Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

ĐỘI NGŨ NGƯỜI LÀM BÁO TỈNH THANH HÓA HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.95 KB, 88 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Báo chí cách mạng Việt Nam là công cụ xung kích và sắc bén trên mặt trận
tư tưởng - văn hóa, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo chí cách mạng hiện nay không chỉ truyền bá
tư tưởng cách mạng, vận động tổ chức quần chúng làm cách mạng, đồng thời là
diễn đàn phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng, với Nhà nước
mà còn là phương tiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình; là nhịp
cầu nối liền giữa Đảng với dân và giữa dân với Đảng.
Trong sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa
(HĐH) đất nước hiện nay, khi toàn Đảng, toàn dân đang ra sức phấn đấu xây
dựng và phát triển đất nước nhằm đạt bằng được mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh như tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
đã nêu, báo chí càng phải không ngừng đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ mới.
Trong bối cảnh cách mạng hiện nay, bên cạnh những thuận lợi rất cơ bản là
những khó khăn, thách thức, nguy cơ tiềm ẩn đối với đất nước ta, đó là những
tiêu cực, tham nhũng, thoái hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức
Nhà nước; là những tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng; các thế lực thù địch vẫn
ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”; các xung
đột khu vực, nội tại một số nước xảy ra liên tục và diễn biến phức tạp. Trong
bối cảnh xã hội chung đó, báo chí cũng đứng trước nhiều vấn đề mới, rất phức
tạp. Mặt khác, trong xu thế toàn cầu hóa thông tin hiện nay, khoa học - kỹ thuật
tiên tiến phát triển như vũ bão, việc ứng dụng các công nghệ mới, hiện đại vào
tác nghiệp báo chí được thực hiện thường xuyên liên tục, do đó vấn đề đặt ra là
phải hết sức chú trọng củng cố, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của các
phương tiện truyền thông đại chúng, mà then chốt lại là đổi mới chất lượng đội
ngũ những người làm báo, bởi vì nhân tố con người quyết định mọi thành công.
2
Thanh Hóa hiện nay có 5 cơ quan báo chí của tỉnh và 22 cơ quan đại diện,


phóng viên thường trú của các bộ, ngành Trung ương, tỉnh, thành phố. Chỉ riêng
đội ngũ những người làm báo của các cơ quan báo chí trong tỉnh bao gồm: Báo
Thanh Hóa, Đài Phát thanh - Truyền hình (PTTH) Thanh Hóa, Báo Văn hóa và
Đời sống, Tạp chí Xứ Thanh, Văn phòng Hội Nhà báo tỉnh đã có 338 cán bộ,
phóng viên, biên tập viên. Tuy nhiên, chất lượng được đào tạo về nghiệp vụ báo
chí của đội ngũ những người làm báo này vẫn còn những bất cập, hạn chế trong
việc ứng dụng phương pháp tác nghiệp mới, công nghệ hiện đại vào tác nghiệp.
Do đó việc đổi mới chất lượng đội ngũ những người làm báo tỉnh Thanh Hóa
thời điểm hiện nay là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ những lý do cơ bản đã nêu, tôi cho rằng, muốn báo chí cả nước
nói chung, báo chí Thanh Hóa nói riêng thực sự phát triển, hội nhập sâu và làm
tốt vai trò của mình thì việc nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc thực trạng
làm báo hiện nay (trong đó đặc biệt là Báo Thanh Hóa) là điều hết sức cần thiết.
Với những lý do đã nêu trên, tác giả luận văn quyết định lựa chọn đề tài:
“Đội ngũ người làm báo tỉnh Thanh Hóa hiện nay – thực trạng và giải pháp
phát triển” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ trước đến nay, công tác cán bộ nói chung, chất lượng đội ngũ người làm báo
nói riêng luôn được Bộ Chính trị, BCH Trung ương, các cấp, các ngành, các cơ
quan, đơn vị đặc biệt quan tâm, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà chúng ta
đang bước vào thì kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đã có nhiều chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, quyết định của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, của tỉnh Thanh Hóa
bàn về công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ người làm báo. Nghị quyết Hội nghị
lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương (khoá X) về công tác tư tưởng, lý luận
và báo chí trước yêu cầu mới, đã nêu:
“Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng
phẩm chất chính trị, trình độ nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp của đội ngũ những người làm báo” [13, tr.51];
3
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng chỉ rõ: “Tập trung đào

tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính
trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới” [12,
tr.225-226].
Nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, bài phát biểu quan trọng của các đồng chí
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu… đã đề cập đến công
tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ nhà báo, trong đó có phát biểu của đồng
chí Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, tại Hội nghị
cán bộ báo chí toàn quốc, ngày 30-3-2012. Trong bài phát biểu của mình, đồng
chí đã nhấn mạnh:
“Lãnh đạo các cơ quan báo chí, phóng viên cần nhận thức rõ, báo chí phải
luôn đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư tưởng, tính
chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng… Tập trung xây dựng
và phát triển toàn diện cơ quan báo chí, chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, nhất là đội ngũ cốt cán; chỉ đạo cơ quan báo chí hoạt động
đúng tôn chỉ, mục đích đối tượng phục vụ; có chế độ khen thưởng, kỷ luật
nghiêm minh, kịp thời” [26, tr.9].
Bài viết trên Tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày 21-6-2007, với tiêu đề “Tiếp
tục đổi mới và phát triển vững chắc nền báo chí cách mạng nước ta”, tác giả
Tô Huy Rứa, chỉ rõ:
“Nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu, thực hành của các
trường, các cơ sở đào tạo báo chí; coi trọng phẩm chất chính trị, năng lực
chuyên môn, rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Ưu tiên cơ sở
vật chất, kỹ thuật, công nghệ cho các báo, đài, tạp chí do các cơ quan Đảng,
Nhà nước ở Trung ương và cấp ủy, chính quyền các địa phương quản lý, giúp
các cơ quan này nâng cao chất lượng nội dung, hình thức, tăng tính hấp dẫn,
lượng phát hành, phạm vi phủ sóng, tính định hướng, tính chi phối, làm chủ
trận địa thông tin” [31, Tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày 21-6-2007].
4
Tác giả Đức Dũng, trong tác phẩm Báo chí và đào tạo báo chí, đã nêu:

“Nhìn trên tổng thể công tác đào tạo báo chí ở nước ta, có thể nhận thấy sự
thiếu thống nhất cả về giáo trình, về phương pháp đào tạo cho đến việc rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp” [6, tr.267].
Trong tác phẩm Báo chí truyền thông hiện đại, tác giả Nguyễn Văn Dững,
đã nhấn mạnh:
“Cần quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ, năng lực, phẩm chất
chính trị và đạo đức công vụ đối với những người đảm nhận công việc lãnh đạo
quản lý báo chí của Đảng và Nhà nước… Đổi mới toàn diện và triệt để công
tác đào tạo báo chí; chú trong đào tạo lại theo chức danh công việc, theo quy
hoạch phát triển; đồng thời đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường truyền thông
đang phát triển từng ngày” [7,tr. 237-238].
Nói về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, tác giả Nguyễn Thị Trường Giang,
trong luận án Tiến sĩ của mình, đã nêu:
“Nhà báo là chủ thể của hoạt động báo chí. Đảng và Nhà nước ta đã xác
định rằng, người làm báo là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa – tư tưởng. Để thực
hiện được những công việc đó, đòi hỏi nhà báo không chỉ có kiến thức sâu
rộng, giỏi nghiệp vụ mà còn phải có cái tâm trong sáng. Nếu nhà báo đưa một
thông tin không có thật hoặc bóp méo sự thật thì sẽ có tác hại rất lớn. Vì vậy
trong hoạt động báo chí, vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo luôn được
coi là một trong những vấn đề then chốt nhất” [27, tr.19].
Ngoài các công trình đã phân tích ở trên, còn có thể kể một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu, bàn đến vấn đề đội ngũ những người làm báo, thực trạng
và yêu cầu cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ người làm báo, như: “Quan
điểm của Hồ Chí Minh về lao động nhà báo” [18, tr3]; Để báo chí cách mạng
Việt Nam xứng đáng là vũ khí tư tưởng sắc bén, là diễn đàn tin cậy của nhân
dân [32, tr2]; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
báo chí trước yêu cầu mới [29,tr3]; Báo mạng điện tử - những vấn đề cơ bản
[28, tr16].
5
Đề án phát triển báo chí tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2012-2020, của UBND

tỉnh Thanh Hóa, đề ra mục tiêu:
“Xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên có trình độ chính trị, chuyên
môn, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển. Đến năm
2020, 100% đội ngũ người làm báo có trình độ đại học trở lên; trên 70% có
bằng cử nhân báo chí, trên 15% có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; 100% được đào tạo
qua các lớp lý luận chính trị; 100% phóng viên, biên tập viên biết và sử dụng
thành thạo ít nhất 1 ngoại ngữ” [47, tr.15].
Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát, hầu hết các công trình mới chỉ tập trung
nghiên cứu, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nội dung, hình thức các tác
phẩm báo chí, cũng như cơ quan báo chí mà chưa có công trình khoa học nào
trực tiếp bàn về đề tài “Đội ngũ người làm báo tỉnh Thanh Hóa hiện nay – thực
trạng và giải pháp phát triển”. Vì vậy, tác giả luận văn thấy đây là nguồn tài
liệu rất hữu ích để triển khai các nội dung trong đề tài và bảo đảm không trùng
lặp với các công trình nghiên cứu trước đó.
Tác giả luận văn khẳng định yêu cầu cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ
người làm công tác báo chí ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, có đổi mới, có nâng cao
chất lượng đội ngũ người làm báo thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ công
tác báo chí - truyền thông trong xu thế toàn cầu hóa thông tin.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá thực trạng đội ngũ người
làm báo tại các cơ quan báo chí của tỉnh Thanh Hóa, qua đó chỉ ra được những
hạn chế về công tác chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ phóng viên, biên tập
viên, kỹ thuật viên, đồng thời đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng
những người làm báo tỉnh Thanh Hóa nhằm đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới, hòa nhập cùng với báo chí cả nước trong xu thế toàn cầu
hóa thông tin hiện nay.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu các tài liệu, lý luận có liên quan đến đề tài.
- Đánh giá vai trò, hiệu quả công tác của các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, cũng như của đội ngũ người làm báo tại các cơ quan báo chí này.
- Đánh giá kết quả công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ người làm báo tại
các cơ quan báo chí tỉnh Thanh Hóa.
- Điều tra năng lực, trình độ của đội ngũ phóng viên, nhà báo thông qua các
tác phẩm báo chí đã đăng tải trên các báo, đài: Báo Thanh Hóa, báo Văn hóa và
Đời sống, tạp chí xứ Thanh, Đài PTTH Thanh Hóa.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ người làm
báo Thanh Hóa đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng và yêu cầu đổi mới phát
triển các cơ quan báo chí và đội ngũ người làm báo tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tế bộ máy của các cơ quan báo chí
ở Thanh Hóa và các tác phẩm báo chí đã đăng tải trên các ấn phẩm báo chí và
chương trình phát sóng PTTH tỉnh Thanh Hóa, từ đó phân tích, mổ xẻ trình độ,
năng lực của người thực hiện tác phẩm báo chí, nhìn nhận những mặt tích cực,
hạn chế của phóng viên, nhất là những hạn chế bất cập do chưa được đào tạo,
đào tạo lại về nghiệp vụ báo chí dẫn đến sự non kém trong tác nghiệp.
- Thời gian khảo sát, đánh giá: 5 năm (từ tháng 8-2007 đến tháng 8-2012).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác báo chí, tư tưởng;
7
dựa trên quan điểm báo chí cách mạng Việt Nam để làm cơ sở, phương pháp
luận cho quá trình nghiên cứu luận văn này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Phương pháp hệ thống: Trong quá trình tiếp cận các chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, của Ban Tuyên giáo T.Ư, của Bộ Thông tin
- Truyền thông về công tác báo chí.
- Các phương pháp thống kê, phân tích, giải thích, so sánh, tổng hợp, phỏng
vấn khi khảo sát thực tiễn các cơ quan báo chí.
- Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học trong khi thăm dò, phỏng vấn và
thu thập ý kiến.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và đóng góp mới của đề tài
- Luận văn góp phần làm rõ hơn nguyên nhân vì sao báo chí địa phương
chưa thật sự hấp dẫn bạn đọc (số lượng phát hành không cao, số lượng người
nghe, người xem PTTH chưa nhiều).
- Gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả công
tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ người làm báo cả nước nói chung, của tỉnh
Thanh Hóa nói riêng.
- Về mặt thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo cho Ban Biên tập (BBT)
các báo, như Báo Thanh Hóa, Đài PTTH Thanh Hóa, Tạp chí xứ Thanh, Báo
Văn hóa và Đời sống, Văn phòng Hội Nhà báo tỉnh Thanh Hóa trong công tác
tổ chức tuyên truyền; công tác đào tạo, tuyển dụng nhân sự vào những vị trí
công việc của cơ quan mình cho phù hợp, hiệu quả.
- Quá trình nghiên cứu luận văn cũng giúp người thực hiện đề tài nâng cao
hơn năng lực nhận thức và khả năng hoạt động trong chuyên môn của mình.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các học viên đang theo
các khóa đào tạo về báo chí.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 9 tiết.
8
CHƯƠNG I
NHIỆM VỤ CỦA BÁO CHÍ NƯỚC TA HIỆN NAY TRONG
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

1.1. Vai trò của báo chí trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
1.1.1. Vai trò xã hội của báo chí
Báo chí ra đời và phát triển trước hết là do nhu cầu khách quan về thông tin
của con người và xã hội loài người. Khi xã hội còn giai cấp và có đấu tranh giai
cấp thì báo chí luôn mang tính giai cấp và là công cụ phục vụ giai cấp, nhất là
phục vụ lợi ích giai cấp thống trị xã hội. Cùng với sự phát triển không ngừng
của lịch sử và nhu cầu thông tin ngày càng tăng của con người, báo chí đã có
tốc độ phát triển mạnh mẽ, trở thành nhu cầu không thể thiếu được đối với mỗi
người, mỗi cộng đồng, quốc gia, dân tộc và đối với toàn nhân loại.
Ngay từ thế kỷ XVI, báo chí ra đời đã phục vụ đắc lực cho giai cấp tư sản
đang phát triển và được coi là “quyền lực thứ tư” trong xã hội tư bản (nghĩa là
đứng sau các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Khi giai cấp tư sản trở
nên phản động, báo chí tư sản mang bản chất của giai cấp thống trị chống lại lợi
ích của giai cấp vô sản - giai cấp tiên tiến nhất của thời đại. Tuy vậy, chủ nghĩa
tư bản vẫn không dám công khai thừa nhận bản chất giai cấp của báo chí và
luôn rêu rao: “Tự do báo chí”, “Báo chí là cơ quan quyền lực chung, siêu giai
cấp”… hòng lừa bịp quần chúng, che đậy mưu đồ đen tối sử dụng báo chí
chống phá phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. Thực tế cho thấy, giai cấp
tư sản hết sức coi trọng việc nuôi dưỡng và phát huy vai trò quan trọng của báo
chí để truyền bá tư tưởng, văn hóa, lối sống tư sản, chống phá CNXH và các
trào lưu tiến bộ, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Ngày nay, thừa hưởng những
thành tựu của khoa học - công nghệ, giai cấp tư sản đã không tiếc tiền của để
xây dựng hệ thống thông tin khổng lồ nhằm phục vụ đắc lực cho chiến lược
“diễn biến hòa bình”, bôi đen chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tiến tới xóa
9
bỏ chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên toàn hành tinh, lừa bịp nhân dân và khuyếch
trương chủ nghĩa tư bản.
Trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng
CNXH và chủ nghĩa cộng sản, giai cấp công nhân luôn khẳng định và phát huy

bản chất giai cấp, vai trò xung kích của báo chí cách mạng trong đời sống xã
hội, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng và văn hóa.
Ở Việt Nam, có thể nói, ở bất kỳ thời điểm lịch sử nào, trong bất cứ giai
đoạn cách mạng nào, báo chí cũng thể hiện rõ vai trò xã hội to lớn của mình, là
tiếng nói của Đảng, Nhà nước và nhân dân; báo chí tuyên truyền chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là “cầu nối” dẫn lý tưởng của Đảng và mọi
chính sách của Nhà nước nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo nên sức mạnh xã
hội tinh thần cho cộng đồng, lôi cuốn hàng triệu người tham gia các phong trào
cách mạng, góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, nâng
cao dân trí Bằng những đóng góp của mình, báo chí cách mạng Việt Nam
luôn xứng đáng với niềm tin yêu và nhiệm vụ của Đảng và nhân dân giao phó.
Thời kỳ đổi mới, báo chí Việt Nam và đội ngũ những người làm báo Việt Nam
tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội của đất nước,
luôn là vũ khí sắc bén, là lực lượng đi đầu, là những hướng dẫn tuyên truyền, tổ
chức tập thể để hướng mọi người, mọi tầng lớp xã hội thực hiện nhiệm vụ đổi
mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
1.1.2. Vai trò của báo chí trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước
Sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH)
đất nước, hơn bao giờ hết đòi hỏi báo chí phải thể hiện rõ vai trò to lớn của
mình, luôn là người hướng dẫn tư tưởng, hành động trên cơ sở chân lý khoa
học, góp phần vào việc giải quyết những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống;
khai sáng, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng nền văn minh tinh thần. Vai trò
và chức năng của báo chí hiện nay ngày càng bao quát mọi mặt đời sống xã hội,
nhờ có cuộc cách mạng công nghệ thông tin và nhu cầu ngày càng tăng của đời
10
sống xã hội; thông tin đa chiều, đáp ứng yêu cầu được thông tin của mọi người,
đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của báo chí trong đời sống xã hội, nhất là trong
thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo,

chỉ đạo và quản lý công tác báo chí; đồng thời cùng với các tầng lớp nhân dân
thường xuyên quan tâm xây dựng và góp ý kiến cho các cơ quan báo chí.
Luật Báo chí, ban hành ngày 28-12-1989, khẳng định: “Báo chí ở nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với
đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà
nước, tổ chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân” [34, tr.7].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành T.Ư (khóa X), về công tác
tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, đã nêu:
“Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bám sát
nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công
cuộc đổi mới. Coi trọng đúng mức việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới,
điển hình tiên tiến; tích cực đấu tranh, góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy
lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có
hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững
chắc trận địa tư tưởng của Đảng” [13, tr.49].
1.1.3. Hiệu quả của báo chí trong thời gian qua
1.1.3.1. Mặt mạnh
Sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là một cuộc cách mạng
toàn diện. Nó không chỉ nhằm tạo ra sự biến đổi vượt bậc về lực lượng sản xuất
xã hội mà còn tạo ra những động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn 26 năm đổi mới vừa qua, với những
thành tựu quan trọng đạt được đã tạo tiền đề cho đất nước ta tiến lên, phấn đấu
đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Cùng với các binh
chủng khác, giới báo chí có trách nhiệm to lớn trong việc động viên toàn xã hội
11
phấn đấu thực hiện thành công những chủ trương, chính sách và biện pháp phát
triển đất nước mà Đảng, Nhà nước đề ra. Đội ngũ những người làm báo cần
nhận thức rõ trách nhiệm cổ vũ, động viên và trực tiếp đóng góp sức mình để
góp phần tạo ra quyết tâm và sức mạnh toàn dân tộc đi theo mục tiêu đó, để

toàn Đảng, toàn dân chung sức, chung lòng biến Nghị quyết của Đảng thành
hiện thực sinh động trong đời sống xã hội, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong sự nghiệp đổi mới, báo chí mà cụ thể những người làm báo phải góp
phần nâng cao dân trí, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế; chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực
văn hóa của các thế lực thù địch. Vạch trần những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
trên lĩnh vực văn hóa. Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, kịp thời giáng
trả những đòn đích đáng, sắc bén vào những luận điệu xuyên tạc, bóp méo, bôi
đen XHCN , bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng
định niềm tin của nhân dân vào CNXH.
Nhiệm vụ của báo chí là phải định hướng tư tưởng, góp phần giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Có thể nói, đây là trách nhiệm quan trọng
có tính chất sống còn của nền báo chí nước ta. Ai cũng biết rằng, để xây dựng
và phát triển đất nước thì ngoài vốn, công nghệ và lao động ra, sự ổn định chính
trị - xã hội là yếu tố cực kỳ quan trọng, có ổn định chính trị thì mới phát triển
kinh tế được. Thực tiễn xã hội luôn luôn vận động thì trạng thái ổn định chính
trị - xã hội cũng mang tính lịch sử cụ thể. Nó bị chi phối bởi một loạt yếu tố bên
trong cũng như bên ngoài, trong đó yếu tố quan trọng nhất là sự vững mạnh của
hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí phải trở thành nhân tố,
phương tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong việc hướng dẫn nhận thức, hình
thành dư luận xã hội tích cực.
Đảng ta luôn xác định và mong rằng, đội ngũ người làm báo phải thật sự là
đội quân xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, thường xuyên đi sâu vào
đời sống nhân dân, giải đáp những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra; đấu tranh
12
hàng ngày, hàng giờ chống những âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù
địch, chống các khuynh hướng sai lầm trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần quan
trọng vào nhiệm vụ tổ chức, phát động phong trào hành động cách mạng của
nhân dân. Chính đội ngũ những người làm báo là những người góp phần thực

hiện chức năng báo chí là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng, đội ngũ những người làm báo góp
phần bảo đảm dòng thông tin hai chiều, tạo ra sự hài hòa giữa ý Đảng với lòng
dân; tham mưu, tư vấn cho Đảng và Nhà nước trong việc điều chỉnh những
chính sách không còn phù hợp, hình thành xây dựng những chính sách mới
đúng đắn, kịp thời.
Báo chí đã đi vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, trở thành người bạn
tri kỷ của đông đảo các tầng lớp nhân dân, trở thành “cầu nối” giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước; là kênh giao tiếp giữa cử tri, nhân dân với Quốc hội,
Chính phủ, nhất là mỗi khi Quốc hội họp và thực hiện phiên chất vấn và trả lời
chất vấn được PTTH trực tiếp.
Báo chí đã trở thành một thiết chế không thể thiếu trong đời sống chính trị
của nước ta. Phần lớn các cơ quan báo chí đã hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích,
phản ánh kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, biểu dương phong trào thi
đua yêu nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ
nạn xã hội, chống diễn biến hòa bình góp phần tích cực vào thành tựu chung
của đất nước. Nhiều nhà báo đã lăn lộn vào thực tiễn sinh động của cuộc sống
để sáng tạo các tác phẩm báo chí có tính thuyết phục cao, lay động lòng người;
rất nhiều nhà báo cũng đã dấn thân vào các mảng đề tài nóng bỏng như phòng,
chống tệ nạn xã hội và chống tiêu cực, tham nhũng. Họ thực sự đã đứng ở tuyến
đầu trong cuộc chiến chống nạn tham nhũng và đã nhận được những phần
thưởng xứng đáng từ các giải báo chí quốc gia, được lãnh đạo Đảng, Nhà nước
đánh giá cao, được công chúng báo chí ghi nhận.
Hiện nay, báo chí đang tập trung tuyên truyền việc thực hiện Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng; các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị,
13
Ban Bí thư; đặc biệt là việc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (Khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” [2. tr.9], gắn
với đẩy mạnh việc Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Báo chí phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tuyên truyền các giải pháp

điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ, nhằm phát triển kinh tế, kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao niềm tin của nhân
dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ. Báo chí cũng đã
tập trung phản ánh một số nhiệm vụ cấp bách mà Đảng, Nhà nước đang chỉ đạo
như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tài chính tiền tệ, giá cả thị trường, quản
lý và sử dụng đất đai, xuất khẩu hàng hóa, xóa đói giảm nghèo
Bên cạnh đó, những vấn đề nóng của nền kinh tế được cả xã hội quan tâm
như sự phá sản của nhiều doanh nghiệp; nợ thuế và nợ ngân hàng của các đơn
vị kinh tế tư nhân được báo chí phản ánh với thái độ khách quan, thận trọng,
không gây bức xúc trong xã hội. Báo chí cũng đã đưa ý kiến của nhiều chuyên
gia, nhà chuyên môn đánh giá, dự báo trên tinh thần khách quan, xây dựng, góp
phần xử lý những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất và đời sống.
Báo chí đã bám sát tư tưởng chỉ đạo, quan điểm, giải pháp của Đảng, Nhà
nước ta về những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Thời gian qua, hàng nghìn tin, bài
viết về chủ đề biển đảo được đăng, phát trên các phương tiện thông tin đại
chúng đã thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đồng thời bảo đảm môi
trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Báo chí đã góp phần quan trọng trong việc phát triển dân chủ xã hội, kịp thời
phát hiện, đấu tranh kiên quyết với những hành vi tham nhũng, lãng phí và các
hành vi tiêu cực xã hội khác, góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ. Tuyên truyền có hiệu quả việc Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; kịp thời biểu dương những gương người tốt,
việc tốt, những điển hình tiên tiến trong lao động, học tập và bảo vệ Tổ quốc.
Báo chí đã làm tốt việc đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai trái
của các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
14
trong nội bộ cán bộ, đảng viên. Thông tin trên báo chí đã góp phần quảng bá
hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, thành tựu đổi mới của nhân dân ta
với bạn bè quốc tế và đồng bào ta sinh sống ở nước ngoài.
Đối với các vụ việc nhạy cảm, phức tạp, báo chí đã thể hiện sự chấp hành

đúng các quy định của pháp luật; sự chỉ đạo và cung cấp thông tin của các cơ
quan chức năng, tạo được những thông tin chính xác, kịp thời góp phần ổn định
dư luận xã hội.
1.1.3.2. Mặt hạn chế
Bên cạnh những thành tích cơ bản nêu trên, báo chí cũng đang còn không ít
những tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương Năm (Khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới
đã chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm:
“Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng tư
tưởng, văn hóa, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác,
phản ánh nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, ít tuyên truyền các điển hình tiên
tiến, gương người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước; khuynh
hướng tư nhân hoá, thương mại hoá báo chí, tư nhân núp bóng để ra báo, kinh
doanh báo chí ngày càng tăng. Các cơ quan báo chí quan trọng của Đảng, Nhà
nước chậm đổi mới, nội dung và hình thức chưa hấp dẫn, chất lượng và hiệu
quả tuyên truyền không cao” [14, tr.37).
Từ hoạt động thực tiễn, chúng tôi thấy, một số tồn tại, khuyết điểm của báo
chí vẫn diễn ra. Biểu hiện rõ nhất đó là việc không ít cơ quan báo chí “ngại”
phản ánh những nhân tố điển hình, gương người tốt, việc tốt, thay vào đó là
những thông tin giật gân, câu khách. Đơn cử khi phản ánh về lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, nhiều phóng viên báo chí chỉ nhăm nhăm tìm những mặt trái để
thông tin và chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, trong khi rất nhiều những tấm
gương hy sinh “chở tri thức” lên vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn thì ít khi
được xuất hiện trên các ấn phẩm báo chí. Hoặc, trong lĩnh vực an ninh - trật tự,
15
nhất là khi có những vụ án giết người đặc biệt nghiêm trọng, đã có cơ quan báo
chí dành cả hai hoặc ba trang để miêu tả hành vi giết người man rợ để rồi lấn át
hết các sự kiện lớn khác diễn ra cùng thời điểm. Trong đó phải kể đến vụ nữ
sinh giết người trên xe Luxus tại Hà Nội tháng 2-2009; hay vụ án giết người tại

khu chung cư Hà Nội tháng 5-2010, theo đó có báo đã cử nhiều phóng viên viết
phóng sự dài kỳ và đặt tên là vụ án “xác chết không đầu”. Sau đó là vụ Lê Văn
Luyện giết người dã man tại tiệm vàng Ngọc Bích (Bắc Giang) tháng 8-2011 và
đầu năm 2012 là vụ giết người cướp tài sản tại tiệm vàng Vững Bắc ở Thanh
Trì, Hà Nội (2-2012), nhân đó nhiều báo đã tung phóng viên nội chính vào cuộc
để rồi cho ra những tác phẩm đậm màu chém giết…
Cùng với việc “chạy đua” tìm kiếm thông tin giật gân, có không ít phóng
viên viết bài đã làm thay công việc của tòa án, trong đó đã vô tư “kết tội” các
nhân vật được nêu trong các bài báo. Hiện tượng một số nhà báo viết ẩu, viết
không đúng sự thật, viết theo lối suy diễn vẫn còn.
Một khía cạnh khác trong hoạt động của báo chí cũng đang nảy sinh không ít
bất cập, đó là làm kinh tế báo chí. Phải khẳng định rằng, hoạt động kinh tế báo
chí là phù hợp với quy định của pháp luật, nhiều tờ báo có uy tín đã không cần
phải đi “xin quảng cáo”, mà các doanh nghiệp tìm đến tận tòa soạn để thực hiện
hợp đồng đăng, phát quảng cáo. Nhưng, trong đó không ít cơ quan báo chí (nhất
là báo in của một số ngành, địa phương) do hạn chế về số lượng phát hành,
cộng với nhân lực trong tòa soạn đông, nên áp lực xin quảng cáo để “nuôi”
nhau là rất lớn.
Thông tin không đúng với tôn chỉ, mục đích, không đúng đối tượng phục vụ
đã được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn nhất, kéo dài nhất,
trong đó trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí và
cũng phải nói đến sự thiếu kiên quyết của cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí.
Tình trạng báo của ngành này, địa phương này nhưng lại đưa thông tin nhiều về
ngành khác, địa phương khác, mà lại chủ yếu là các vấn đề tiêu cực, thông tin
16
một chiều, thiếu kiểm chứng, làm cho báo chí thiếu bản sắc, trùng lặp thông tin,
thiếu tính định hướng của tờ báo đã gây nên sự bức xúc trong nhiều năm.
Thông tin thiếu nhạy cảm về chính trị, không phù hợp với lợi ích của đất
nước, của nhân dân, không phù hợp định hướng thông tin. Đây là dạng sai
phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội, là kẽ hở để báo chí nước ngoài, các

trang tin điện tử của các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc. Khuyết điểm
này trước hết thuộc về người đứng đầu, ban biên tập và người biên tập. Qua
xem xét các vi phạm trong thời gian qua của một số tờ báo, trang tin điện tử có
thể nhận thấy những vi phạm trong quy trình biên tập, duyệt bài là rất nghiêm
trọng dẫn đến những sai phạm có tác động xấu đến dư luận xã hội.
Thông tin bịa đặt hoàn toàn đã diễn ra ở một số tờ báo. Như bịa đặt bài
phỏng vấn khi không phỏng vấn. Từ tin đồn, tin từ mạng xã hội không được
kiểm chứng biến thành tin chính thức trên báo chí. Thông tin sai sự thật, gây
ảnh hưởng xấu hoặc xúc phạm uy tín, danh dự của tổ chức, nhân phẩm của
công dân. Dạng sai phạm này tuy được thường xuyên nhắc nhở, xử lý nhưng
vẫn tiếp tục xảy ra ở một số cơ quan báo chí của tất cả các loại hình báo chí.
Có bài báo, tờ báo thông tin sai sự thật, thiếu kiểm chứng, không khách quan,
mang tính một chiều. Đơn cử, liên quan vụ cưỡng chế, thu hồi đất ở Tiên Lãng
(Hải Phòng) mặc dù đã được Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Thông tin và
Truyền thông 4 lần nhắc nhở, định hướng nhưng có một số tờ báo vẫn thông tin
dồn dập, quá liều lượng cần thiết, mất cân đối với những vấn đề quan trọng
khác của đất nước. Đáng lưu ý, trong khi nhấn mạnh sai phạm của chính quyền
ở Tiên Lãng, Hải Phòng, lại thông tin “nương nhẹ” về những vi phạm, sai phạm
của ông Đoàn Văn Vươn theo kết luận của Bộ Tài nguyên và Môi trường và các
cơ quan chức năng. Một số báo thông tin, bình luận có tính suy diễn, cho rằng,
gốc của vấn đề, vụ việc là do sở hữu toàn dân về đất đai trong khi thực ra,
nguyên nhân chủ yếu do nhận thức, thực hiện sai các quy định pháp luật đất đai
về cho thuê đất, thu hồi đất, cưỡng chế đất cũng như do các quy định về quản lý
đất đai thiếu đồng bộ, chống chéo, phức tạp.
17
Một số vụ án, lúc đầu báo chí đưa tin chuẩn xác nhưng một số tờ báo, trang
tin điện tử khai thác, suy diễn quá nhiều theo hướng khác nhau dẫn đến sai lệch
bản chất vụ việc, vi phạm pháp luật. Tình trạng từ thông tin sai của một tờ báo,
nhiều báo khác không kiểm chứng đã đưa lại, thậm chí suy diễn thêm nên từ
một tin sai trên một báo, thành nhiều tin sai trên nhiều báo.

Tình trạng sai về văn phạm, chính tả diễn ra khá phổ biến ở nhiều báo điện
tử; phát âm tiếng Việt thiếu chuẩn mực, đọc sai, đọc vấp ở một số phát thanh
viên làm mất đi sự chuẩn mực và trong sáng của tiếng Việt, vi phạm quy định
của Luật Báo chí.
Vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản có lúc, có nơi còn mờ nhạt. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị cho phóng viên, biên tập
viên của cơ quan báo chí chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quản lý,
kiểm soát các hoạt động của cơ quan báo chí thuộc quyền còn bị buông lỏng, có
nơi còn “khoán trắng” cho cơ quan báo chí tự quyết định trong việc liên kết,
một số nội dung trên báo chí bị thao túng, dẫn đến sai phạm. Xử lý không
nghiêm, thậm chí bao biện cho sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền.
Trình độ nhận thức và độ nhạy cảm chính trị của một bộ phận phóng viên,
biên tập viên còn những hạn chế nhất định. Không ít trường hợp phóng viên có
những bài viết tự nhiên chủ nghĩa, thể hiện sự non kém về nhận thức chính trị
nhưng ban biên tập vẫn duyệt cho đăng.
Tổng biên tập, BBT các cơ quan báo, đài là người có trách nhiệm chính về
nội dung của tờ báo nhưng vẫn còn có người chưa nhận thức đầy đủ hoặc có
khi nhận thức được vai trò quan trọng của báo chí nhưng lại cố tình làm sai tôn
chỉ, mục đích, sa vào khuynh hướng thương mại hóa, chưa thấy hết tác hại và
hậu quả nghiêm trọng do nội dung lệch lạc, sai trái của báo khi phát hành rộng
rãi trong xã hội. Vẫn còn có nơi này, nơi khác khi bổ nhiệm tổng biên tập, phó
tổng biên tập các cơ quan báo, đài phụ trách nội dung lại là những người trái
nghề, chưa làm báo, hoặc chưa đủ các tiêu chuẩn đề bạt bổ nhiệm theo Quyết
định 75 của BCH T.Ư. Trong tổng số hơn 17.000 nhà báo đã được cấp thẻ hiện
18
nay thì 81% có trình độ đại học và trên đại học. Số đông có năng lực và phẩm
chất tốt nhưng có một số không ít chưa có đủ bản lĩnh và kinh nghiệm để xử lý
thông tin về những vấn đề chính trị, xã hội mới nảy sinh và diễn biến phức tạp.
Trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và của cơ quan chủ quản trong những năm
qua đã được nâng lên một bước, nhưng có những người được phân công phụ

trách theo dõi hoạt động báo chí vẫn chưa am hiểu nhiều công việc lãnh đạo,
quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Nhiều cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan
chủ quản chưa thường xuyên bàn bạc định hướng và giúp đỡ để các cơ quan
báo chí do mình phụ trách vượt qua khó khăn, hoạt động đúng định hướng và
có hiệu quả cao, thường khoán trắng cho các tổng biên tập.
1.1.3.3. Bài học kinh nghiệm
Đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và vận hội mới nhưng khó khăn
thách thức rất to lớn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải có sự đồng
tâm nhất trí cao, có niềm tin vững chắc và quyết tâm nỗ lực rất lớn. Công cuộc
đổi mới, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa đang được trển khai ngày càng sâu rộng. Bối cảnh xã hội, môi
trường hoạt động của báo chí trong cơ chế thị trường đặt ra nhiều vấn đề mới
rất phức tạp
Trong tình hình ấy, báo chí phải làm gì, mỗi nhà báo cần hoạt động, tác
nghiệp như thế nào để góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy
công cuộc đổi mới đất nước. Các thế lực thù địch đang lợi dụng ưu thế về kinh
tế, tài chính, các phương tiện thông tin hiện đại, các quan hệ ngoại giao để thâm
nhập vào nước ta, thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” hòng lật đổ chế độ
XHCN. Chúng công khai hoặc ngấm ngầm thực hiện 3 mũi tấn công: Phá rã
niềm tin, chi phối đầu tư, ngoại giao thân thiện và chia rẽ nội bộ. Trong đó, việc
phá rã niềm tin là mũi đột phá, lĩnh vực tư tưởng là mũi nhọn công kích. Chúng
đang ra sức tuyên truyền bôi nhọ chế độ, kích động, thổi phồng những phần tử
thoái hóa, biến chất gây nghi ngờ, chia rẽ nội bộ, chia rẽ Đảng và nhân dân.
Vậy báo chí phải làm gì, phải rèn luyện như thế nào để đáp ứng được yêu cầu
19
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiện nay?. Rõ ràng, nếu không nâng cao
chất lượng đội ngũ những người làm báo thì khó có thể hoàn thành được trọng
trách vẻ vang là người lính xung kích trên mặt trận tư tưởng - văn hóa trong
thời kỳ mới.
1.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về công tác báo chí

và đổi mới chất lượng đội ngũ người làm công tác báo chí
1.2.1. Phát triển báo chí trên cơ sở giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Những vấn đề trọng đại mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua thể
hiện tính nhất quán, kiên định về đường lối chính trị của Đảng ta xây dựng đất
nước theo mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững
bước đi lên CNXH. Đây là định hướng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm
tính thống nhất của hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra, Đảng ta chủ
trương phát huy tối đa nội lực để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng
thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa. Báo chí cách mạng góp phần đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu đó
của toàn Đảng, toàn dân ta.
V.I.Lênin từng nhấn mạnh: "Báo chí phải trở thành những cơ quan của các
tổ chức Đảng. Các nhà văn nhất thiết phải tham gia các tổ chức của Đảng. Các
nhà xuất bản và các kho sách, các hiệu sách và các phòng đọc sách, các thư
viện và các nơi bán sách báo - tất cả những điều đó đều phải thành của Đảng,
chịu trách nhiệm trước Đảng”[42, tr.123].
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta, một nhà báo cách
mạng vĩ đại đã từng căn dặn: “Tất cả những người làm báo (người viết, người
in, người sửa bài, người phát hành ) phải có lập trường chính trị vững chắc.
Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng
được. Cho nên các báo chí của ta phải có đường lối chính trị đúng”.
Bác khẳng định: “Nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang.
Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao
20
tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ
văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn luôn cố gắng, mà
cố gắng thì nhất định thành công” [17, tr.343-344].
Ở đây, Người muốn nhấn mạnh đến tính giai cấp, tính khuynh hướng chi
phối bởi ý thức hệ của các phương tiện thông tin đại chúng. Bất cứ một phương

tiện thông tin đại chúng nào khi lập một chương trình, xây dựng một chuyên đề,
xuất bản một tác phẩm, thể hiện một đề tài đáp ứng nhu cầu của đối tượng
nghe, nhìn đều chịu sự chi phối của định hướng chính trị.
Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo báo chí chủ yếu thông qua việc
thi hành luật pháp và quản lý của Nhà nước. Quan điểm của Đảng ta là phát
triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới báo chí. Khái niệm “phát triển” ở đây bao
gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Yêu cầu của sự nghiệp phát triển báo chí
cả về nội dung và hình thức đều phải hướng tới hiệu quả xã hội cao mà chúng ta
mong muốn, cũng là yêu cầu của sự nghiệp đổi mới báo chí dưới sự lãnh đạo
của Đảng.
Trong thời kỳ đất nước đang có chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu do cơ chế
quan liêu bao cấp nên việc quản lý xã hội nói chung chủ yếu dựa trên các Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng chứ chưa xây dựng một Nhà nước pháp quyền quản lý
xã hội bằng pháp luật. Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đã trải qua một
chặng đường đầy thử thách, cam go nhưng cũng đầy sáng tạo, mang lại những
chuyển biến toàn diện về kinh tế và xã hội. Đảng ta đã xác định: Báo chí vừa là
tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân
dân - qua đó kết nối Nhà nước với quần chúng, là cầu nối giữa Đảng
với nhân dân.
Có thể lấy ví dụ: Ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đã sớm
nhìn thấy những biểu hiện lệch lạc của báo chí trong thời kỳ đầu của công cuộc
đổi mới, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã kịp thời ra Chỉ thị 63/CT-TW (ngày
25-7-1990), Chỉ thị 08/CT-TW (ngày 31-3-1992) kịp thời chấn chỉnh những
biểu hiện sai lệch của báo chí.
21
Tuy đã được phát hiện và uốn nắn sớm, nhưng khuynh hướng thương mại
hoá trên báo chí nước ta sau đó không những không bị đẩy lùi, hạn chế mà còn
phát triển theo hướng tiêu cực hơn, nên trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ của
công cuộc đổi mới, Đảng đã căn cứ vào tình hình thực tế để ban hành nhiều chủ
trương, giải pháp quan trọng để báo chí hoạt động đúng hướng. Ví dụ như Nghị

quyết Hội nghị Trung ương lần thứ năm (Khoá VIII) về “Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” [13]; Chỉ thị 22/CT-TƯ (ngày
17-10-1997) của Bộ Chính trị (Khoá VIII) về “Tiếp tục đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản”
Đặc biệt, trước bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế đan xen cả thời cơ
và thách thức to lớn, Hội nghị TƯ5 (Khoá X) tháng 7-2007, Đảng ta đã dự báo
tình hình và đã ra một nghị quyết chuyên đề về công tác tư tưởng, lý luận, báo
chí. Trong suốt quá trình lãnh đạo của mình, đây là lần đầu tiên có một hội nghị
Trung ương bàn riêng về vấn đề báo chí.
Vai trò chỉ đạo và tập trung của Đảng đối với báo chí không phải là bắt tay
chỉ việc mà là định hướng. Sự định hướng đó thể hiện trong các đường lối, quan
điểm, nội dung thông tin tuyên truyền. Đó là việc đi trước nắm bắt tình hình để
dự báo các động thái trong nước và thế giới, giúp cơ quan báo chí có điều kiện
giữ đúng định hướng thông tin, như Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu rõ:
“Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin,
giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì
lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hoá, xa rời
tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản. Tập trung đào tạo, bồi
dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư
tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới. Rà soát, sắp
xếp hợp lý mạng lưới báo chí, xuất bản trong cả nước theo hướng tăng cường
hiệu quả hoạt động, đồng thời đổi mới mô hình, cơ cấu tổ chức, cơ sở vật chất - kỹ
thuật theo hướng hiện đại.
Phát triển và mở rộng việc sử dụng internet, đồng thời có biện pháp quản lý,
22
hạn chế mặt tiêu cực, ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động lợi dụng internet để
truyền bá tư tưởng phản động, lối sống không lành mạnh” [12, tr.225-226].
Trong quá trình khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta luôn dành cho báo chí sự quan tâm sâu sắc, sự lãnh đạo, quản lý ngày
càng khoa học, tạo điều kiện để báo chí phát triển đúng hướng, mạnh mẽ, vững

chắc. Thành tích ưu điểm nổi bật của báo chí trước hết là phát triển đội ngũ,
tăng số lượng, chất lượng các ấn phẩm và loại hình báo chí. Nếu năm 1992, cả
nước mới có 350 cơ quan báo chí, 11.000 nhà báo được cấp Thẻ nhà báo, thì
đến tháng 3-2012, cả nước có 786 cơ quan báo chí in, với 1.016 ấn phẩm.
Trong đó báo có 194 cơ quan (gồm 81 báo chí Trung ương, 113 báo địa
phương); tạp chí có 592 cơ quan (475 tạp chí Trung ương và 117 tạp chí địa
phương). 67 đài Phát thanh truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có
2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 Đài Phát thanh, truyền hình cấp
tỉnh. Cũng tính đến tháng 3 năm 2012, trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước
có 61 báo, tạp chí điện tử, 191 mạng xã hội, hơn 1.000 trang thông tin điện tử
tổng hợp. (Nguyễn Minh Phong (2012), “Tiếp tục đổi mới báo chí Việt Nam”,
báo điện tử Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam).
Thành tựu phải kể đến là, phần lớn các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn
chỉ mục đích và định hướng chính trị, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Báo
chí tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin sinh
động về công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh trung thực
tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; góp phần tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận; cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước, phát hiện,
biểu dương các nhân tố mới; tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,
lãng phí, chống âm mưu “diễn biến hoà bình”; góp phần giữ vững ổn định chính
trị, thúc đẩy công cuộc đổi mới và dân chủ hoá trong đời sống xã hội, củng cố
lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Báo chí cách
23
mạng còn góp phần tích cực giúp nhân dân thế giới ngày càng hiểu rõ hơn
đường lối, chính sách đúng đắn và những thành tựu đổi mới to lớn của nước ta.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đánh giá cao vai trò của báo chí trong đời
sống xã hội cũng như những đóng góp quan trọng của báo chí trong công cuộc
đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, mở cửa, hội nhập thế giới.
Ở một góc độ khác, có thể thấy, thông qua hoạt động của báo chí, công

chúng báo chí có bước phát triển về số lượng, trình độ, tham gia ngày càng tích
cực vào quá trình truyền thông. Nhiều cơ quan báo chí tăng được năng lực tài
chính, đổi mới công nghệ, máy móc, điều kiện làm việc, đẩy mạnh các hoạt
động xã hội hoá hoạt động báo chí. Báo chí cách mạng của ta cũng đã tham gia
tích cực các hoạt động báo chí khu vực và thế giới.
Để tiếp tục khẳng định vị trí của báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới, tiếp
tục tạo ra những tác động tích cực cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước,
điều quan trọng nhất đối với hệ thống báo chí là phải tiếp tục nâng cao chất
lượng nội dung và hình thức. Muốn vậy, càng cần phải tăng cường sự lãnh đạo
và quản lý của Đảng và Nhà nước đối với báo chí theo quan điểm phát triển
phải đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
Trong bối cảnh hiện nay, cần phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát báo chí
thật chặt chẽ và linh hoạt. Điều đó sẽ giúp cho các cơ quan báo chí kiên quyết
chống xu hướng xa rời tôn chỉ, mục đích; chống xu hướng né tránh chính trị,
“trung lập hoá” báo chí. Công tác này còn làm cho hoạt động báo chí gắn liền
với thực tiễn sản xuất và đời sống, phản ánh sinh động phong trào cách mạng,
phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân ở khắp mọi miền đất
nước, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.
Công tác kiểm tra, giám sát thể hiện trách nhiệm của Đảng đối với hệ thống
báo chí. Điều đó thể hiện ở sự quan tâm, tạo điều kiện, kiểm tra, phát hiện
những sai lầm, nhược điểm để khắc phục. Có thể nói công tác này nhằm làm
cho báo chí vận hành tốt và đúng với sự định hướng.
24
1.2.2. Phát triển báo chí trên cơ sở Nhà nước quản lý về báo chí
Như đã phân tích ở trên, Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí là điều
kiện để báo chí hoạt động đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước quản lý báo
chí bằng hệ thống các văn bản pháp luật. Muốn quản lý có hiệu quả, đòi hỏi
chúng ta phải xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, khoa học, sát với
thực tiễn cuộc sống.
Sẽ là sai lầm và phiến diện khi cho rằng sự lãnh đạo của Đảng và quản lý

của Nhà nước sẽ là “bó hẹp”, “thắt chặt” như một số thế lực rêu rao. Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí chính là nhằm phát huy tính sáng tạo của
đội ngũ nhà báo, giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, đồng
thời phát hiện và sửa chữa những khuyết điểm, lệch lạc, yếu kém của bản thân.
Quản lý cũng là sự thảo luận, hướng dẫn, rút kinh nghiệm và giúp đỡ người làm
báo trong nhiệm vụ giữ vững định hướng chính trị, giữ gìn bản sắc văn hoá, đạo
đức của dân tộc, nâng cao dân trí, củng cố lòng tin, hoàn thiện con người.
Một ví dụ, nếu Đảng không kịp thời có định hướng chỉ đạo, tăng cường công
tác quản lý Nhà nước trong các vụ việc “nhạy cảm” “lợi bất cập hại” như: biểu
tình phản đối Trung Quốc việc tuyên bố chủ quyền và có những hành động
ngang ngược tại các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và biển Đông; việc Trung
Quốc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa” gồm hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa của VN; hành vi của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc
(CNOOC) thông báo mở thầu quốc tế 9 lô dầu khí nằm sâu trong vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam (đầu tháng 7-2012); các vụ tranh
chấp đất đai, đòi đất của một số nhà thờ công giáo trong thời gian vừa qua thì
không biết hậu quả sẽ ra sao. Ngay cả một số videoclip liên quan đến diễn viên,
người mẫu mại dâm; nữ sinh “khoe hàng”, “lộ hàng” , rồi các vụ cướp tiệm
vàng, đâm thuê chém mướn các báo đều phản ánh quá đà mà quên đi nhiệm
vụ tuyên truyền chính của mình! Rồi một số tờ báo đưa tin, bình luận, thổi
phồng việc xây dựng nhà vườn ở Ninh Giang (Hải Dương) với các tít, như
25
“Nhà vườn trăm tỷ”, hoặc khu vườn triệu đô” với nhiều chi tiết bịa đặt, thổi
phồng gây hoài nghi trong xã hội.
Hay như Báo Nông nghiệp Việt Nam đã đăng các bài viết về Thanh Hóa
trong mấy tháng đầu năm 2012 với các nội dung thiếu chính xác, giật gân, như
“Đói lay lắt ở miền Tây Thanh Hóa”, “Tan tành rừng phòng hộ Sông Chu”,
“Khi lòng dân chưa yên” đã gây xôn xao dư luận, các cơ quan chức năng phải
vào cuộc đi điều tra thực hư vấn đề như thế nào. Rồi ngày 26-6-2012, tiếp tục
đăng bài: “Rùng mình xã 500 cán bộ ở Thanh Hóa” của tác giả Hoàng Anh,

nêu ở xã Quảng Vinh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa có tới 500 cán bộ
từ xã đến thôn, do nguồn ngân sách có hạn nên người dân trong xã phải “è cổ
góp thóc” để nuôi đội ngũ cán bộ đông đảo này. Nhiều từ ngữ dùng trong bài
“Rùng mình xã 500 cán bộ ở Thanh Hóa” thiếu thận trọng, có ý mạt sát, xúc
phạm đến uy tín tổ chức, danh dự, nhân phẩm cá nhân, như “cán bộ đông như
châu chấu”, “đông như quân Nguyên”, “dân è cổ góp thóc nuôi cán bộ”, “dân
nghèo, xã nghèo nhưng nhà chủ tịch xã to như biệt phủ”, “rùng mình” Sau
khi báo đăng, hàng loạt báo mạng khác đưa tin lại, đã gây dư luận xôn xao
trong cả nước. Các cơ quan chức năng từ huyện đến tỉnh và nhiều cơ quan báo
chí đã vào cuộc. Cuối cùng thực tế là xã Quảng Vinh chỉ có 205 cán bộ từ xã
đến thôn đang thực thi nhiệm vụ, được hưởng lương, phụ cấp từ nguồn ngân
sách Nhà nước và do địa phương chi trả theo đúng các quy định của Chính
phủ Về vụ việc này, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ và tỉnh Thanh
Hóa phải làm rõ trách nhiệm của phóng viên, của Báo Nông nghiệp Việt Nam
đã thông tin thiếu chính xác làm ảnh hưởng xấu đến sự quản lý, điều hành của
Nhà nước tại tỉnh Thanh Hóa nói riêng và cả nước nói chung. Tất cả những sự
việc nêu trên, nếu Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan chức năng quản lý
Nhà nước về báo chí chậm vào cuộc thì không biết những vụ việc nhạy cảm còn
“chi phối” thông tin báo chí đến bao giờ, và hậu quả sẽ ra sao.
Sự quản lý của Nhà nước còn thể hiện trong công tác quy hoạch hệ thống
báo chí. Việc quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí trong cả nước nhằm tạo ra sự

×