? để cho các
em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và cả câu chuyện. Với
hình thức dạy kể chuyện theo chương trình cũ, nhiều khi học sinh khơng thể nắm
bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở nhà một hai
lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em. Điều đó cũng
ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học sinh.
Cái mới ở phân môn kể chuyện trong bộ SGK mới là không có
quyển Truyện kể dùng riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại
hoặc dựng lại dưới hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết tập đọc
đầu tiên trong tuần.
Như vậy hình thức câu hỏi và bài tập sẽ chi phối phương pháp dạy
học trong giờ kể chuyện. ở chương trình mới, trong giờ kể chuyện giáo viên chỉ là


người điều khiển, hướng dẫn, còn học sinh là người chủ đạo trong giờ học đó. Các
em sẽ phải làm việc nhiều hơn, nghĩa là phải nói nhiều hơn và nghe chăm chú hơn
để nhận xét bạn kể. Do các câu chuyện tương đối ngắn lại phân nhỏ ra làm nhiều
đoạn, cho nên trong một tiết dạy học kể chuyện, số lượng học sinh phải kể lại, phải
nhận xét bạn kể lại cũng rất nhiều. Với cách dạy học như thế công việc của giáo
viên sẽ nhẹ nhàng hơn so với cách dạy của chương trình cũ.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn đề tài: “áp dụng một số biện
pháp để rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2”.

Phần II: Cơ sở thực tiễn để giải quyết đề tài

Sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước địi hỏi phải
đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng. Nhân tố quyết định thắng lợi là nguồn
lực con người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, cho nên trước

hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao động có
những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong giai
đoạn mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
Năm 2003 - 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thay sách
giáo khoa lớp 2 trên tồn quốc. ở chương trình tiểu học mới, phân mơn kể chuyện
có mối quan hệ gắn bó với các phân môn khác như Tập đọc, Tập làm văn. Nó có
sự gắn bó khơng chỉ ở sự phân bố giờ học mà còn ở nội dung dạy, thể hiện rõ quan
điểm tích hợp trong việc xây dựng chương trình ở chương trình tiểu học mới, tạo
ra một phong cách mới trong dạy học phân môn kể chuyện. Việc lấy văn bản ở bài
Tập đọc làm ngữ liệu cho giờ kể chuyện, giúp giáo viên tiết kiệm được khá nhiều


thời gian, giúp học sinh tìm hiểu truyện; ghi nhớ cốt truyện. Do đó, chương trình
đã dành được nhiều thời gian cho việc rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Như chúng ta đã biết, việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh nhằm
đáp ứng mục tiêu giáo dưỡng mà chương trình đề ra là một việc làm khơng dễ
dàng, địi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và sự phối hợp chặt chẽ giữa các phân
môn. Kể chuyện khơng phải là phân mơn duy nhất có nhiệm vụ rèn kỹ năng nói.
Vì vậy chương trình Tiếng Việt tạo ra mối quan hệ giữa phân môn kể chuyện với
phân môn Tập đọc và Tập làm văn là một việc làm khoa học.
Kể chuyện là khả năng sử dụng ngơn ngữ ở dạng nói có tính nghệ
thuật. Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại.
Thực tế cho thấy kể chuyện có một sức hấp dẫn kỳ lạ, đặc biệt với
học sinh lứa tuổi tiểu học. Sức hấp dẫn đó khơng hề giảm đi dù câu chuyện đã
được các em đọc trước nhiều lần. Bởi lẽ khi kể một câu chuyện, người kể khơng
trình bày ngun văn một bản viết hay đọc lại văn bản đó, mà lúc này người kể
nhập vào một thế giới, khác với thế giới đang sống, đó là thế giới của câu chuyện.
Trong câu chuyện ấy, người kể lúc là người dẫn chuyện, lúc lại là nhân vật này
hoặc nhân vật khác. Người kể thể hiện tâm trạng của những nhân vật khác nhau,
khi thì vui sướng, hả hê, lúc lại buồn rầu, lo lắng.

Như vậy, kể chuyện thực sự mang tính tổng hợp. Nó sử dụng các hiểu
biết và kĩ năng dùng từ, đặt câu kĩ năng nghe, nói Tiếng việt, kĩ năng trình bày trước
cơng chúng. Nói cách khác đó là khả năng vận dụng những hiểu biết về ngôn ngữ, lý
thuyết sản sinh lời nói và sự hiểu biết về văn học... vào việc kể chuyện.
Như vậy là học sinh đã được rèn luyện một hoạt động kĩ năng kể
chuyện, kĩ năng giao tiếp bằng lời của mình. Hệ thống các kĩ năng kể chuyện cũng
chính là hệ thống hoạt động sản sinh lời nói nhưng ở dạng kĩ năng sản sinh văn
bản mới.


Như vậy trên cơ sở hiểu biết về lý thuyết, lời nói, chúng ta có thể
ứng dụng để hướng dẫn học sinh hình thành những kĩ năng kể chuyện, giúp các
em kể tốt hơn và cũng là rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt khúc triết, lưu
loát, ứng xử nhanh nhẹn, thông minh.
Một trong những lý do khiến trẻ rất thích giờ Kể chuyện là các em
được kể chuyện cho người khác nghe. Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy rằng: trẻ
có nhu cầu rất lớn trong việc giao lưu với bạn, san sẻ những thu nhận mới lạ của
mình. Vì thế, kể lại cho cơ, bố mẹ, ông bà... nghe là một nhu cầu của học sinh tiểu
học. Để giúp các em thỏa mãn nhu cầu đó, ngồi việc vận dụng những hiểu biết về
ngơn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói, giáo viên cần giúp học sinh vận dụng những
hiểu biết về văn học, vận dụng năng lực cảm thụ văn học để lựa chọn cho mình
giọng kể phù hợp. Ví dụ các em nhận biết được trong câu chuyện đâu là lời thoại,
đâu là lời dẫn chuyện, các em sẽ có giọng kể khác nhau. Hay nếu các em cảm thụ
tốt, hiểu được tâm trạng của các nhân vật, tính cách, hồn cảnh của họ thì các em
sẽ tìm được giọng điệu thích hợp với từng tâm trạng, từng tích cách mà có khi
người lớn khó có thể hình dung được.
Như vậy, trong giờ kể chuyện, hầu như học sinh được phát huy tối
đa khả năng nói của mình. Ngồi ra, để hình thành kỹ năng kể chuyện cho học
sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Phân mơn
kể chuyện của chương trình tiểu học mới đã rất tiến bộ khi đưa vào những phương

pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói của học sinh.
Chẳng hạn về phương pháp: có phương pháp kể chuyện bằng tranh, phương pháp
đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai. Về hình thức tổ chức: hình thức lớp bài, hình thức học theo nhóm... trong đó hình thức học theo nhóm là chủ yếu. Hình
thức học này giúp học sinh bình tĩnh, tự tin hơn và mạnh dạn nói ra ý kiến của
mình. ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn, được phát huy khả năng nói
của mình.


Phần III: Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua
phân mơn kể chuyện lớp 2, chương trình mới.
Trong cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân bố
như sau:

Thể loại truyện

Số

Tên truyện

lượng

Sơn Tinh, Thuỷ Tinh

Thần thoại
2
Truyền thuyết

Chuyện quả bầu

Sự tích cây vú sữa

Hai anh em
Cổ tích và cổ tích
mới

5

Bà cháu
Tìm ngọc
Ơng Mạnh thắng Thần Gió

Cười

0

Có cơng mài sắt có ngày nên
Ngụ ngơn

6

kim
Chuyện bốn mùa


Số

Thể loại truyện

lượng

Tên truyện


Một trí khơn hơn trăm trí khơn
Kho báu
Câu chuyện bó đũa
Quả tim khỉ

Ai ngoan sẽ được thưởng
Danh nhân lịch sử

3

Chiếc rễ đa trịn
Bóp nát quả cam

Khoa học

Người

thực,

thực

0

việc

0

Phần thưởng
Bím tóc đi sam

Sinh hoạt

10
Chiếc bút mực
Mẩu giấy vụn


Thể loại truyện

Số
lượng

Tên truyện

Người thầy cũ
Người làm đồ chơi
Bông hoa niềm vui
Sáng kiến của bé Hà
Con chó nhà hàng xóm
Những quả đào

Bạn của Nai nhỏ
Đồng thoại

3

Chim Sơn ca và bông cúc trắng
Bác sĩ Sói.

1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học:

Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục
tiểu học thì: phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh.


Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng khơng thể
thiếu được trong q trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện
đậm nét trong chương trình mới ở chỗ:
Chương trình tiểu học mới tập trung vào cách dạy học, đặc biệt là giúp
học sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích dạy học cá nhân và dạy h ọc
hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng của từng học sinh.
Là một phân môn nằm trong chương trình tiểu học mới, phân mơn
kể chuyện lớp 2 cũng được dạy theo phương pháp mới. Trong giờ kể chuyện, giáo
viên chỉ nêu đầu bài, yêu cầu và mục đích của tiết kể chuyện. Học sinh tự kể (cá
nhân) hoặc nhóm theo các yêu cầu đó. Giáo viên chỉ là người đạo diễn, hướng dẫn,
chỉ đạo, còn học sinh là diễn viên, là người thực hiện, chủ đạo trong tiết kể chuyện
đó. Giáo viên chỉ kể mẫu một lần, thậm chí giáo viên khơng cần kể mẫu, mà gọi
một học sinh khá kể mẫu, cho học sinh xung phong kể mẫu. Còn lại các học sinh
khác lần lượt kể theo đoạn và cả câu chuyện bằng nhiều hình thức khác nhau.
Trong khi học sinh kể, chỗ nào các em quên, lúng túng thì giáo viên nhắc một
cách khéo léo, tế nhị hoặc mời một học sinh khác nhắc giúp bạn học. Như vậy,
trong giờ dạy học kể chuyện, học sinh sẽ phát huy được khả năng nghe nói của
mình một cách tối đa. Hơn nữa giáo viên lại sử dụng các phương tiện dạy học như
tranh ảnh, một số dụng cụ thật với hình thức kể chuyện sắm vai, làm cho giờ học
kể chuyện thực sự sôi nổi, hấp dẫn.
Hình thức dạy học cũng được đổi mới: giáo viên có thể tổ chức dạy
học theo lớp, theo nhóm... Trước kia giáo viên chỉ dạy theo lớp là chủ yếu, học
sinh ít được học theo nhóm. Học theo hình thức mới này sẽ giúp cho học sinh phát

triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đơng.
Ví dụ bài: Con chó nhà hàng xóm (Tiếng Việt 2 - tập 1 trang 128)
yêu cầu dựa vào tranh kể lại từng đoạn câu chuyện đã học. Với tiết kể chuyện này,


giáo viên cho học sinh làm việc theo nhóm. Giáo viên cho học sinh quan sát tranh
1, sau đó đặt câu hỏi gợi ý:
-

Bạn của Bé ở nhà là ai?

-

Bé và Cún Bơng đang làm gì?

Sau khi quan sát tranh 1, nghe giáo viên đặt câu hỏi, học sinh phải huy
động nhiều thao tác: nghe để nhớ câu hỏi, hiểu câu hỏi rồi các em vừa quan sát
tranh vừa nhớ lại nội dung câu chuyện đã được học để xác định nội dung câu trả
lời. Cuối cùng các em phải trình bày được câu trả lời của mình dưới hình thức nói.
Như vậy, để trả lời được câu hỏi, học sinh phải sử dụng nhiều thao tác bộ phận của
kĩ năng nói: nghe-nhớ, nghe-hiểu, xác định nội dung câu trả lời, nói. Đó là từng
hoạt động của từng học sinh, mỗi học sinh trong nhóm thảo luận với nhau để tìm
ra câu trả lời chính xác.
Sau khi học sinh đã nhớ lại được đoạn 1 của câu chuyện, giáo viên cho học
sinh kể. Đây là lúc các em bước đầu rèn luyện kĩ năng nói nhưng mới chỉ ở dạng
độc thoại. Lời kể của các em diễn ra liên tục, do đó các em ít có thời gian để
ngừng nghỉ, chuẩn bị. Chính vì vậy địi hỏi học sinh phải chuẩn bị kĩ càng nội
dung kể, tâm thế kể chuyện (thậm chí cả ngơn từ và các yếu tố phụ trợ). Khi kể
chuyện, ngồi việc tự nghe mình kể, các em còn phải lưu ý quan sát những phản
ứng từ người nghe, để có sự điều chỉnh phù hợp về nội dung, giọng kể, điệu bộ...

Những học sinh khác, khi bạn kể chú ý nghe để nhận xét lời kể của bạn về
nội dung, về cách diễn đạt, cách thể hiện để bạn rút được kinh nghiệm và chính
bản thân các em cũng được bổ trợ những kinh nghiệm đó để điều chỉnh mình khi
kể.
Qua đây, ta thấy: rõ ràng phương pháp kể chuyện mới này đã có những tiến
bộ rõ rệt: trong tiết học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo còn học sinh


mới thực sự là người làm cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn hơn. Bởi trong tiết kể
chuyện, hoạt động của học sinh chiếm 2/3 tiết học. Như vậy có nghĩa là học sinh
được chủ động trong việc nghe nói, đẩy ngơn ngữ nói của các em lên một mức cao
hơn.
2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:
a. Thế nào là kể chuyện theo tranh?
Chúng ta cần phân biệt kể chuyện theo tranh và sử dụng tranh minh
hoạ cho truyện. Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong bất kì
một môn học nào. Nhưng các môn học khác, sử dụng tranh khi giới thiệu khái
niệm hoặc nhằm minh hoạ cho khái niệm, nhưng ở tiết dạy kể chuyện của chương
trình cải cách giáo dục, giáo viên sử dụng tranh vẽ để minh hoạ cho nội dung
truyện, làm cho lời kể mẫu của mình sinh động và hấp dẫn hơn. Cịn hình thức kể
chuyện theo tranh của chương trình mới thì hoàn toàn khác. Giáo viên phải chuẩn
bị đầy đủ tranh vẽ thể hiện nội dung, diễn biến của câu chuyện. Học sinh dựa vào
tranh vừa là phương tiện trợ giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là cơng cụ làm cho
việc thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động và hấp dẫn. Hình thức kể chuyện
theo tranh là hình thức rất hay, phát huy được khả năng quan sát, óc tưởng tượng,
đặc biệt là phát huy khả năng nói (ngơn ngữ) ở các em.
b. Hướng dẫn kể chuyện theo tranh của sách giáo khoa và sách giáo
viên:
* Trong sách giáo khoa:
Đa số các câu chuyện đều được kể theo tranh, mỗi bức tranh sẽ tương ứng

với nội dung của một đoạn truyện, thường thì mỗi câu chuyện có từ 3 đến 4 đoạn
nên có từ 3 đến 4 bức tranh minh hoạ. Nhưng cũng có những truyện có từ 5 đến 6


đoạn nên được minh hoạ bằng 5 đến 6 tranh, ví dụ như truyện Tìm ngọc (Tiếng
việt 2-trang 140 tập 1).
Tranh sử dụng trong kể chuyện có hai loại: tranh kèm lời gợi ý (dùng trong
những tuần đầu năm học) và tranh không kèm lời gợi ý (dùng trong những tuần
sau).
Trong việc áp dụng biện pháp này, giáo viên có thể sử dụng tranh trong
sách giáo khoa hoặc vẽ tranh lớn treo trên bảng.
+ Hướng dẫn đối với những truyện có tranh kèm theo lời gợi ý: Ví dụ
truyện “Có cơng mài sắt có ngày nên kim” (lớp 2-tập 1), sách giáo viên hướng dẫn
như sau:
* Quy trình hướng dẫn:
- Cho học sinh quan sát từng tranh.
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý.
- Cho từng học sinh kể .
- Sau mỗi lần cho một học sinh kể, cho lớp nhận xét:
+ Về nội dung: Kể đã đủ ý chưa? Kể có đúng trình tự khơng?
+ Về cách diễn đạt: Nói đã thành câu chưa? Dùng từ có hợp khơng? Đã biết
kể bằng lời của mình chưa( mức độ cao)?
+ Về cách thể hiện: Kể có tự nhiên khơng? Đã biết phối hợp lời kể với điệu
bộ, nét mặt chưa? Giọng kể có thích hợp khơng?
* Kể theo tranh 1:


Câu hỏi gợi ý:
+ Cậu bé đang làm gì? Cậu đọc sách như thế nào?
+ Em hãy nhớ lại truyện đã đọc: Cậu bé tập viết như thế nào?

- Ví dụ về lời kể có sáng tạo: Ngày xưa có một cậu bé làm gì cũng chóng
chán. Cứ cầm đến quyển sách, đọc được vài ba dòng là cậu đã ngáp ngắn ngáp dài,
rồi gục đầu ngủ lúc nào không biết. Lúc tập viết, cậu cũng chỉ nắn nót được mấy
chữ đầu, rồi viết nguệch, viết ngoạc cho xong chuyện.
* Kể theo tranh 2:
Câu hỏi gợi ý:
- Tranh vẽ bà cụ đang làm gì?
- Cậu bé hỏi bà cụ điều gì?
- Bà cụ trả lời thế nào?
-C ậu bé có tin lời bà cụ nói khơng?
* Kể theo tranh 3:
Câu hỏi gợi ý:
- Bà cụ trả lời thế nào?
- Sau khi nghe bà cụ giảng giải, cậu bé làm gì?
Học sinh có thể tách lời giảng giải của bà cụ thành nhiều câu ngắn:


Hôm nay bà mài. Ngày mai bà lại mài. Mỗi ngày thỏi sắt nhỏ lại một ít.
Chắc chắn có ngày nó sẽ thành cái kim...
* Kể theo tranh 4:
Câu hỏi gợi ý:
- Em hãy nói lại câu tục ngữ.
- Câu tục ngữ khuyên em điều gì?
Như vậy, ta thấy: đối với những câu chuyện kèm theo lời gợi ý, sách giáo
viên đã hướng dẫn khá kĩ. Vì vậy, giáo viên nhìn hệ thống câu hỏi gợi ý này có thể
điều hành một tiết kể chuyện dễ dàng, còn học sinh thì dựa vào hệ thống câu hỏi
đó có thể tự mình kể được câu chuyện.
Vậy là hình thức kể chuyện theo tranh đã phát huy được tác dụng của nó,
đó là việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.
Để dạy được hình thức bài tập này đạt hiệu quả cao thì giáo viên khơng nên

trao đổi tất cả các tranh cùng một lúc. Kể đoạn nào giáo viên treo tranh đoạn đó để
thu hút sự tập trung của các em. Nếu nhìn tranh kể lại tồn bộ câu chuyện thì mới
treo tất cả tranh cùng một lúc.(Phần củng cố)
Hơn nữa, giáo viên nên cho học sinh quan sát dưới lớp trước, sau đó gọi các
em lên bảng kể và khuyến khích các em khi kể khơng cần nhìn chăm chú vào
tranh mà chỉ dùng tranh như một phương tiện làm cho lời kể hay hơn, hấp dẫn hơn.
Nghĩa là học sinh quay xuống lớp kể chỗ nào cần đến tranh thì các em mới chỉ vào
tranh.
3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao
tiếp.


a. Thế nào là kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp?
Kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp là hình thức kể chuyện sử dụng dàn ý,
câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh kể chuyện. Trong tất cả các hình thức kể
chuyện thì đây là hình thức dễ nhất vì các tình tiết, diễn biến câu chuyện đã được
ghi lại (trong dàn ý hoặc câu trả lời), học sinh dựa vào đó để kể lại truyện. Với các
câu chuyện dài, nhiều tình tiết, giáo viên sử dụng hình thức kể chuyện này sẽ giúp
học sinh dễ dàng kể lại câu chuyện.
Ví dụ như truyện Kho báu (lớp 2-tập 2). Nói chung đây cũng là một truyện
khá dài, nhưng nếu giáo viên dùng hình thức hội thoại, giao tiếp trong tiết kể
chuyện sẽ giúp học sinh kể được câu chuyện dễ dàng hơn, đồng thời giúp học sinh
phát huy được khả năng nói của mình. Giáo viên có thể dùng dàn ý dưới đây để
giúp học sinh kể lại câu chuyện:
- Đoạn 1: Hai vợ chồng chăm chỉ.
+ Thức khuya dậy sớm.
+ Không lúc nào ngơi tay.
+ Kết quả tốt đẹp.
- Đoạn 2: Dặn con.
+ Tuổi già.

+ Hai người con lười biếng.
+ Lời dặn của người cha.
- Đoạn 3: Tìm kho báu.


+ Đào ruộng tìm kho báu.
+ Khơng thấy kho báu.
+ Hiểu lời dặn của cha.
b. Hướng dẫn học sinh kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp trong sách giáo
khoa và sách giáo viên.
* Trong sách giáo khoa:
Qua khảo sát sách giáo khoa lớp 2 chương trình mới ta thấy, đây cũng là
một hình thức phổ biến của phân mơn kể chuyện lớp 2 chương trình tiểu học mới.
Hình thức này khơng có yếu tố tranh ảnh phụ trợ. Song mỗi đoạn truyện thường có
3-4 câu gợi ý ngắn, mỗi câu gợi ý chứa đựng nội dung tổng hợp của đoạn truyện.
Những câu gợi ý đó lại gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng của học sinh một cách dễ
dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp thường là: “Dựa vào
các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu chuyện mới học”. Sau khi phát lệnh, giáo
viên ghi gợi ý của từng đoạn lên bảng và cho học sinh nhìn vào gợi ý đó để các em
có thể kể lại. Tuy nhiên, để cho hình thức này phát huy hiệu quả rèn kĩ năng nói
cho học sinh thì giáo viên khơng nên ghi những gợi ý đó lên bảng ngay, mà cần
đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. Những câu hỏi này phải đảm bảo tính logic của
truyện.
Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau:
- Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để
hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện. Ví dụ: bài Chim sơn ca và bơng cúc trắng
(Tiếng Việt2-tuần 21). Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài tập
“Dựa vào tóm tắt sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi (Tiếng Việt 2tuần 34).



- Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của
nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 - tập 1),
Bạn của Nai nhỏ(Tiếng Việt 2-tập 1),....
- Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho từng
đoạn truyện. Ví dụ truyện Một trí khơn hơn trăm trí khơn (Tiếng Việt 2 –tuần 22).
* Trong sách giáo viên:
Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện.
Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: nhắc lại lời
của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
- Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha với
Nai nhỏ. (Có thể gợi ý: nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hịn đá to của bạn,
cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí kéo mình
chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện bạn mình húc
ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con như thế nào?...)
- Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói
trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn( nếu cần).
Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai nhỏ,
Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo khoa.
Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi
tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo
viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án. Cũng chính vì vậy mà
học sinh được rèn kĩ năng nói tốt hơn.
Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật.


Ví dụ truyện Người thầy cũ(Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: Câu chuyện gồm
có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính( chú bộ đội) ở đoạn 1,
sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý:
+ ý nghĩ của Dũng.

- Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của
Dũng ) và là thầy giáo.
- Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội. Những
chi tiết chính cần kể:
+ Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng.
+ Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi.
+ Nhân vật: chú bộ đội.
+ Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy
giáo của con mình (Dũng).
- Kết thúc câu chuyện:
+ Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể .
Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo
viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi nhìn vào những gợi ý này học sinh sẽ
kể được truyện.
Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện.


Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bơng cúc trắng” (lớp 2 –tập 2), yêu cầu: Dựa
vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng lời của em; sách
giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý câu
chuyện trong sách giáo khoa, trả lời:
- Truyện có mấy đoạn? Nơị dung chính của từng đoạn?
Truyện có 4 đoạn:
+ Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc.
+ Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù.
+ Đoạn 3: Trong tù.
+ Đoạn 4 : Sự hối hận muộn màng.
- Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng.
Qua đây ta thấy: ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng đã hướng dẫn khá

kĩ. Điều đó giúp giáo viên rất nhiều trong giờ lên lớp tiết kể chuyện. Bởi giáo viên
không mất nhiều thời gian trong việc chuẩn bị giáo án, hơn nữa lại giúp học sinh
rèn kĩ năng nói tốt.
4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:
a.Thế nào là kể chuyện phân vai?
Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Không chỉ các em
tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo dõi, cổ


vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để giáo viên rèn
luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện.
Ví dụ khi phân vai dựng lại câu chuyện Quả tim khỉ (Lớp 2-tập 2) gọi 3 em:
một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ, và một em đóng vai Cá
sấu. Giọng người dẫn chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần lúc hỏi han
Cá Sấu và bình thản khi biết âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu buồn một cách giả
dối, đặc biệt là con mắt của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc sang Khỉ để dò thái độ.
Sau khi hướng dẫn xong, có thể giáo viên làm mẫu cho học sinh xem.
Như vậy, những dạng bài tập hình thức kể chuyện phong phú đã thu hút, lôi
cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với những nhân vật
trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận tình của giáo
viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là một môi trường tốt
để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh.
Sau đây là một giáo án minh họa
Bài Chuyện qủa bầu (lớp 2-tuần 32)
A.Mục tiêu:
Học sinh dựa vào trí nhớ và tranh minh hoạ, kể lại được từng đoạn của câu
chuyện theo hai hình thức: kể theo tranh, kể sáng tạo phần mở đầu.
+ Kể theo tranh: kể đoạn 1, 2.
+ Dùng hệ thống câu hỏi gợi ý kể lại đoạn 3.
+ Kể sáng tạo phần mở đầu : theo cách mở đầu trong sách giáo khoa.

B. Đồ dùng dạy học:


- Tranh minh hoạ(đoạn 1, đoạn 2 trong sách giáo khoa).
- Ba bảng phụ ghi lại gợi ý của đoạn 1, đoạn 2, đoạn 3 (như sách học sinh).
C.Các hoạt động dạy học chủ yếu:

Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh

1.Kiểm tra bài cũ (7phút).
Trong giờ kể chuyện trước, các
con đã được kể câu chuyện “Chiếc rễ

- Ba học sinh kể nối tiếp 3 đoạn của

đa tròn.” Câu chuyện gồm 3 đoạn, cô câu chuyện.
mời 3 bạn kể nối tiếp 3 đoạn của câu
- Câu chuyện nói lên tình thương
chuyện.
bao la của Bác Hồ đối với mọi người, mọi
- Giáo viên nhận xét, cho điểm vật sống xung quanh. Một chiếc rễ đa tròn
từng học sinh.
rơi xuống đất, Bác cũng thương, muốn
- Câu chuyện “Chiếc rễ đa trịn”
nói lên điều gì?

trồng lại cho rễ mọc thành cây, nhưng cây
Bác muốn trồng mọc uốn theo hình vịng

trịn làm chỗ vui chơi cho các cháu thiếu

- Giáo viên nhận xét, cho điểm. nhi.
- Giáo viên nhận xét việc học
bài cũ của học sinh.

2.Bài mới:
a. Giới thiệu bài (2 phút).

- Bài Chuyện quả bầu.


-Trong tiết Tập đọc trước, các
con đã được học bài tập đọc gì?
- Học sinh làm theo lời giáo viên.
- Trong giờ kể chuyện hôm nay,
các con sẽ tập kể lại đoạn 1, đoạn 2
theo tranh, đoạn 3 theo gợi ý hướng
dẫn trong sách giáo khoa. Sau đó kể lại
tồn bộ câu chuyện theo cách mở đầu
mới. Các con mở sách Tiếng Việt trang
120 cho cô.
- Giáo viên ghi tên đầu bài lên
bảng.
b.Bài mới:
* Dựa theo tranh, kể lại đoạn 1

-Học sinh quan sát tranh.

và đoạn 2 của Chuyện quả bầu.

+ Kể lại đoạn 1
- Trong tranh vẽ 3 nhân vật: Con
- Giáo viên treo tranh (thể hiện Dúi, vợ chồng người đi rừng.
nội dung của đoạn 1).
- Nhìn vào tranh, ai cho cô biết,
tác giả vẽ mấy nhân vật trong bức
tranh này? Đó là những nhân vật nào?

- Con Dúi lạy van xin tha, hứa sẽ

(Giáo viên ghi bảng: ghi vào phầnnói điều bí mật.
gợi ý).

- Con Dúi mách: sắp có mưa to, gió
- Con Dúi làm gì khi bị hai vợ lớn làm ngập lụt khắp miền, khuyên hai vợ


chồng người đi rừng bắt?

chồng cách phòng lụt.

(Giáo viên ghi bảng: ghi vào

- Giọng kể khoan thai, chậm rãi.

phần gợi ý: Con Dúi lạy van xin tha...)
- Hai học sinh kể.
- Con Dúi mách điều bí mật gì?
-Học sinh nhận xét.
(Giáo viên ghi bảng: ghi vào

- Bức tranh vẽ cảnh sau nạn lụt. Tác

phần gợi ý...)

giả vẽ cảnh hai vợ chồng vừa bước ra từ
- Đoạn này nên kể với giọng thế qủa bầu. Họ thấy cảnh vật xung quanh đều
nào?

tàn tạ, héo úa.
- Dựa vào tranh và những gợi ý trên,

- Họ nghe lời khuyên của Dúi: lấy

cô mời các con kể lại đoạn 1 của câu chuyện. khúc gỗ to, khoét rỗng, chuẩn bị thức ăn
đủ bảy ngày, bảy đêm, rồi chui vào đó, bịt
- Giáo viên gợi ý học sinh nhận
xét cách bạn kể: kể đúng, đủ ý chưa, đã
bám sát vào tranh chưa? Giọng kể có
thích hợp khơng, bạn dùng từ có thích
hợp khơng?
- Giáo viên nhận xét, cho điểm.
+ Kể lại đoạn 2
- Nhìn vào tranh cho cơ biết:
bức tranh vẽ cảnh gì? Hãy tả lại cảnh
đó.

kín miệng gỗ bằng sáp ong, hết hạn bảy
ngày mới chui ra.



- Như vậy, hai vợ chồng họ đã
làm cách nào để thoát khỏi nạn lụt?
(Giáo viên ghi bảng: vào phần gợi
ý...).

- Đoạn này chúng ta nên kể với
giọng như thế nào?

- Lên giọng khi kể về trận lụt xảy ra
bất ngờ, thấp giọng khi kể về cảnh vật sau
trận lụt.

- Cô mời một bạn kể lại đoạn 2
theo gợi ý trên, chú ý thể hiện đúng giọng

- Hai học sinh kể lại

kể.

- Giáo viên gọi học sinh nhận
xét bạn kể: đúng, đủ ý chưa? giọng kể

- Học sinh nhận xét

có phù hợp không?

- Giáo viên nhận xét cho điểm

+ Kể lại đoạn 3:


- Khi sinh con, việc kỳ lạ gì đã
xảy ra đối với người vợ?

- Người vợ sinh ra quả bầu.


×