Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vận dụng môt số phương pháp dạy học tích cực trong dạy học làm văn nghị luận 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.39 KB, 15 trang )

Vận dụng môt số phương pháp dạy học tích cực trong
dạy học làm văn nghị luận 9
Tác giả:Ngô Thị Phượng
Đơn vị:Trường THCS Lộc Ninh.
1. Vấn đề đặt ra:
Trong nhà trường nói chung, trong trường THCS nói
riêng. Ngữ văn là môn học trang bị cho học sinh những
tri thức để đánh giá đúng các vấn đề về văn học. Vì vậy
việc sử dụng phương pháp dạy học mỗi giáo viên cần
vận dụng hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có
theo quan niệm dạy học tích cực kết hợp với các phương
pháp dạy học hiện đại. Nếu trước đây giáo viên giảng
cho hay, bình cho giỏi –Giáo viên là “chủ thể” của hoạt
động thì giờ đây bằng “phân tích ngôn ngữ”, “rèn luyện
theo mẫu”, “giao tiếp”, “hơp tác” học sinh tự
hình thành kiến thức bài học –Học sinh là “chủ thể” của
họat động học tập.Hiện nay trong giờ học Ngữ văn nói
chung và phân môn làm văn nói riêng, thực chất là
dạy học sinh hoạt động theo đặc trưng của môn học, học
sinh được cuốn hút vào những hoạt động học tập do giáo
viên tổ chức chỉ đạo, thông qua đó chủ động khám phá
kiến thức Văn chương, kỹ năng tạo lập các kiểu văn bản,
đồng thời bộc lộ quan điêm cá nhân, có kỹ năng
làm việc độc lập, hợp tác để cùng nhau giải qu y ết
những vấn đề mà giáo viên đặt ra. Người học giữ vai trò
“trung tâm”tích c ực, chủ động trong quá trình học tập.
Phương pháp dạy học “tích cực”có nhiều phương pháp
khác nhau. Môn Ngữ văn, ở mỗi phân môn có phương
pháp đặc thù riêng. Ở đây tôi chỉ nói đến một số phương
pháp dạy học tích cực có thể vận dụng dạy phần Tập làm
văn trong chương trình môn Ngữ văn THCS, đó


là:
- Phương pháp dạy học định hướng giao tiếp.
-Phương pháp phân tích ngữ liệu mẫu.
- Phương pháp dạy học hợp tác (phương pháp thảo luận
nhóm).
- Phương pháp rèn luyện theo mẫu.Vì vậy là một giáo
viên đứng lớp làm thế nào để vận dụng tối ưu các
phương pháp? Làm thế nào để phát huy được tính tích
cực của học sinh khi học tập làm văn? Cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng cũng đã từng đánh giá rất caolứa
tuổi học sinh trong nhà trường như sau: “Lứa tuổi học
sinh rất nhạy cảm, thông minh lạ lùng lắm” Từ thực tế
giảng dạy
tôi xin đưa ra các giải pháp chứng minh cho vấn đề vừa
nêu trên.
2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
-Phạm vi nghiên cứu:
Học sinhlớp 9
2
,9
4
trường THCS Lộc Ninh.
Thời gian: Giai đoạn 1: Từ 01/09/2011 đến cuối HK I
Giai đoạn 2: Từ cuối HK I đến giữa HK II
-Đối tượng nghiên cứu:
Cách thức vận dụng một số phương pháp dạy học tích
cực trong dạy học làm văn nghị
luận 9 Trường THCS LộcNinh.
3. Giải pháp hoặc tính mới, tính sáng tạo của đề tài:
* Phương pháp dạy học định hướng giao tiếp:

-Đây là phương pháp dạy học mới, hiện đại áp dụng
trong dạy Tập làm văn rất hiệu
quả, lại tăng tính thực tế. Dựa trên cơ sở nguồn gốc thực
tiễn và mục đích giao tiếp của
từng kiểu loại văn bản mà chọn những tình huống giao
tiếp-đối thoại phù hợp rồi phân
tích, tổng hợp và hình thành hiểu biết về kiểu loại văn
bản. Phương pháp này đòi hỏi giáo
viên phải gia công suy nghĩ, liên hệ sáng tạo để xây dựng
những tình huống phù hợp, sinh
động và kỹ năng dẫn dắt khéo léo để tổ chức học sinh tìm
hiểu, phân tích tình huống từ đó
hình thành khái niệm lý thuyết.
Bước 1: Giáo viên lựa chọn các tình huống khác nhau.
Bước 2: Học sinh tạo một đoạn hội thoại ngắn theo các
tình huống mà giáo viên đưa
ra. Xác định nội dung hội thoại, quan hệ giao tiếp giữa
các nhân vật trong hội thoại? Ai ở
vai trên? Ai ở vai dưới? Cách nói của mỗi nhân vật có
phù hợp với nội dung, hoàn cảnh
giao tiếp, đối tượng và mục đích giao tiếp không?
Bước 3:Học sinh thực hành hội thoại theo định hướng đã
xác định ở bước 2.
Bước 4:Học sinh đánh giá mức độ phù hợp hoặc chưa
phù hợp của lời nói đối với vai
xã hội và nêu tác dụng của đoạn hội thoại mới vừa tạo
lập.
Bước 5:Học sinh tự rút ra các khái niệm về các kiểu văn
bản vừa tạo lập.
* Phương pháp phân tích ngôn ngữ:

Phương pháp phân tích ngôn ngữ là phương pháp học
sinh dưới sự hướng dẫn và tổ
chức của giáo viên tiến hành tìm hiểu các hiện tượng
ngôn ngữ, quan sát, và phân tích các
hiện tượng đó theo định hướng của bài học từ đó rút ra lý
thuyết hoặc thực hành ghi nhớ.
Các thao tác cơ bản trong phân tích ngôn ngữ đó là:
+ Phân tích -phát hiện: Trên cơ sở các tài liệu mẫu, giáo
viên nêu ra các câu hỏi
để học sinh quan sát, tìm ra các đặc điểm của các hiện
tượng, từ đó tự rút ra các nhận xét,
kết luận về hiện tượng ngôn ngữ được học.
+ Phân tích -chứng minh: Giáo viên đưa ra các tài liệu
có chứa các khái niệm,
hiện tượng ngôn ngữ vừa học, yêu cầu học sinh vận dụng
những tri thức mới học để phát
hiện và chứng minh.
+ Phân tích -phán đoán: Là phương pháp củng cố và
khắc sâu kiến thức cho học
sinh, khác thao tác phân tích chứng minh ở chỗ không
yêu cầu học sinh phải tái hiện lại
định nghĩa, quy tắc m à chỉ y êu cầu học sinh phát hiện
nhanh và dùng đúng các hiện tượng
ngôn ngữ, các khái niệm đã học mà không cần giải thích
tại sao.
+ Phân tích -tổng hợp: Học sinh vận dụng những kết quả
phân tích để thẩm định,
phân tích văn bản hoặc sử dụng chúng trong tạo lập văn
bản nói, viết phù hợp mục đích
giao tiếp.

* Phương pháp dạy học hợp tác (thảo luận nhóm)
-Dạy học hợp tác là phương pháp dạy học dựa trên sự
tương tác giữa học sinh-học
sinh (là chính) và tương tác giữa giáo viên-học sinh. Là
phương pháp đòi hỏi có sự tham
gia và hợp tác tích cực của các thành viên để tìm kiếm
giải pháp cho một vấn đề, nhằm đạt
được mục tiêu học tập. Trong phương pháp này giáo viên
là người tổ chức, hướng dẫn học
sinh hợp tác nghiên cứu, tìm tòi thảo luận, tranh luận và
cùng kết luận khái quát vấn đề.
-Quá trình thực hiện tổ chức thảo luận nhóm cụ thể như
sau:
Bước 1:Thành lập nhóm: Giáo viên nêu vấn đề, xác định
nhiệm vụ nhận thức cho cả
nhóm. Giáo viên hướng dẫn cách thức tổ chức nhóm, gợi
ý và hướng dẫn học sinh tiến
hành công việc theo thời gian cụ thể.
Bước 2:Hoạt động nhóm: Nhóm trưởng phân công cho
nhóm viên trao đổi ý kiến
thảo luận trong nhóm (mỗi cá nhân đều có ý kiến). Nhóm
trưởng kết luận, thống nhất bằng
cách giơ tay. Giáo viên quan sát theo dõi và giúp đỡ các
nhóm có vướng mắc.
Bước 3:Thông báo kết quả: cử đại diện nhóm (hoặc giáo
viên cử bất kỳ học sinh nào
của nhóm) báo cáo kết quả làm việc trên giấy lớn hoặc
trình bày miệng. Các nhóm khác bổ
sung thống nhất ý kiến.
Bước 4:Kết luận vấn đề: Giáo viên tổng kết, bổ sung và

chuẩn xác kiến thức. Sau
cùng là giáo viên nh ận xét ngắn gọn về tình hình làm
việc của các nhóm để kịp thời động
viên khuyến khích các nhóm làm việc tốt, rút kinh
nghiệm đối với các nhóm làm việc chưa
tốt.
-Để thực hiện tốt phương pháp này giáo viên nên xây
dựng một số mô hình th ảo
luận nhóm nhỏ như:
+ Mô hình 1: Phát biểu lần lượt (Mỗi người được phát
biểu trong một khoảng thời
gian nhất định).
+ Mô hình 2: Hiệp ý tay đôi (Hiệp ý theo từng đôi, sau
đó đại diện từng đôi phát
biểu).
+ Mô hình 3: Hoàn thiện từng bước (cá nhân chuẩn bị
hiiệp tay đôi, hai cặp rà
soát, cả nhóm hoàn thiện).
-Những điều cần lưu ý khi vận dụng phương pháp hợp
tác:
+ Vấn đề đưa ra thảo luận phải chính xác, rõ ràng.
+ Câu hỏi phải hợp lý, dựa trên thông tin mình muốn biết
về một vấn đề cụ thể.
+ Đặt câu hỏi phải mang tính thách thức nhằm kích thích
tư duy.
+ Tuyên dương câu trả lời đúng, khuyến khích sự nổ lực
của học sinh khi trả lời
sai. Giảm thiểu sự chê trách đối với nhóm (cá nhân) trả
lời sai hoặc chưa hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.

* Phương pháp rèn luyện theomẫu: Phương pháp rèn
luyện theo mẫu là phương
pháp giáo viên hướng dẫn học sinh tiến hành phân tích
và sản sinh văn bản theo những
mẫu đã được lựa chọn. Các bước tiến hành phương pháp
rèn luy ện theo mẫu:
+ Giáo viên lựa chọn mẫu theo yêu cầu và cung cấp cho
học sinh.
+ Học sinh tiến hành phân tích mẫu.
+ Học sinh tự sản sinh văn bản theo mẫu.
4. Hiệu quả đem lại: Qua thời gian thực tế thực hiện tôi
đã nhận thấy kết quả học
tập rất rõ ràng ở học sinh. Nhìn chung các em đều rất
tích cực học tập, các em đều tập
trung suy nghĩ, tìm tòi đánh giá vấn đề, bài học. Không
khí lớp học sôi nổi. Trong học tập
không chỉ có hoạt động của giáo viên mà còn có hoạt
động của học sinh. Vận dụng các
phương pháp này vai trò độc tôn của người thầy giảm
dần, thay vào đó là tăng cường hoạt
động của học sinh. Giáo viên chỉ là người theo dõi,
hướng dẫn, tác động tới quá trình hoạt
động của học sinh. Bên cạnh đó tôi nhận thấy chất lượng
dạy và học văn Nghị luận được
nâng cao rõ rệt. Tôi thấy mình vững vàng hơn trong
chuyên môn, tự tin hơn trong giạng
dạy. Đối với học sinh, các em ý thức được tầm quan
trọng của môn Ngữ văn, biết bày tỏ ý
kiến, quan điểm, tư tưởng của mình một cách đúng đắn,
biết đưa ra ý kiến thuyết phục, tích

cực, chủ động tham gia thảo luận, tranh luận xây dựng
bài. Từ đó phát triển đuợc tư duy
sáng tạo và giáo dục tư tưởng quan điểm đúng đắn cho
học sinh.
5. Khả năng áp dụng cho đến thời điểm hiện tại:
5.1 Về tính mới và tính sáng tạo:
-Dạy học làm văn Nghị luận theo định hướng giao tiếp,
giáo viên phải gia công
nghiên cứu để tìm ra nh ững tình hu ống giao tiếp hợp lý,
phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, từng đối tượng học sinh, giúp học sinh có kỹ năng
giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách
có hiệu quả trong những tình huống điển hình, cụ thể và
từ đó giúp học sinh rèn luyện phát
triển tất cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết trong các hoạt
động giao tiếp kích thích động cơ,
nhu cầu giao tiếp phù hợp với thực tiễn xã hội.
-Về phương pháp phân tích ngôn ngữ, giáo viên cần đưa
ra ngữ liệu mẫu chuẩn mực,
hợp lý. Học sinh vận dụng tri thức phân tích ngữ liệu
mẫu để nắm được tri thức mới và
phát triển tư duy sáng tạo, có tiềm năng vận dụng tri thức
vào những tình huống mới, góp
phần hình thành tốt năng lực vốn sống phong phú, đa
dạng thích ứng với nhu cầu phát triển
của xã hội.
-Dạy học làm văn Nghị luận theo hợp tác (thảo luận
nhóm), giáo viên cần vận dụng
một cách linh hoạt, logíc, lựa chọn vấn đề chính xác, rõ
ràng, câu hỏi phải hợp lý phải

mang tính thách thức tư duy của học sinh. Giáo viên có
thái độ khen, tuyên dương kịp thời,
đúng lúc cần giảm thiểu sự chê trách đối với học sinh. Từ
đó giúp học sinh hình thành tốt
kỹ năng nói, viết, phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, các em
có những khám phá thú vị, đầy
sáng tạo, mạnh dạn chủ động giải quyết vấn đề.
-Qua thực tế áp dụng phương pháp rèn luyện theo mẫu,
giáo viên phải lựa chọn mẫu
theo yêu cầu rèn luy ện và cung cấp cho học sinh-Học
sinh nắm vững mẫu, theo yêu cầu
của giáo viên các em tự sản sinh (tạo lập) văn bản và
nắm vững đặc trưng các kiểu loại văn
bản đã được học.
5.2 Hiệu quả xã hội:
- Văn học vốn rất gần gũi với cuộc sống, mà cuộc sông
bao giờ cũng bề bộn và vô
cùng phong phú. Mỗi tác phẩm văn chương là một mảng
cuộc sống đã được nhà văn chọn
lọc pnản ánh. Vì vậy môn văn trong nhà trường có một vị
trí rất quan trọng. Nó là vũ khí
thanh tao đắc lực có tác dụng sâu sắc đến tâm hồn tình
cảm con người, nó bồi đắp cho con
người trở nên trong sáng, phong phú và sâu sắc hơn. M.
Góoc-ki nói: “Văn học giúp con
người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào
bản thân mình vàlàm n ảy nở con
người khát vọng hướng tới chân lý. Văn học “Chắp đôi
cánh” để các em đến với mọi thời
đại văn minh, với mọi nền văn hóa, xây dựng trong các

em niềm tin vào cuộc sống, hướng
các em tới đỉnh cao của Chân, Thiện, Mỹ.
-Vì vậy việc vận dụng cácphương pháp tích cực vào
trong quá trình dạy học làm văn
tôi nhận thấy chất lượng môn Ngữ văn được nâng cao, đó
cũng là tiền đề để nâng cao chất
lượng ở các môn học khác, đặc biệt là đào tạo cho đất
nước những thế hệ học sinh không
chỉ thành thục về kỹ năng mà còn giàu có về cảm xúc, và
tôi lại thấy mình sung sướng và
hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp
cho đời, bản thân tôi luôn tạo điều
kiện và cơ hội cho học sinh được tham gia chiếm lĩnh tri
thức, nhu cầu hành động và thái
độ tự tin trong học tập, tạo cho học sinh tích cực tư duy,
say mê học tập, yêu thích bộ môn,
hoàn thiện năng lực văn chương, hình thành ở các em
thái độ học tập đúng đắn, các em yêu
thầy mến bạn, ham thích đến trường góp phần thực hiện
thành công phong trào thi đua
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”
5.3 Về triển vọng áp dụng và triển khai: Vận dụng các
phương pháp dạy học trên
không chỉ áp dụng cho việc dạy học phần Tập làm văn
Nghị luận lớp 9
2
, 9
4
, mà còn có thể
vận dụng cho cả quá trình dạy học Tập làm văn ở các

khối 7, 8, 9 ở trường Trung học cơ
sở

×