Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TÌM HIỂU KHẢ NĂNG PHÁT ÂM ĐÚNG CỦA TRẺ MẪU GIÁO LỚN TRƯỜNG MẦM NON DỊ NẬU - TAM NÔNG- PHÚ THỌ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.73 KB, 32 trang )

Trờng đại học s phạm hà nội
Khoa giáo dục mầm non
Bài tập nghiệp vụ cuối khoá
Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của
trẻ mâũ giáo lớn
Trờng mầm non dị nậu - tam nông- phú thọ
Ngời hớng dẫn : T.s Đinh Hồng Thái
Ngời thực hiện : Hán Thị Sinh
Lớp ĐHTC Việt trì - Khoa GDMN

Lời cảm ơn
Để hoàn thành bài tập nghiệp vụ cuối khoá này tôi đã đợc sự giúp đỡ tận
tình của thầy giáo Đinh Hồng Thái cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa
Giáo dục mầm non, Trờng Đại học s phạm I Hà Nôị; Sự giúp đỡ của các cô giáo
ở các lớp mẫu giáo lơn, đặc biệt là Ban giám hiệu trờng mẫu giáo Dị Nậu
Tôi xin trân trọng cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo khoa giáo dục mầm
non, Trờng Đại học s phạm I Hà Nội. Đặc biệt xin cảm ơn thầy Đinh Hồng Thái
- Ngời đã trực tiếp hớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành bài tập nghiệp vụ cuối khoá
này.
Kính chúc các thầy, cô giáo luôn mạnh khoẻ, công tác tốt; Chúc khoa Giáo
dục mầm non đạt nhiều thành tích hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Hán Thị Sinh
Sinh viên lớp đại học mẫu giáo
Phần I : Mở đầu

I. Lý do chọn đề tài
Từ ngàn đời xa cha ông ta đã dạy :
Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn thơ ngây.
Thấm nhuần lời dạy đó của ông cha, ngày nay thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và
thế hệ mầm non nói riêng đang nhận đợc sự quan tâm chăm sóc của toàn xã hội


với tinh thần hãy dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em Bởi vì trẻ em không
những là niềm hạnh phúc của gia đình mà còn là tơng lai của đất nớc. Chính vì
vậy, việc chăm sóc giáo dục trẻ em hiện nay không chỉ là trách nhiệm của các
gia đình mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Trong đó vai trò quan trọng nhất
trong việc chăm sóc giáo dục trẻ theo đúng phơng pháp khoa học là các trờng
mầm non. Đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 tuổi càng phải quan tâm , giáo dục cho chu
đáo. Bởi vì trẻ 5 tuổi đang chuẩn bị bớc vào một môi trờng học tập mới, đó là
hoạt động học tập ở trờng phổ thông.
Dân c trên địa bàn Tam Nông nói chung và xã Dị Nậu nói riêng thờng hay phát
âm sai và hay lẫn lộn các phụ âm nh : s - x; r - d; tr- ch; n- l
Chính vì vậy mà trẻ em trờng mầm non sống trên địa bàn này cũng chịu ảnh h-
ởng các lỗi phát âm trên. Đặc biệt là các cháu mẫu giáo lớn 5 -6 tuổi khi vào học
ở trờng phổ thông vẫn mắc phải những lỗi phát âm sai đó vì vậy trẻ thờng gặp
khó khăn trong phát âm khi tập đọc hoặc viết chính tả dẫn đến những ảnh hởng
không tốt đến kết quả học tập.
Là hiệu phó phụ trách chuyên môn của trờng mẫu giáo Dị Nậu, tôi thờng xuyên
tiếp xúc với các cháu qua việc dự giờ, thăm lớp; qua việc tổ chức các hoạt động
của trẻ trong nhà trờng. Tôi luôn suy nghĩ tìm tòi các biện pháp rèn phát âm cho
trẻ, giúp trẻ khắc phục những lỗi phát âm sai hoặc nói ngọng. Rèn luyện cách
phát âm đúng biết điều chỉnh âm lợng, thể hiện đúng ngữ điệu lời nói, nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho trẻ mẫu giáo nói chung và trẻ mẫu giáo lớn nói riêng sau
này bớc vào trờng phổ thông đợc tốt. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài nghiên cứu :
Tìm hiểu khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu giáo lớn ở
trờng mầm non Dị Nậu - Huyện Tam Nông - Phú Thọ
II. Mục đích Nghiên cứu
Tìm hiểu khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo lớn 5 -6 tuổi. Từ đó nêu ra các
biện pháp sửa lỗi phát âm cho trẻ.
III. Nhiệm vụ nghiên cứu
1. Nghiên cứu cơ sở lý luận
2. Khảo sát khả năng phát âm của trẻ

3. Một số biện pháp tác động
4. Kết luận s phạm.
IV. Phơng pháp nghiên cứu
1. Đọc tài liệu
2. Quan sát ghi chép
3. Thực nghiệm s phạm
4. Xử lý số liệu
V. Đối tợng và khách thể nghiên cứu
1. Đối tợng nghiên cứu : Khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo và biện pháp
rèn phát âm cho trẻ.
2. Khách thể : 30 cháu ở độ tuổi mẫu giáo lớn của trờng mầm non
Dị Nậu - Tam Nông - Phú Thọ
Phần II
Nội dung nghiên cứu
Chơng I
I. Cơ sở lý luận ngữ âm
1. Đặc điểm của âm tiết tiếng Việt :
Là tính phân tiết cao, mỗi âm tiết nó đứng cách nhau. Mỗi âm tiết bao giờ
cũng gắn liền với thanh điệu cũng làm thay đổi ý nghĩa của âm tiết.
Vì vậy : Lời nói của con ngời bao giờ cũng là lời nói thành tiếng. Khi nói
chúng ta phải phát âm ra thành từ, thành câu, thành văn bản để truyền đạt nội
dung thông báo. Khi nghe chúng ta tiếp nhận các âm thanh ngời nói phát ra, từ
đó hiểu đợc nội dung của lời nói. Trong âm thanh của lời nói do một cá nhân
phát ra, ngoài những đặc điểm cụ thể còn có một cái chung nhất mang chức năng
xã hôị. Những âm thanh cụ thể của lời nói, của mỗi cá nhân là những thực thể
mang chức năng xã hội.
2. Hệ thống ngữ âm của âm tiết tiếng Việt
Có 5 thành phần : Sắp xếp theo sơ đồ sau :
Âm đầu
1

Thanh điệu
5
Vần
Âm điệu
2
Âm chính
3
Âm cuối
4
* Thành phần vị trí 5 là thanh điệu bao trùm lên toàn bộ âm tiết. Có 6 thanh
điệu:
- Thanh ngang :Trên chữ không ghi dấu khi viết
- Thanh huyền
- Thanh sắc
-Thanh nặng
- Thanh hỏi
- Thanh ngã.
* Thành phần ở vị trí 1 là âm đầu do các phụ âm đảm nhiệm
* Thành phần ở vị trí 2 là do âm đệm, đó là nguyên âm trong chữ viết, đợc
thể hiện bằng chữ O chẳng hạn (Loan,); bằng chữ U (Xuân)
* Thành phần ở vị trí 3 là âm chính do các nguyên âm đảm nhiệm. Âm
chính là hạt nhân của âm tiết.
* Thành phần ở vị trí 4 là âm cuối, do các phụ âm bán nguyên âm (i, y, u, o)
đảm nhiệm.
* Các thành phần ở vị trí 2, 3, 4 ghép lại với nhau thành một bộ phận gọi là
phần vần. Âm bao giờ cũng phải có âm chính và thanh điệu, vị trí còn lại có thể
có hoặc không.
-Âm tiết tiếng việt có cấu trúc hai bậc : Bậc thứ nhất bao gồm những thành
tố của thành phần vần.
Âm tiết

Bậc 1 : Thanh điệu Âm đầu phần vần
Bậc 2 : Âm đệm Âm chính Âm cuối
* Thanh điệu là sự thay đổi độ cao những âm tiết : la, lá, lã đối lập với là,
lả, lạ. Các âm tiết trớc đều đợc phát âm với cao độ cao, các âm tiết sau phát âm
với cao độ thấp.
* Thanh điệu là sự thay đổi về âm điệu, trong những âm tiết trên thì những
âm tiết cùng thuộc độ cao lại đối lập nhau về sự biến thiên của độ cao, trong thời
gian âm tiết la đợc phát âm với cao độ hoàn toàn bằng phẳng; còn lã với đ-
ờng nét biến thiên, cao độ không bằng phẳng, âm điệu là những đờng nét biến
thiên về cao độ.
* Nguyên âm trong Tiếng Việt đợc coi là âm chính, nguyên âm là khi nói
âm vị phát ra luồng hơi đi tự do không có gì cản trở.
VD : Khi phát âm a, á â hơi thoát ra tự do không bị cản ở chỗ nào cho nên
 cũng là nguyên âm. Xét về mặt cấu tạo ngời ta phân chia phân biệt nguyên
âm đơn và nguyên âm đôi.
+ Nguyên âm đôi là âm vị gồm 2 nguyên âm ghép lại liền nhau. Khi phát
âm thì đọc nhanh, đọc lớt từ âm này sang âm kia đầu mạnh sau yếu hơn, do đó
âm sắc chủ yếu của các nguyên âm đôi là do âm đầu quyết định. Có 3 nguyên
âm đôi đó là : uô, ơ, ie. Xét về độ dài, cần phân biệt nguyên âm ngắn và nguyên
âm dài, nguyên âm ngắn khi phát ra không thể kéo dài, nếu kéo dài có thể ảnh
hởng đến nghĩa.
+ Phụ âm : Các âm vị đảm nhiệm thành phần âm đầu của âm tiết Tiếng Việt
bao giờ cũng là các phụ âm. Phụ âm là âm vị khi phát âm luồng hơi đi ra bị cản ở
chỗ nào đó trong bộ máy phát âm, phụ âm có loại bị cản ở môi; có loại bị cản ở
răng, có loại bị cản ở lỡi; có loại bị cản ở thanh hầu. Về phơng thức phát âm ngời
ta chia phụ âm thành :
- Phụ âm tắc : Hơi bị cản lại sau thoát ra đờng miệng vào mũi : b, d, t, s c,
k, m,r, p, ng.
- Phụ âm sát : Hơi đi qua kẽ hở miệng : p, v, s, z, l, x, y, h
- Phụ âm vang : Hơi thoát ra đầu lỡi và bên lỡi : m, n, nh.

- Phụ âm ồn : Hơi thoát ra đằng miệng có tiếng ồn : b, d, t, c, k, p, f, v, x, z,
y, h.
- Phụ âm hữu thanh, vô danh trong các âm ồn: Căn cứ vào chỗ dây thanh có
rung hay không rung ngời ta chia ra :
+ Phụ âm hữu thanh : Dây thanh rung (d, v, y)
+ Phụ âm vô thanh : Dây thanh không rung (t, k, c, b, s, x, h)
- Về vị trí cấu âm ta phân phụ âm thành :
+/ Phụ âm môi : p, b, m, f, v
+/ Phụ âm lỡi : d, t, s, z, l, n
+/ Phụ âm hầu : h
Trong các âm lỡi sự đối lập nhau giữa đầu lỡi hẹp : r, t, s, z, l, n; đầu lỡi
quật : đ, a.
Phần vần là do thành phần của âm đệm, âm chính, âm cuối ghép với nhau
thành một bộ phận gọi là phần vần.
Ví dụ : Âm tiết Loan :
O là âm đệm
A là âm chính
N là âm cuối
Oan là phần vần.
II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo
Âm tiết của ngôn ngữ là đơn vị âm thanh nhỏ nhất trong lời nói không thể
phân chia đợc nữa, lúc đầu trẻ hình thành thính giác. Âm thanh tức là sự phân
biệt các âm của ngôn ngữ còn phát âm chúng sẽ học sau. Sự phát âm đúng có
liên quan chặt chẽ với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan phát âm của trẻ.
Khả năng phát âm của trẻ phụ thuộc vào sự hoàn thiện của bộ máy phát âm.
ở tuổi mẫu giáo những điều kiện này đã đạt đợc mức tơng đối ổn định cho nên
trẻ đã có thể phát âm đợc hầu hết các âm vị. Tuy nhiên một số trẻ vẫn còn mắc
một số lỗi về phát âm.
1. Lỗi về thanh điệu :
Trong số các thanh điệu tiếng Việt, thanh hỏi và thanh ngã là hai thanh có

cấu tạo phức tạp. Việc thể hiện thanh ngã với âm điệu gãy, ở giữa là cách phát
âm khó đối với trẻ. Trẻ thay thế bằng cách phát âm đơn giản hơn tức là với âm
điệu không gãy ở giữa. Vì vậy dễ đồng nhất với âm điệu của thanh sắc.
VD : Phát âm ngã thành ngá hoặc giã thành giá.
- Sự chuyển đổi hớng đi của đờng nét âm điệu thanh hỏi không diễn ra đột
ngột nh thanh ngã, quá trình phát âm kéo dài trở thành khó đối với trẻ nhỏ có hơi
thở ngắn.
- Khi phát âm, trẻ thay thế âm điệu gãy bằng âm điệu không gãy, điều này
làm cho thanh hỏi ở trẻ gần nh đồng nhất với thanh nặng.
- Phát âm hỏi thành họi hoặc phát âm hổ thành hộ. Đến hết tuổi mẫu
giáo lỗi sai về hai thanh này sẽ đợc khắc phục hầu nh hoàn toàn.
2. Lỗi về âm chính :
Lỗi về âm chính tập trung vào việc trẻ phát âm nguyên âm đôi này thành
nguyên âm đôi kia.
Ví dụ : Trẻ phát âm con hơu thành con hiêu, con Ngỗng thành Con
Ngống
Trẻ phát âm sai là do tập quán của địa phơng hoặc do nghe cha chính xác,
các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi làm cho cấu tạo của âm tiết phức tạp
hơn, phát âm khó khăn hơn.
3. Lỗi phụ âm đầu :
Trẻ thờng hay nói lẫn lộn : l , n
Ví dụ : Con lợn thành con Nợn; Cái nồi thành cái lồi.
- Lỗi lẫn tr thành ch ; s - x; r - d
Gà trống phát âm thành gà chống.
Hoa sen thành Hoa xen
Con rùa thành Con dùa.
- Lỗi lẫn r thành d; gi thành d : cái rổ thành cái dổ; cô giáo thành cô dáo.
Một số trẻ khi phát âm phụ âm P trẻ lẫn sang phụ âm b
VD : Đèn pin thành đèn bin
4. Lỗi về âm đệm :

Âm đệm chỉ đợc đọc lớt qua nên trẻ khó ghi nhận những âm chính vì thế
âm đệm thờng bị bỏ qua.
VD : Trẻ phát âm quả quất thành quả cất; loắt choắt thành lắt chắt
5. Lỗi về âm cuối :
Trong phụ âm đứng làm âm cuối thì những cặp ch và nh trẻ phát âm thành t,
n.
VD : Anh Tú thành ăn Tú, cây xanh thành cây xăn, vòng quanh thành vòng
quăn
III Nội dung và phơng pháp rèn luyện phát âm.
Đối với trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo dễ hình thành sự phát âm đúng hơn
khi đã trởng thành. Điều quan trọng là cô giáo mẫu giáo đều cần phải nói đúng
để làm mẫu cho trẻ.
Sự phát âm của trẻ phụ thuộc vào bộ máy phát âm, để dạy trẻ phát âm đúng cần
thờng xuyên luyện tập một số cơ quan phát âm nh : môi, lỡi, răng, sự phát triển
linh hoạt của hàm. Cần giúp trẻ biết điều khiển nhịp nhàng các cử động của bộ
máy phát âm. Sự phát âm rõ ràng các âm, các từ phụ thuộc vào sự chính xác và
lực của các cử động của bộ máy phát âm. Rất nhiều trẻ nói không rõ, từ này
trộn lẫn với từ kia thành một tập hợp âm khó hiểu. Nguyên nhân là cử động
chậm chạp của môi và lỡi, tính linh hoạt của hàm còn yếu do đó miệng của trẻ
há không to và các nguyên âm phát ra không đúng, sự phát âm không rõ ràng,
các từ phụ thuộc vào sự phát âm của các nguyên âm có đúng không và sau đó
phụ thuộc vào sự điều hoà các hoạt động của bộ máy phát âm khi xác lập các
phụ âm. Tập luyện cơ của bộ máy phát âm là trọng tâm và cần thiết nh tập thể
dục để phát triển cơ thể ở mẫu giáo, không nên xem việc dạy phát âm chỉ dành
cho các cháu có tật mà làm cho tất cả các cháu.
Giờ dạy phát âm phải đợc tiến hành thờng xuyên, có hệ thống, ở nhóm nhỏ
hớng dẫn hàng ngày; còn ở nhóm lớn tối thiểu 3 - 4 lần trong 1 tuần. Những bài
học luyện bộ máy phát âm ở trờng mẫu giáo thờng mang tính chất trò chơi nh
bắt chớc tiếng kêu của các loài vật nh : cạc cạc (vịt); gâu gâu (chó); meo meo
(mèo); ộp ộp (ếch).

Trò chơi : Con gì kêu đấy : Cô giáo treo trên bảng tranh vẽ những con vật,
đồ vật và cho cháu đoán hoặc bày lên bàn những đồ chơi là con vật hay đồ vật có
tiếng kêu mà các cháu sẽ đố nhau, cô bảo các cháu nhìn lên tranh và lên đồ chơi
rồi gọi tên chúng sau đó cô bắt chớc tiếng kêu của từng con vật hoặc đồ chơi và
yêu cầu trẻ nói đúng tên con vật và đồ vật đó.
VD : Cô nói tu tu, xình xịch các cháu phải nói tàu hoả; cô nói vịt vịt thì trẻ
nói vịt con; chiếp chiếp thì nói gà con, cô nói ò ó o thì nói gà trống gáy Hoặc
cô có thể cho một cháu ra ngoài lớp, sau đó cô và cháu ở trong lớp chọn một con
vật cất đi, cho cháu đó vào thì cô và cháu ở trong lớp bắt chớc tiếng kêu của con
vật đó hoặc tiếng động cơ của đồ chơi, sau đó cô bảo cháu đó nói tên con vật tên
đồ chơi.
Trong mẫu giáo lớn để hoàn chỉnh cách phát âm thờng sử dụng bài tập, đặc
biệt học thuộc lòng các bài thơ, những câu nói nhanh là một hay nhiều câu khó
phát âm mà trong đó một âm có thể đợc nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Đầu tiên cô
đọc mẫu, cô chọn những câu nói nhanh cần thiết trong một thời hạn dài, nếu
trong một tháng trẻ học thuộc 1 trong 2 câu thì trong 1 năm cần chọn 10 -15 câu
có mức độ phức tạp khác nhau. Cho trẻ làm quen với những câu dễ trớc, câu khó
sau. Trẻ sử dụng câu nói nhanh trong giờ học, trong khi chơi và các giờ hoạt
động ngoài trời.
Những câu có thể dùng cho các cháu nói nhanh nh :
Hoa sen, hoa súng
Hoa súng, hoa sen
Buổi sáng mặt trời mọc
Mặt trời mọc buổi sáng
Nồi đồng nấu ốc
Nồi đất nấu ếch
Mục đích của việc sử dụng những câu nói nhanh là tập luyện bộ máy phát
âm. Trớc khi cho trẻ tập nói cô giáo phải nói mẫu, cô đọc chậm rõ ràng sau đó
nói nhanh dần rồi cho trẻ tự nói thầm một mình để nhắc lại câu nói nhanh, lúc
đầu cô gọi các cháu có trí nhớ tốt và có cách phát âm đúng. Đầu tiên cho trẻ nói

chậm rõ ràng sau đó nói nhanh dần cô gọi tiếp các cháu còn lại nhắc lại câu nói
nhanh.
Khi hớng dẫn tập nói nhanh cô giáo phải tiến hành trình tự nh trên không
vội vàng, hấp tấp có thể làm cho trẻ mắc tật nói lắp, nói nhịu.
Để luyện tập cách phát âm cho cháu cô giáo có thể đọc cho các cháu nghe
những bài thơ , những đoạn văn trong đó có những từ mà các cháu thờng nói sai,
cho các cháu đọc lại những bài thơ những đoạn văn này và rèn luyện cách phát
âm cho các cháu.
VD : Để luyện phát âm l và n cô giáo có thể dùng các bài thơ sau :
Mồng một lỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lỡi liềm
Mồng năm liềm giật
Mời rằm trăng náu
Mời sáu trăng treo
Tập tầm vông
Tay nào không
Tay nào có
Tập tầm vó
Tay nào có
Tay nào không
Khi chữa lỗi phát âm cho trẻ không nên nhắc nhiều đến lỗi, cần hớng sự tập
trung của trẻ vào phát âm cho đúng. Bộ máy phát âm của trẻ đợc hoàn chỉnh vào
những năm đầu của tuổi mẫu giáo (4 -5 tuổi) cho nên ở mẫu giáo bé và mẫu giáo
nhỡ cùng một lúc phải củng cố những âm khó và xoá bỏ lỗi nói ngọng do đặc
điểm lứa tuổi gây ra.
* Chú ý : Cha có thể phân tích với các cháu rằng muốn phát đúng thì bộ
máy phát âm phải nh thế nào? Phải cho các cháu sử dụng nhiều lần âm vị định
luyện, tác dụng âm học sẽ thúc đẩy hình thành những tác động cấu âm tơng ứng.

Nhìn chung trẻ mẫu giáo lớn tiếp thu nhậy bén cách phát âm của những ng-
ời xung quanh, trẻ chuyển giọng rất nhanh. Khi chuyển chỗ ở từ địa phơng này
sang địa phơng khác, tác dụng của môi trờng xung quanh rất quan trọng. Vì vậy
phải tạo một môi trờng với cách phát âm đúng quy cách. Trong các gia đình, cha
mẹ và những ngời lớn tuổi chú ý đến cách phát âm của mình; ở trờng mẫu giáo
cô phải phát âm đúng làm mẫu cho các cháu học nói, ngôn ngữ của cô giáo trong
việc giáo dục trẻ có thể gọi là ngôn ngữ hoàn chỉnh, khi nói chuyện với nhau ng-
ời ta ít chú ý đến sự chính xác của các âm và thờng có lỗi về phát âm đó là ngôn
ngữ cha hoàn chỉnh. Còn trong trờng mẫu giáo cô phải sử dụng ngôn ngữ hoàn
chỉnh, ngôn ngữ hoàn chỉnh có đặc điểm khi nói các âm nghe rõ ràng chính xác
và âm điệu chậm rãi. Trong đời sống hàng ngày thỉnh thoảng cô có thể sử dụng
ngôn ngữ cha hoàn chỉnh. Cô mẫu giáo nên tổ chức cho các cháu nghe đài phát
thanh , xem vô tuyến, nghe băng, nghe đĩa. Cô hớng trẻ chú ý nghe các phát
thanh viên phát âm rõ ràng, chính xác. Cô giáo cần bỏ thời gian công sức học tập
để đạt tới ngôn ngữ văn học.
Chơng II
Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của trẻ mẫu giáo lớn
I. Cơ sở tiến hành khảo sát
Khảo sát thực trạng khả năng phát âm của 30 cháu ở trờng Mầm non Dị
Nậu - Tam Nông - Phú Thọ. Trờng thuộc một xã vùng nông thôn miền núi. Các
cháu chủ yếu là con em nông thôn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc
dạy và học còn thiếu thốn. Các lớp học xây dựng không đúng tiêu chuẩn. Hiện
nay nhà trờng có 3 lớp 5 tuổi đang tiến hành chơng trình thực nghiệm về Đổi
mới hình thức tổ chức giáo dục trẻ trong trơng mầm non cho nên các cháu có
rất nhiều thuận lợi trong học tập.
- Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên không đồng đều. Tổng số giáo
viên của trờng là 6 ngời.
1 Hiệu trởng : Cao đẳng
1 hiệu phó : Trung cấp (trực tiếp giảng dạy)
4 giáo viên trực tiếp giảng dạy.

- Trang thiết bị và đồ dùng dạy học : Còn thiếu thốn nhiều. Hàng năm nhà
trờng thờng xuyên mua thêm đồ dùng, đồ chơi mới và phát động thi đua làm đồ
dùng, đồ chơi đồng thời huy động sự đóng góp về phía cha mẹ học sinh để làm
phong phú thêm đồ chơi cho các cháu.
Các giáo viên đều yêu nghề mến trẻ, nắm chắc các phơng pháp chăm sóc
nuôi dạy trẻ trong trờng mầm non.
Nhờ những yếu tố trên trẻ học ở trong trờng có đủ điều kiện phát triển toàn
diện đồng thời việc rèn khả năng phát âm cho trẻ cũng có thuận lợi hơn.
I. Khách thể nghiên cứu :
Chọn 30 cháu mẫu giáo lớn của 3 lớp 5 tuổi tại trờng mầm non Dị Nậu -
Tam Nông - Phú Thọ.
Dựa vào kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng của trẻ mẫu
giáo lớn tôi đánh giá xếp loại khả năng phát âm đúng của trẻ theo 4 loại : tốt,
khá, trung bình, yếu :
- Cháu không mắc lỗi : Tốt
- Cháu mắc từ 1 - 3 lỗi : khá
- Cháu mắc từ 4 - 6 lỗi : trung bình
- Cháu mắc từ 7 lỗi trở lên : Yếu
II. Cách tiến hành khảo sát :
Tôi đã sử dụng các biện pháp khảo sát sau :
- Biện pháp thứ nhất : trò chuyện với trẻ để biết khả năng phát âm của trẻ.
- Biện pháp thứ hai : Tôi gọi trẻ lên đọc các bài ca dao, đồng dao mà cháu
thích để nghe phát âm của trẻ.
- Biện pháp thứ 3 : Tôi đa tranh các con vật, đồ vật, đồ chơi, các loại hoa,
loại quả cho trẻ xem để nghe khả năng phát âm của trẻ.
Biện pháp thứ 4 : Gọi trẻ lên đọc các bài thơ để nghe phát âm của trẻ.
Từ những kết quả trên tôi đã lập bảng khảo sát thực trạng khả năng phát âm
đúng của trẻ nh sau :
Bảng
III . Kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm đúng

lứa tuổi mẫu giáo lớn
Qua khảo sát thực trạng cho thấy kết quả phát âm của trẻ mẫu giáo lớn ở 3
lớn 5 tuổi ở trờng mầm non Dị Nậu - Tam Nông - Phú Thọ thu đợc kết quả nh
sau :
1. Lớp 5 tuổi A
Loại trung bình : 7 cháu = 70%
Loại yếu : 3 cháu = 30%
2. Lớp 5 tuổi B
Loại khá : 02 cháu : 20 %
Loại trung bình : 5 cháu = 50%
Loại yếu : 03 cháu = 30%
3. Lớp 5 tuổi C
Loại tốt : Không
Loại khá : 01 cháu : 10 %
Loại trung bình : 4 cháu = 40%
Loại yếu : 05 cháu = 50%
Phân tích kết quả cho thấy khả năng phát âm của trẻ cũng tăng dần theo tháng
tuôỉ của cháu. Cháu nào sinh vào những tháng cuối năm thì khả năng phát âm
hơi yếu hơn các cháu sinh vào những tháng đầu năm.
Sau đây là một số cháu mắc lỗi nhiều với lý do cụ thể nh sau :
- Cháu Nguyễn Quang Minh sinh ngày 6/10/1998 bị mắc 09 lỗi, gia đình
cháu ở trang trại trong rừng, cả hai bố mẹ đều làm nghề buôn bán không có thời
gian quan tâm đến con caí dẫn đến khả năng phát âm của cháu kém.
cháu bị suy dinh dỡng hay ốm hay nghỉ học nên cháu còn mắc nhiều lỗi phát âm.
- Cháu Trần Minh Thắng lớp 5 tuổi C sinh ngày 15/12/1998 có bố mẹ đều
làm ruộng nên không có thời gian quan tâm để ý đến cháu. Gia đình cháu sống ở
xã Dị Nậu là nơi dân thờng phát âm sai lẫn lộn giữa n - l ; s - x; r - d nên cháu
cũng bị ảnh hởng, cháu mắc 10 lỗi trong đó có cả lỗi về thanh điệu.
- Cháu Hán Thị Hà lớp 5 tuổi C sinh ngày 12/10/1998 sức khoẻ của cháu
yếu, bị suy dinh dỡng độ 2, cháu ít giao tiếp với bạn bè và mọi ngời xung quanh

nên khả năng phát âm còn nhiều hạn chế, cháu mắc 9 lỗi phát âm.
Qua khảo sát thực trạng phát âm của trẻ thì ở độ tuổi mẫu giáo lớn các
cháu vẫn còn mắc lỗi về phụ âm , thanh điệu, phần vần. Trẻ phát âm khó, còn lẫn
lộn phụ âm và thanh điệu với một số phần vần phát âm khó và thanh điệu gãy.
Nguyên nhân chính là do bộ máy phát âm của trẻ nh môi, lỡi chuyển động cha đ-
ợc linh hoạt nên dẫn đến sai sót trên; Do tiếng địa phơng hay nói ngọng (l, n)
cho nên các cháu cũng ảnh hởng phụ âm đó; Do một số gia đình các chaú làm
nông nghiệp không có điều kiện quan tâm đến sự phát âm của trẻ, không sửa sai
cho trẻ; Do các cháu nhút nhát ít giao tiếp nói năng với bạn bè, cô giáo. Khi cô
giáo hỏi không dám nói còn sợ sệt cũng ảnh hởng tới khả năng phát âm của trẻ.
Vì vậy trẻ phát âm sai mà không biết.
CHơng III
Một số biện pháp luyện phát âm cho trẻ mẫu giáo lớn
1. Dạy phát âm là dạy trẻ biết phát âm chính xác những thành phần của âm
tiết, không ngọng, không lắp. Muốn dạy trẻ phát âm đúng ta cần phải có biện
pháp sau :
- Cho trẻ bắt chớc tiếng kêu của con vật, đồ vật và gọi đúng tên.
- Dạy trẻ đọc thuộc thơ, những câu ca dao, câu đồng dao.
- Trò chuyện cùng với trẻ để sửa lỗi phát âm.
Những biện pháp tác động vào trẻ để luyện khả năng phát âm đúng cụ thể
nh :
1. Cho trẻ bắt chớc tiếng các con vật, đồ vật và gọi đúng tên của con vật đồ
vật đó :
Cô đa tranh ô tô ra cho trẻ nói tên sau đó cho trẻ bắt chớc tiếng còi ô tô Pin,
pin. Một số trẻ phát âm thành Bin, bin. Cô sửa sai ngay cho các cháu bằng cách
cô phát âm lại cho trẻ nghe và dạy trẻ cách phát âm, cách bật môi. Cháu lắng
nghe và quan sát cô phát âm sau đó cho trẻ phát âm lại vài lần để sửa lỗi.
Cô treo tranh con Hơu Một số cháu sẽ phát âm sai thành con Hiêu cô
trực tiếp sửa sai ngay. Cô nói chậm, rõ ràng sau đó cô cho cả lớp phát âm lại rồi
gọi từng cháu lên đọc lại. Mỗi trẻ phát âm lại từ con Hơu 2 -3 lần để luyện

cách phát âm đúng.
Việc sửa lỗi phát âm cho trẻ phải đợc tiến hành thờng xuyên, dùng các trò
chơi gọi tên và bắt chớc tiếng kêu của con vật, đồ vật, động cơ để gây đợc
hứng thú cho trẻ thì sẽ đem lại kết quả tốt hơn.
2. Dạy trẻ đọc thuộc các bài thơ, ca dao, đồng dao thông qua đó để luyện
phát âm.
Việc rèn phát âm cho trẻ bằng cách dạy trẻ học thuộc các bài ca dao, đồng
dao chính là để rèn bộ máy phát âm của trẻ. Muốn rèn phát âm cho trẻ thì trớc
hết cô phải là ngời phát âm đúng, chính xác. Lúc đầu cô cho trẻ đọc các bài thơ
ngắn, đơn giản rồi sau đó cô nâng dần lên với những bài thơ dài hơn và khó hơn
để làm tăng khả năng phát âm của trẻ. Cô chú ý vào những từ trẻ hay mắc lỗi,
cho trẻ đọc nhiều lần và kiên trì sửa sai cho trẻ.
Vd : Để luyện lỗi phát âm lẫn lộn giữa l và n ta có thể dùng bài đồng
dao sau :
Nu na nu nống
Con cống nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai chấm mật
Tập tầm vông
Tay nào không
Tay nào có
Tập tầm vó
Tay nào có
Tay nào không
Khi chữa lỗi phát âm cho trẻ không nên nhắc nhiều đến lỗi, cần hớng sự
chú ý của trẻ tập trung vào phát âm cho đúng. Khi dạy trẻ đọc thuộc các bài thơ
cô rèn cho trẻ cách phát âm đúng chữ n trong bài nu na nu nống. Khi đọc
các cháu phải đặt đầu lỡi chạm vào răng hàm trên và miệng mở khi phát âm
n . Cô phát âm mẫu rồi cho cả lớp phát âm lại. Cô tập cho trẻ phát âm nhiều
lần các từ đó rồi cho các cháu học thuộc thì các từ khó, dễ nhầm các cháu sẽ dần

dần sửa đợc. Sửa lỗi cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi nh kể chuyện cho trẻ nghe; cho
trẻ đàm thoại; kể chuyện và trong các hoạt động khác. Cô hớng dẫn trẻ khi đọc
chữ L thì lỡi để lên phía trớc của hàm răng trên, uốn lỡi cong lên phía trên chỗ
ngời ta gọi là hàm ếch. Cô đọc nhấn mạnh để trẻ cố gắng phát âm đúng. Cho
cháu đọc đi đọc lại nhiều lần đến khi thuộc lòng thì về căn bản cháu sẽ sửa đợc
lỗi.
Với những cháu phát âm sai L thành N, cô cũng rèn bàng cách cho trẻ đọc
những bài thơ có âm L nh sau :
Mồng một lỡi trai
Mồng hai lá lúa
Mồng ba câu liêm
Mồng bốn lỡi liềm
Mồng năm liềm giật
Mồng sáu thật trăng
Mồng bảy trăng láu
Hoặc bài
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo vào leo ra
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt leo ra leo vào.
Cô dạy các cháu thuộc hai bài thơ trên nhằm luyện phát âm L cho trẻ. Trớc
khi dạy trẻ thì cô phải đọc rõ ràng, mạch lạc, đúng nhịp điệu bài thơ, để cảm
nhận cái hay cái đẹp của bài thơ. Từ đó giúp trẻ có hứng thú trong việc học thì
việc luyện phát âm sẽ có kết quả hơn. Phụ âm l là phụ âm đầu lỡi, hớng dẫn
các cháu đọc chữ l, khi đọc đầu lỡi để lên phía trớc của hàm răng trên một
chút, uốn lỡi cong lên phía trên ngời ta gọi là hàm ếch. Cô phát âm lại l cả lớp
đọc theo cô và đọc thuộc baì thơ. Trong khi đọc thơ cô cũng sửa sai phát âm cho
các cháu bằng cách cô đọc các từ có âm l nhấn mạnh để trẻ biết đợc và cố
gắng phát âm đúng. VD khi đọc câu thơ mồng hai lá lúa từ lá lúa cô đọc
nhấn mạnh để các cháu sửa sai. Các câu thơ sau cũng sửa nh vậy và cuối cùng cô

cho trẻ đọc thuộc bài thơ.
Với những cháu phát âm phần vần oanh, anh đọc thành oăn, ăn, cô sử
dụng những bài thơ có vần anh, oanh rèn phát âm cho trẻ nh :
Bắp cải xanh
Xanh man mát
Lá bắp cải
Sắp vòng tròn
Bắp cải non
Nằm ngủ giữa
Với những bài thơ để luyện phát âm phần vần cho trẻ cô cũng sử dụng biện pháp
đọc nhấn mạnh phần vần và đọc nhiều lần cho trẻ nghe. Đồng thời cô khuyến
khích động viên trẻ đọc giống cô để sửa sai.
Với các cháu phát âm sai phụ âmr và d thì cô sử dụng những bài thơ
sau :
Rì rà rì rà
Đội nhà đi chơi
Tối lặn mặt trời
úp nhà đi ngủ
Rềnh rềnh ràng ràng
Ba gang chiếu trải
Xích lại cho gần
Một ngời hai chân
Hai ngời bốn chân
Ba ngời sáu chân
Bốn ngời tám chân
Chân gày chân béo
Dệt vải cho bà
Vải hoa vải trắng
Đến khi trời nắng
Đem vải ra phơi

Đến mốt đẹp trời
Đem ra may áo
Rềnh rềnh ràng ràng
Dạy trẻ đọc thuộc những bài thơ, ca dao, đồng dao nhằm mục đích để luyện
phát âm cho trẻ , giúp cho sự chuyển động của lỡi đợc linh hoạt dẫn đến sự phát
âm đúng.
Để luyện cho những cháu phát âm sai s và x cô sử dụng bài :
Hoa sen đã nở
Rực rỡ đầy hồ
Thoang thoảng gió đa
Mùi hơng man mát
Lá sen xanh ngắt
đọng hạt sơng đêm
gió rung êm đềm
sơng long lanh chạy.
3. Trò chuyện cùng với trẻ
Khi trò chuyện cùng với trẻ cô phát hiện ra trẻ phát âm sai để cô kịp thời
uốn nắn riêng cho từng cháu. Biện pháp luyện phát âm cho trẻ là cô luyện phát
âm ở mọi lúc, mọi nơi , với giờ hoạt động vui chơi hoạt động góc, cô cùng trao
đổi với trẻ về các đồ chơi, đồ dùng học tập, các trò chơi dân gian. Cô chú ý sửa
sai cho các cháu ngay sau khi trẻ mắc lỗi.
Với giờ hoạt động ngoài trời, cô cùng trẻ quan sát cảnh vật xung quanh, cô
trò chuyện với các cháu về một vài chủ đề nào đó nh về các mùa chẳng hạn : Với
trẻ phát âm sai trời nắng thành trời lắng cô sửa ngay bằng cách cô phát âm
mẫu rồi cho trẻ phát âm lại hai, ba lần. Thỉnh thoảng cô kiểm tra lại xem mức
độ tiến bộ của trẻ đến đâu. Nếu trẻ cha phát âm đúng cô kiên trì sửa lại cho trẻ.
Trong quá trình thử nghiệm việc luyện phát âm cho trẻ bằng các biện pháp
trên ta thấy nếu có sự quan tâm tác động thờng xuyên tới trẻ thì khả năng phát
âm đúng của trẻ sẽ tiến bộ rất nhiều, bởi vì trẻ tiếp thu rất nhạy bén cách phát âm
của ngời lớn xung quanh, nhất là cô giáo là ngời luôn theo dõi uốn nắn. Chính vì

vậy mà khi thực hiện các biện pháp trên để luyện phát âm đúng cho trẻ tôi thấy
khả năng phát âm của trẻ tăng lên rõ rệt.
Sau đây là bảng khảo sát kết quả sau khi đã làm thực nghiệm sử dụng các
biện pháp luyện phát âm tác động vào trẻ
Bảng ngang
Sau khi dùng các biện pháp tác động vào trẻ để luyện phát âm, ta có kết quả
sau :
1. Lớp 5 tuổi A:
Loại tốt : 3 cháu 30%
Loại khá :6 cháu 60%
Loại TB : 1 cháu 10 %
2. Lớp 5 tuổi B
Loại tốt : 4 cháu = 40%
Loại khá : 5 cháu 50%
Loại TB : 01 cháu = 10%
3. Lớp 5 tuổi C
Loại tốt : 2 cháu 20%
Loại khá : 7 cháu 70%
Loại TB : 1 cháu 10%
Bảng so sánh khả năng phát âm của trẻ qua hai giai đoạn
1. Lớp 5 tuổi A
Stt
Nguyễn Thế Bờng
Ngày sinh
Thực
trạng
Sau khi tác
động
1 Tạ Thuý Hằng 12/6/1998 Trung bình Tốt
2 Nguyễn Bích Ngọc 6/5/1998 Trung bình Khá

3 Lê Mạnh Hùng 6/5/1998 Trung bình Khá
4 Nguyễn Thị Hơng 11/4/1998 Trung bình Khá
5 Phạm Thu Hà 20/3/1998 Yếu Khá
6 Trần Xuân Cờng 7/10/1998 Trung bình Tốt
7 Trần Xuân Huy 20/11/1998 Trung bình Tốt
8 Tạ Mai Linh 15/7/1998 Yếu Khá
9 Đinh Quang Huy 20/2/1998 Trung bình Khá
10 Nguyễn Quang Vinh 6/10/1998 Yếu Trung bình
2. Lớp 5 tuổi B
Stt Họ và tên Ngày sinh
Thực
trạng
Sau khi tác
động
1 Trần Nam Phơng 16/5/1998 Yếu Khá
2 Nguyễn Hán Phợng 22/2/1998 Trung bình Tốt
3 Nguyễn Bích Thuỷ 10/3/1998 Trung bình Khá
4 Nguyễn Thái Ngọc 12/4/1998 Trung bình Tốt
5 Tạ Thị Th 6/5/1998 Khá Tốt
6 Tạ Thị Thuý 20/3/1998 Trung bình Khá
7 Phan Thế Toản 12/6/1998 Yếu TB
8 Ngô Văn Tuấn 7/6/1998 Trung bình Tốt
9 Nguyễn Minh Huệ 6/10/1998 Khá Tốt
10 Trần Tuấn Toàn 18/10/1998 YếU Khá
Lớp mẫu giáo 5 tuổi C
Stt Họ và tên Ngày sinh
Thực
trạng
Sau khi tác
động

1 Nguyễn Văn Cơ 12/10/1998 Trung bình Khá
2 Tạ Minh Hải 20/6/1998 Khá Tốt
3 Hán Thị Hà 12/10/1998 Yếu Trung bình
4 Bùi Mạnh Dơng 21/12/1998 Trung bình Tốt
5 Tạ Minh Thoa 16/12/1998 Khá Khá
6 Tạ Thuỳ Tiên 26/11/1998 Trung bình Khá
7 Trần Minh Thắng 15/12/1998 Yếu Khá
8 Bùi Minh Phú 26/10/1998 Yếu Khá
9 Bùi Minh Thành 27/12/1998 Yếu Khá
10 Tạ Công Phú 17/10/1998 Trung bình Khá
Kết luận
Qua khảo sát ta thấy khả năng phát âm đúng của trẻ đợc tăng dần theo tháng tuổi
là phù hợp với sự phát triển của trẻ, phù hợp với sự hoàn thiện của cơ quan phát
âm một cách bình thờng. Tuy nhiên sự tác động của cha mẹ và những ngời lớn
xung quanh trẻ cũng có ảnh hởng lớn đến sự phát âm của trẻ. Trong quá trình
học phát âm đúng của trẻ, cô giáo mẫu giáo có vai trò hết sức quan trọng. Nếu cô
giáo mẫu giáo luôn chú ý đến việc luyện phát âm cho trẻ thì khả năng phát âm
đúng của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo lớn là lứa tuổi hoàn thiện khả năng phát âm
nhanh nhất. Muốn vậy, việc luyện phát âm đúng cho trẻ phải đợc tiến hành thờng
xuyên, liên tục ở mọi nơi, mọi lúc. Việc luyện phát âm cho trẻ có thể thông qua
một số biện pháp cơ bản nh :
- Cho trẻ bắt chớc tiếng kêu con vật, đồ vật
- Dạy trẻ đọc thuộc các bài ca dao, đồng dao
- Trò chuyện với trẻ để sửa lỗi phát âm.
Thông qua việc làm thực nghiệm tác động các biện pháp trên để luyện phát âm
đúng với các cháu mẫu giáo lớn ở trơng mầm non Thuỵ Vân - Việt Trì . Kết quả
thu đợc sau khi làm thực nghiệm là khả năng phát âm đúng của các cháu tăng
lên rõ rệt.
PHầN III
Kết luận - kiến nghị s phạm

I. Kết luận
Dạy trẻ phát âm đúng là dạy trẻ phát âm chính xác những thành phần của
âm tiết (thanh điệu, phụ âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối). Dạy trẻ phát âm
đúng, phát âm chuẩn là biết điều chỉnh âm lợng khi nói, đồng thời phát triển
ngôn ngữ mạch lạc, giúp trẻ có thuận lợi trong học tập cũng nh trong giao tiếp
với những ngời xung quanh.
Trong cuộc sống hàng ngày, con ngời phải dùng ngôn ngữ là phơng tiện
giao tiếp và trao đổi các vấn đề với nhau. Thông qua ngôn ngữ nói, nếu muốn
ngời nghe hiểu đợc thì phải có ngôn ngữ mạch lạ, muốn có ngôn ngữ mạch lạc
thì trớc tiên phải luyện phát âm tốt, cho nên việc luyện phát âm đúng có một vai
trò hết sức quan trọng trong việc dạy trẻ phát âm đúng.
Khả năng phát âm của trẻ phụ thuộc vào bộ máy phát âm, ở lứa tuổi mẫu
giáo lớn các cháu phát âm còn mắc nhiều lỗi, không phát âm đợc những âm khó.
Vì vậy cô giáo cần phải thờng xuyên luyện tập phát âm cho trẻ. Do đặc điểm ở
lứa tuổi này trẻ rất dễ bắt chớc tiếng phát âm của cô, theo đó cô nên chú ý luyện
phát âm cho trẻ bằng nhiều biện pháp và sáng tạo ra các loại bài tập phát âm để
luyện cho trẻ.
Thông qua các biện pháp tác động tới trẻ mẫu giáo lớn ta thấy nếu có sự
tác động tích cực của cô giáo và ngời lớn xung quanh thì các cháu sẽ nhanh
chóng phát âm đúng làm cho ngôn ngữ nói của trẻ đợc mạch lạc. Khi nói ngời
nghe dễ hiểu nội dung muốn trình bày.
Kiến nghị s phạm
1. Chơng trình chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo cần có những giờ học phát
triển ngôn ngữ. Thông qua các biện pháp tác động vào trẻ mẫu giáo lớn ta thấy
khả năng phát âm của trẻ đợc tốt hơn. Vì vậy, các trờng mầm non cần coi trọng
các biện pháp luyện phát âm cho trẻ mẫu giáo lớn bằng cách tổ chức các trò
chơi; cho trẻ bắt chớc tiếng kêu các con vật, đồ vật và đặc biệt tích cực dạy trẻ
đọc thuộc các bài thơ, ca dao, đồng dao có tác dụng luyện phát âm và tăng vốn
từ nhanh cho trẻ kết hợp trò chuyện cùng trẻ để luyện phát âm cho từng trẻ.
2. Các biện pháp trên không những có tác dụng luyện phát âm tốt cho trẻ

mà còn giúp trẻ phát triển cảm giác, tri giác, trí nhớ để làm giàu vốn từ cho trẻ và
phát triển ngôn ngữ mạch lạc, đồng thời giúp trẻ hiểu đợc thế giới xung quanh và
các mối quan hệ của chúng. Tất cả những điều đó đều tạo thuận lợi để trẻ mẫu
giáo lớn sau này bớc vào học trờng phổ thông đợc thuận lợi hơn, dễ dàng hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non từ lọt lòng đến 6 tuổi :
Nguyễn ánh Tuyết - Nguyễn Nh Mai - Đinh Kim Thoa -1994
2. Tâm lý trẻ em :
TS Nguyễn Công Hoàn và Nguyễn Mai Hà - 1994
3. Sinh lý trẻ em :
PGS - T.s Tạ Thuý Loan và Trần Thị Loan -1995
5. Phơng pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo :
Nguyễn Xuân Khoa - 1997
6. Tiếng Việt dùng cho hệ đào tạo giáo viên mầm non (Tập II) :
Nguyễn Xuân Khoa - 1997
Phụ lục
Phần I : mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. phơng pháp nghiên cứu
5. Đối tợng và khách thể nghiên cứu
Phần II : Nội dung nghiên cứu
Chơng I : cơ sở lý luận
I. Đăc điểm của âm tiết Tiếng Việt
II. Những đặc điểm phát âm của trẻ mẫu giáo
III. Nội dung và phơng pháp luyện phát âm cho trẻ
Chơng II : Khảo sát thực trạng khả năng phát âm
của trẻ mẫu giáo
I. Cơ sở tiến hành khảo sát

II. Cách tiến hành khảo sát
III. Kết quả khảo sát thực trạng khả năng phát âm
của trẻ mẫu giáo lớn.
Chơng III. Một số biện pháp luyện phát âm cho trẻ
1. Cho trẻ bắt chớc tiếng con vật, đồ vật và đồ chơi
2. Dạy trẻ học thuộc thơ, ca dao, đồng dao
3. Trò chuyện cùng trẻ.
Phần III
Kết luận - Kiến nghị s phạm
I. Kết luận
II. Kiến nghị s phạm

×