Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Luận văn triết học quan niệm về tam tòng tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.67 KB, 57 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
TRONG NHO GIÁO 5
1.1 Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo 5
1.1.1 Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo 5
1.1.2 Vị trí của người phụ nữ trong hệ thống triết học Nho giáo 8
1.2 Quan niệm về“Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 12
1.2.1 Nội dung của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 12
1.2.2 Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo ở Việt Nam 16
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY 22
2.1 Ảnh hưởng của “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 22
2.1.1 Ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng” đối với người phụ nữ giai đoạn từ
phong kiến Việt Nam độc lập đến năm 1945 22
2.1.2 Ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng” đối với người phụ nữ giai đoạn từ
năm 1945 đến nay 25
2.2 Ảnh hưởng của “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 31
2.2.1 Công 31
2.2.2 Dung 36
2.2.3 Ngôn 40
2.2.4 Hạnh 42
2.3 Phương hướng và một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng người phụ nữ
Việt Nam hiện nay 46
2.3.1 Phương hướng xây dựng người phụ nữ Việt Nam hiện nay 46
2.3.2 Một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ
nữ Việt Nam hiện nay 49
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
1


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nho giáo là một hệ thống tư tưởng chủ yếu bàn về chính trị, luân lý và đạo đức.
Nho học vào Việt Nam và đã cùng đi hết một chặng đường dài của lịch sử dân tộc ta;
trên chặng đường ấy, có lúc nó giữ vai trò thúc đẩy, có lúc nó kìm hãm sự phát triển
kinh tế, văn hóa, chính trị của xã hội Việt Nam. Nhưng dù thúc đẩy hay kìm hãm, Nho
giáo đều góp phần làm nên truyền thống tư tưởng, văn hóa dân tộc; tạo nên những
bước tiến của xã hội và con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam ngàn năm
văn hiến. Trong đó, tư tưởng ảnh hưởng lớn nhất đến người phụ nữ Việt Nam chính là
quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức”.
Các triều đại phong kiến Việt Nam đã tiếp thu, vận dụng phạm trù “Tam tòng”,
“Tứ đức” làm công cụ để giáo hóa về tâm lý, đạo đức nhằm xây dựng hình mẫu người
phụ nữ tiêu biểu cho xã hội cũ. “Tam tòng”, “Tứ đức” là những chuẩn mực cơ bản
nhất đối với người phụ nữ xưa, là thước đo giá trị, tài năng, đức hạnh của người phụ
nữ. Và quan trọng hơn cả là sự ăn sâu bén rễ của nó vào tư tưởng, tâm hồn, nhân cách,
lối sống của mỗi người phụ nữ, là điều bản thân họ đặt vào tâm vào lòng để tự răn dạy
và hoàn thiện. Từ đó, nét đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến kể cả về thể
chất lẫn tâm hồn đều được khái quát bằng mấy chữ “Tam tòng”, “Tứ đức” ấy. Yêu
thương hết mực, hi sinh hết mình, tần tảo một nắng hai sương, cam chịu, nhẫn nại là
những đức tính dệt nên cuộc đời người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến; dệt
nên chân dung đậm nét của họ trong giai đoạn dài của lịch sử dân tộc.
Lịch sử sang trang mới, Việt Nam cũng bước sang thời kì đổi mới, đổi mới không
đơn giản chỉ là đổi mới về kinh tế mà nó còn kéo theo sự biến đổi toàn diện trên các
lĩnh vực khác như: chính trị, văn hóa, xã hội … và kể cả con người cũng đổi mới một
cách sâu sắc. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định: Con người là yếu tố quan trọng
hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, trong đó người phụ nữ là
lực lượng đông đảo, nắm vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội. Hồ Chí Minh đã
chỉ rõ: “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội”. Từ đó đã dẫn đến những thay đổi về yêu
cầu, tiêu chí đánh giá của xã hội về người phụ nữ. Người phụ nữ trong thời đại mới
phải đẹp toàn diện hơn, tài giỏi hơn, tích cực tham gia công tác xã hội, đảm đang việc

2
gia đình… Và bên cạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ cần giữ gìn những nét
đẹp truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực nó còn
góp phần làm nên những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay, người phụ nữ Việt Nam cần khắc phục tính tiêu cực của quan niệm
“Tam tòng” và tiếp thu vận dụng “Tứ đức” như thế nào để xây dựng hình ảnh người
phụ nữ hiện đại mà không mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc là một
vấn đề có ý nghĩa thiết thực. Xuất phát từ những yêu cầu thiết thực đó của thực tiễn và
để góp phần vào mục tiêu xây dựng và phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam
hiện đại, em chọn đề tài: “Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay”
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Vấn đề ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo đối
với phụ nữ Việt Nam ở mức độ ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đã được một số tác
giả nghiên cứu từ rất sớm. Chúng ta có thể kể đến một số công trình nghiên cứu với
những góc độ khác nhau của vấn đề này như:
- Trần Trọng Kim (1971) Nho giáo, Nhà Xuất Bản Giáo dục, Hà Nội.
- Vũ Khiêu ( 1991) Nho giáo xưa và nay, Nhà Xuất Bản Khoa học xã hội, Hà
Nội.
- Nguyễn Quang Đạm (1994) Nho giáo xưa và nay, Nhà Xuất Bản Văn học, Hà
Nội.
- Lê Thị Nhâm Tuyết (1975) Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nhà Xuất Bản
Khoa Học Xã Hội.
- Lê Minh (2000) Gia đình và người phụ nữ, Nhà Xuất Bản Lao Động, Hà Nội.
- Trần Quốc Vượng (2001) Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nhà Xuất Bản Văn
hóa, Hà Nội.
- Vũ Khiêu (1996) Bàn về văn hiến Việt Nam, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội,
Hà Nội.
- Nguyễn Tất San (2008) Công Dung Ngôn Hạnh xưa và nay, Nhà Xuất Bản Văn

Hóa Thông Tin, Hà Nội.
3
Ngoài những công trình nghiên cứu này thì nhiều bài viết ở các báo, tạp chí khác
nhau như: Báo Phụ nữ, Tạp chí Gia đình… cũng đề cập đến quan niệm về “Tam tòng”
“Tứ đức” ở nhiều khía cạnh khác nhau.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
3.1 Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và ảnh hưởng của
nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích rõ nội dung của hai phạm trù “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam.
+ Phân tích những ảnh hưởng của quan niệm này đối với phụ nữ Việt Nam.
+ Đưa ra một số giải pháp góp phần vào việc xây dựng và phát huy vai trò của
người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức”
trong Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu là nội dung của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong
Nho giáo.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Khóa luận thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chung nhất là phương pháp
biện chứng duy vật và duy vật lịch sử. Ngoài ra khóa luận còn sử dụng những phương
pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, logic - lịch sử….
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI:
- Khóa luận làm rõ và hệ thống quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” và những
ảnh hưởng của nó đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu có thể là nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm,
nghiên cứu sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo phương Đông đối với con
người Việt Nam và đặc biệt là với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.

7. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết.
4
NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC” TRONG NHO GIÁO.
1.1. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo
1.1.1 Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo
Thời kì lịch sử Cổ - trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
minh lớn của thế giới. Giai đoạn này Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như: chữ
viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với Ấn Độ và các dân tộc
phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học lớn.
Ở Trung Quốc, tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành vào thời Xuân
Thu, Chiến Quốc, đây là thời đại loạn lạc, đạo đế vương đời trước (nhà Chu) mờ tối,
người đời say đắm về đường công lợi, không ai thiết gì đến nhân nghĩa. Nhưng cũng vì
thế cục biến loạn, dân tình khổ sở mà ở thời đại này tư tưởng được giải phóng, tri thức
được phổ cập, nhiều học giả xuất hiện và trình bày học thuyết của mình với mục đích
sửa đổi chế độ, mong muốn đem lại hạnh phúc, ấm no cho con người. Số học giả ấy
không chỉ có một vài người và số tác phẩm được viết ra không phải chỉ có một vài
cuốn mà con số ấy phải lên tới hàng chục, hàng trăm, cho nên mới gọi thời đại ấy là
thời “Bách gia chư tử”. Theo sách Hán thư, Thiên Nghệ Văn chí thì có 103 học phái
trong đó có 6 học phái chính là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia và Âm
Dương gia. Có ảnh hưởng lớn nhất đối với tư tưởng, đời sống tinh thần của người
Trung Quốc lúc bấy giờ là ba học phái: Nho gia, Mặc gia và Đạo gia.
Người sáng lập ra học thuyết Nho gia là Khổng Tử, ông sinh năm 551 trước Công
nguyên, tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Ông sinh ra trong một gia đình quan võ của triều
đình nước Lỗ. Thời trẻ, Khổng Tử phải sống trong cảnh gia đình sa sút nên biết nhiều
việc vất vả, nặng nhọc. Theo sử sách còn ghi, thuở nhỏ Khổng Tử hay chơi trò bày đồ
cúng tế, ham học, thích nghiên cứu thi thư lễ nhạc đời trước. Điều này thể hiện bản
tính của Khổng Tử, luôn coi trọng những điều lễ nghĩa. Năm 19 tuổi, ông thành gia
thất và nhận một chức quan nhỏ ở nước Lỗ. Được gia đình dạy bảo chu đáo và đứng

trước hoàn cảnh xã hội biến loạn, đạo lý nhân luân xáo trộn, Khổng Tử muốn đem tài
sức của mình giúp các thế lực cầm quyền bình thiên hạ. Ông và các đệ tử đã đi chu du
các nước hơn 10 năm, đã đến các nước Vệ, Tống, Sái, Sở…, nhưng đều không thực
hiện được chủ trương chính trị như điều ông mong muốn. Cuối đời ông trở về nước Lỗ
5
tiếp tục dạy học và chỉnh lý các thư tịch cổ như: Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Dịch, Kinh
Lễ, Kinh Nhạc và soạn thảo Kinh Xuân Thu. Việc làm này của Khổng Tử đã có cống
hiến lớn trong việc giữ gìn và truyền bá văn hóa cổ đại của Trung Quốc. Ông không có
trước tác riêng truyền cho hậu thế, sách Luận ngữ chỉ là ghi chép lại lời Khổng Tử do
học trò nhớ lại và chỉnh lý. Tuy vậy trong lịch sử Trung Hoa, Khổng Tử có một vị trí
hết sức quan trọng, ông được gọi là “vạn thế sư biểu”, là một nhà giáo dục văn hóa,
một trí giả… Trên lĩnh vực tư tưởng, Khổng Tử giống như Socrate, không dạy học để
lấy lợi và không bán tri thức của mình, ông chú trọng vào bản tính của nhân loại, cho
đức nhân là ý nghĩa tối trọng yếu trong khả năng trị nhân. Học trò của ông có đến hàng
ngàn người. Sau khi ông mất, Nho gia được chia thành tám phái, trong đó quan trọng
nhất là hai phái Mạnh Tử và Tuân Tử, đây chính là những người làm cho học thuyết
của Khổng Tử phát triển rực rỡ và trở thành học phái chính thống của Trung Hoa.
Mạnh Tử (327 – 289 trước Công nguyên), ông ra sức bảo vệ đề cao vương đạo, đả
kích bá đạo. Ông đi sâu tìm hiểu bản tính con người trên cơ sở nhân học của Khổng
Tử. Khổng Tử nói nhiều về nhân, phân biệt cặn kẽ giữa nghĩa và lợi nhưng lại chưa
làm rõ nguyên nhân. Mạnh Tử giải đáp câu hỏi đó và đề ra học thuyết tính thiện. Mạnh
Tử cho rằng vũ trụ bên ngoài thuần túy là vũ trụ tâm linh, thiên mệnh quyết định nhân
sự. Mạnh Tử hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện thế giới
quan và nhận thức luận, tạo nên đầu mối của khuynh hướng duy tâm trong Nho giáo
sau này. Về trước tác, Mạnh Tử có tập “Bảy thiên Mạnh Tử” đã cùng cuốn Luận Ngữ,
Đại Học, Trung Dung hợp thành bộ Tứ Thư.
Tuân Tử (313 – 238 trước Công nguyên), ông đã phát triển truyền thống trọng lễ
của Nho giáo, nhưng trái với Mạnh tử, ông coi con người vốn có tính Ác: “Nhân chi
tính ác, kì thiện giả ngụy giã”[16, tr.304].Tính của người là ác, những điều thiện là do
người đặt ra. Ông chủ trương cho rằng thế giới khách quan có quy luật riêng. Tuân tử

cũng tin có trời nhưng ông cho rằng đạo trời không quan hệ gì đến đạo người và sức
người có thể thắng trời. Tư tưởng triết học của Tuân Tử rõ ràng mang màu sắc của chủ
nghĩa duy vật thô sơ, tạo nên đầu mối cho khuynh hướng duy vật của Nho giáo về sau.
Nho giáo truyền đến đời Chiến Quốc thì gặp phải một thời trung suy, tình thế xã
hội lúc ấy loạn lạc đến cực điểm: phong tục hủ bại, luân thường đổ nát, vua chúa các
nước chỉ chăm lo việc chiến tranh, hết nước này đánh nước kia, việc can qua không
lúc nào ngừng nghỉ.
6
Sau Tuân Tử thì trong Nho giáo chỉ còn một người trứ danh hơn cả là Hàn Phi Tử,
song Hàn Phi Tử lại không phải là người chân Nho nữa, cho nên ta có thể nói Nho
giáo truyền đến đời nhà Tần là gián đoạn. Hàn Phi Tử học theo Tuân Tử dùng lí trí mà
suy luận cho đến tận cùng, tất phải thiên về mặt hình pháp và mặt công dụng, kết quả
là hình thành một chế độ chuyên chế độc tôn. Theo sách Hàn Phi Tử thì biết Nho học
đến cuối đời Chiến Quốc đã suy lắm rồi. Các học giả chỉ giữ cái lối thủ cựu, có việc gì
lại lấy chuyện thánh hiền đời cổ ra mà bài bác chứ không hiểu cái tinh thần của đạo
thánh hiền phải tùy thời mà tiến thủ. Bởi vậy mới gây thành nạn đốt sách chôn Nho ở
đời nhà Tần.
Khi Tần Thủy Hoàng mất, các nước chư hầu nổi lên đánh nhà Tần, trong thời cực
loạn như thế, người trong nước ai cũng mưu sự sinh tồn, việc học thuật bỏ hết cả. Đến
khi nhà Hán dẹp yên mối họa rồi dần dần chấn hưng lại nền văn hóa. Nho giáo từ đó
mới thịnh lên trở lại. Nho giáo từ thời Xuân Thu cho đến đời nhà Tần chỉ là một học
phái trong các học phái, tuy có cái tông chỉ quang minh chính đại nhưng vẫn không có
cái địa vị nhất tôn như đời nhà Hán trở đi. Vì có chế độ phong kiến quân chủ bảo hộ
cho nên Nho giáo mới có thế lực rất mạnh ở đời nhà Hán và mới lan ra khắp trong xã
hội Trung Hoa. Hán Nho có công sưu tập những sách cũ, giải thích các ý nghĩa và sắp
đặt các loại kinh truyện lưu truyền ở đời. Hậu thế nhờ đó mà biết được đạo của thánh
hiền. Song vì Hán Nho thiên về cái học chương cú, huấn hỗ, bỏ mất cái nghĩa lý sâu
xa, thành thử cái tinh thần của Nho giáo lại sai lầm đi nhiều. Những sự sai lầm ấy gây
thành cái lưu tệ rất lớn về sau. Tuy nhiên, Hán Nho đối với văn hóa xã hội Trung Hoa
cổ có công rất lớn là lấy cái học “minh kinh” mà xây đắp thành cái nền văn hóa rất

vững vàng lâu bền xưa nay chưa từng có.
Đến thời Tam Quốc, Lục triều, Nho giáo thường hay pha lẫn với Lão học, thịnh
về mặt từ hoa phù kinh, mà suy về đường nghĩa lý thiết thực. Đó là một phần bởi tình
trạng xã hội của nước Trung Hoa lúc bấy giờ loạn li mãi, lòng người chán nản, muốn
đem tinh thần tiêu dao ở chỗ siêu việt mà tránh cái khổ não ở đời. Một phần bởi cái lỗi
của Hán học là làm cùn nhụt mất khí phách linh động của Nho giáo lúc ban đầu. Qua
đời nhà Tùy và nhà Đường, Nho giáo có phần chấn hưng hơn trước nhưng chỉ thịnh về
đường văn chương, chứ về đường đạo lý vẫn không có gì khai sáng, phát minh ra thêm
được.
7
Ở đời nhà Tống, Nho học hưng thịnh hẳn lên nhất là văn học. Về đường học vấn
có những đại Nho như Thiệu Ung, Chu Đôn Di… xướng lên thuyết lý học; từ đó tinh
thần Nho giáo có khác đi so với đời Hán và đời Đường, và trình độ triết học của Nho
giáo cao lên ngang với Lão giáo và Phật giáo. Tống Nho tuy cũng có hấp thụ ảnh
hưởng của Lão giáo và Phật giáo, nhưng đại để là thấy rõ cái đạo của thánh hiền hơn
Hán Nho và Đường Nho. Tống Nho có công trong việc thấy được cái phần cao siêu
của Nho giáo, mài dũa cái danh tiết, cho nên Tống Nho có nhiều trung thần nghĩa sĩ
tuần tử về quốc nạn, quan tâm đến thế đạo và nhân tâm. Nhưng đến cuối đời Nam
Tống quốc thể đồi bại, giáo dục mục nát, các nho sư không có cái thực của sự giáo hối,
các sinh đồ chỉ đắm chìm ở đường lợi lộc, cho nên nước mất dân hèn. Tiếp theo là đến
thời trị vì của nhà Nguyên, Nho giáo đời nhà Nguyên tuy so với các đời trước thì
không bằng, nhưng cũng có vẻ thịnh đạt. Tuy nhiên ngoài sự học để giữ lấy cái danh
tiết cho trong sạch thì không có ai phát triển được điều gì cao minh hơn nữa.
Đến đời nhà Minh (1368 – 1648) Nho giáo không vượt ra ngoài phạm vi Tống
học, phái nào cũng thuộc về lý học cả. Cái học ấy tuy chia ra làm nhiều phái nhưng kết
cục vẫn theo cái tông chỉ thiên địa vạn vật nhất thể; và về đường thiết thực vẫn cố giữ
cái khí tiết của học giả.
Vào đời nhà Thanh (1644 – 1911) Nho giáo tuy là thịnh, các học giả, sách vở rất
nhiều, sự nghiên cứu rất tường tận và rất đúng phương pháp khoa học, nhưng có một
điều là Nho giáo đời nhà Thanh chỉ có tư cách khoa học mà không có tinh thần triết

học. Những danh nho thời kì này đều là các nhà bác học, song không có mấy người
hiểu biết chỗ uyên thâm của Nho giáo như đời nhà Tống và đời nhà Minh. Đến đời
Thanh mạt, Tây học dấy lên, có nhiều người muốn hủy hoại hết tinh thần của Nho giáo
để cho chóng bằng với các nước phương Tây. Nền Tây học tuy làm lu mờ đi tầm cỡ
của Nho giáo nhưng cũng chính nó, bằng sự tiến bộ của mình, đã làm mất đi những cái
hẩm nát, những điều hủ lậu của Nho giáo, để lộ ra những giá trị rực rỡ bội phần. Đó là
điều mà cả thế giới ngày nay phải công nhận.
1.1.2. Vị trí của người phụ nữ trong Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết của xã hội phong kiến, đã giữ vai trò thống trị trong
lịch sử tư tưởng Trung Quốc qua nhiều thế kỉ. Vì vậy, những quan điểm, đường lối,
phương pháp, chuẩn mực mà Nho giáo đề ra phục vụ đắc lực cho chính xã hội sinh ra
nó. Nho giáo bàn đến nhiều vấn đề như quan điểm thế giới (đạo, thiên mệnh…), học
8
thuyết về luân lý đạo đức với các tư tưởng căn bản như: nhân, lễ, trí, dũng, … Trong
đó chữ “nhân” được đề cập đến với ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là tư tưởng chủ
yếu quy định bản tính con người và những quan hệ giữa con người với con người từ
trong gia tộc đến ngoài xã hội. Bên cạnh đó, Nho giáo còn bàn về quan điểm chính trị -
xã hội với các phạm trù “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”… Vấn đề con người
cũng được Nho giáo bàn đến, vì muốn xây dựng thành công và giữ vị trí thống trị một
xã hội thì phải có người điều hành, tổ chức xã hội đó. Điều này khiến cho vấn đề con
người được xã hội phong kiến cũng như Nho giáo rất quan tâm. Vấn đề con người là
vấn đề trung tâm của Nho giáo, nhưng nó không được bàn đến trong tất cả các mặt mà
chỉ chú trọng vào khía cạnh luân lý, đạo đức nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn giai
cấp và ổn định trật tự xã hội.
Nhìn chung trong Nho giáo, người phụ nữ được đánh giá là một lực lượng cơ bản
để xây dựng xã hội, nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới. Họ chỉ tồn tại với
tư cách là một yếu tố cần, đủ cho trật tự gia đình, xã hội. Trong Nho giáo, số phận của
người phụ nữ cũng giống như số phận con người nói chung. Theo Khổng Tử, con
người có mệnh và không thể cưỡng lại mệnh; còn Mạnh Tử thì cho rằng, trời đã an bài
địa vị xã hội của con người. Đổng Trọng Thư thì cho rằng: trời là chủ tể của việc

người, người có công thì thưởng, có tội thì phạt, bắt khổ phải khổ, cho sung sướng
được sung sướng [16; tr.386]. Quan niệm này được xây dựng trên lập trường của giai
cấp thống trị, nó buộc con người nói chung và đặc biệt là người phụ nữ vào khuôn
phép nhất định của xã hội, nó xoa dịu mâu thuẫn giai cấp, sự bất công trong xã hội
phong kiến khiến cho người phụ nữ luôn cam chịu, nhẫn nhục, bằng lòng với số phận
của mình.
Tư tưởng của Khổng Tử về người phụ nữ không có nhiều, trong Luận ngữ chỉ có
một câu nhận xét về nữ giới: “Tử viết: Duy nữ tử dự tiểu nhân vi nan dưỡng dã. Cận
chi tắc bất tôn, viễn chi tắc oán”. Dịch là “Chỉ có đàn bà và tiểu nhân là khó đối xử.
Nếu gần thì họ xấc xược, nếu xa thì họ oán” [4; tr.282]. Có thể thấy rằng, Khổng Tử
xếp phụ nữ chung hàng với tiểu nhân. Vì vậy, chỉ có một cách khắc chế là khép họ vào
khuôn phép của lễ giáo. Đó là sợi dây tư tưởng buộc chặt nhân dân nói chung hay
người phụ nữ nói riêng vào chế độ phong kiến, để kéo dài chế độ ấy từ đời này qua đời
khác. Khổng Tử nghiêm khắc đòi hỏi phải tôn trọng những khuôn phép ấy trong mọi
quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè cũng như trong sinh hoạt hàng
9
ngày. Tuy rằng Khổng Tử có thái độ không mấy thân thiện với phụ nữ nhưng ông
không phải là người không biết đến giá trị của nữ giới. “Tử viết: Tài nan. Bất kì nhiên
hồ? Đường, Ngu chi tế, ư tư vi thạnh. Hữu phụ nhân yên, cửu nhân nhi dĩ”. Dịch là:
Khổng tử viết “Bậc nhân tài khó được. Lời ấy há chẳng đúng sao? Đời Đường của vua
Nghiêu, đời Ngu của vua Thuấn là khoảng đời thịnh trị chỉ có được năm bậc nhân tài
mà thôi. Đến đời nhà Chu của chúng ta, nhà vua khởi thủy là Võ Vương chỉ có được
mười bậc nhân tài thôi. Trong đó có một nữ nhân tài, thế thì nam nhân tài chỉ có chín
mà thôi”[4; tr.130 – 131]; người phụ nữ được Khổng Tử nhắc tới ở đây là bà Ấp
Khương, vợ vua Võ Vương. Như vậy, ta có thể thấy rằng Khổng Tử không phải là
người có thái độ khắt khe khinh rẻ phụ nữ mà chỉ sau khi Khổng Tử mất đi, những
người kế tục ông điển hình là Đổng Trọng Thư đã không thấy được những tư tưởng
của ông, hiểu nhầm dụng ý của ông, từ đó xây dựng nên những lễ giáo hà khắc, nghiệt
ngã để duy trì trật tự xã hội mà đặc biệt là đối với người phụ nữ nhằm xây dựng mẫu
người phụ nữ biết thân biết phận. Từ đời nhà Hán trở đi, tư tưởng khinh rẻ phụ nữ, coi

phụ nữ là những kẻ khó dạy “Phụ nhân nan hóa” ngày càng được khắc sâu và được
xây dựng thành những giáo lễ, giáo điều, chuẩn mực bắt buộc người phụ nữ phải thực
hiện theo. Từ đó cả xã hội phong kiến Trung Quốc nói chung luôn đặt người phụ nữ ở
địa vị thấp hèn và phụ thuộc vào người đàn ông.
Xã hội phong kiến Trung Quốc là xã hội nam quyền, phụ nữ chỉ là công cụ, và
phụ thuộc vào nam giới trong gia đình (người cha, người chồng, người con trai (con
trai trưởng)). Điều này được thể hiện qua các từ xưng hô với phụ nữ như “a đầu”, “phu
nhân”, “nội nhân”. “Phu nhân” chẳng qua được hiểu là người của “trượng phu” (tức là
người chồng). Giá trị nhân sinh quan của người phụ nữ chỉ là người giúp chồng trong
việc dạy con, nấu cơm, quét dọn, giặt giũ, hoàn toàn không có tư cách phục vụ quốc
gia và cộng đồng. Phạm vi hoạt động của họ cũng chỉ dừng lại ở trước và sau nhà,
không có quyền được ra ngoài xã hội. Có nghĩa là phụ nữ chỉ có thể cai quản gia sự
nhưng trong việc cai quản gia sự ấy họ phải thuận theo người chồng. Có những câu tục
ngữ như: “ Huynh đệ như thủ túc, thê tử như y phục” hay “Đánh vợ, mắng vợ, hết tiền
bán vợ” [35; tr.40]. Những câu nói này thể hiện sắc thái chủ nghĩa nam quyền, phản
ánh địa vị xã hội bị áp bức, bị ngược đãi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Trung Quốc.
10
Nho giáo Trung Hoa là triết học nam quyền, tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” là
thuận theo yêu cầu thống trị của nam giới, đưa tư tưởng “Nam tôn, nữ ti” ăn sâu vào
hệ thống giá trị xã hội, để lại dấu ấn không thể phai mờ. Sự kìm kẹp về lễ giáo thể hiện
trong cả những cử chỉ hành động nhỏ nhất như: “Hành bất động quần, tiếu bất lộ xỉ”
tức là “đi không được rung váy, cười không được lộ răng” [35; tr.41]. Hàng loạt những
yêu cầu, quy tắc cho phụ nữ bao gồm: lời ăn tiếng nói phải phải chuẩn mực, thái độ
phải cung kính lễ phép. Họ coi người phụ nữ là những kẻ ngu muội, không có trí tuệ
và không cần có trí tuệ để làm gì, vì ngoài chuyện tuân phục, chăm sóc chồng con thì
thiên chức của người phụ nữ nào có gì khác nữa. Người đàn ông trong xã hội phong
kiến Trung Quốc cần người phụ nữ ngu muội, vô tri để họ phải nhờ dựa vào sự đa tài,
bác học của người đàn ông. Cho dù người phụ nữ ấy có tài giỏi đến đâu đi nữa thì
cũng phải vờ như không biết, như vậy mới thỏa nguyện được tính tự tôn của người đàn

ông, mới nhận được sự yêu thương và che chở của họ. Đã không được thể hiện con
người mình, người phụ nữ còn phải chịu sự gán gép cho những tính xấu như lắm lời,
thích gây chuyện thị phi, dễ thay đổi, hay ghen ghét, lòng dạ độc ác, thâm hiểm khôn
lường. Ngay cả sắc đẹp của người phụ nữ cũng là cái để người đời gieo rắc bao tiếng
xấu. Trong sử sách Trung Quốc đã có những nhan sắc làm cho khuynh thành đổ nước
như truyện về Trụ Vương, Đát Kỉ …. Người ta đã có những câu chiêm nghiệm như:
“Triết phu thành thành, triết phụ ngiêng thành” tức là: “người đàn ông tài giỏi có thể
giúp quốc gia thịnh vượng, nhưng người phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi thì lại có thể gây
họa mất nước” [35; tr.45].
Thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc thật hẩm hiu,
cả cuộc đời họ là một chuỗi những bi kịch. Với sự chi phối của người đàn ông, từ khi
sinh ra họ đã không được chào đón với tư tưởng “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”,
người con gái không có quyền được hưởng thừa kế. Người ta cho rằng, người con gái
chỉ là thành viên tạm thời trong gia đình, khi lấy chồng thì là con người ta rồi. Chế độ
hôn nhân trong xã hội phong kiến là do cha mẹ sắp đặt, con cái không được phép
chống đối, bất luận người chồng ấy có như thế nào thì người vợ cũng phải theo. Khi về
nhà chồng rồi thì ngay cả tên họ của mình cũng không được giữ, phải sử dụng họ tên
chồng để xưng hô. Để đảm bảo quyền thừa kế cho người chồng thì người vợ phải sinh
được con trai. Theo quan niệm của người Trung Quốc trong xã hội phong kiến, trong 3
tội bất hiếu, tội không có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên là tội nặng
11
nhất. Vì thế nên người đàn ông có quyền có “năm thê bảy thiếp”, còn người phụ nữ đã
lấy chồng thì chỉ được biết đến một người chồng ấy mà thôi. Người đàn ông có vợ chết
mà đi bước nữa thì được coi là hợp với lẽ trời, còn người đàn bà có chồng chết thì phải
ở vậy “tòng tử”, thủ tiết suốt đời, nếu có đi bước nữa thì sẽ bị xã hội khinh ghét. Theo
đó, người phụ nữ phải sống theo chữ “Lễ” để ngăn cấm đại dục, phải khép mình vào
cái lễ giáo riêng của bản thân, coi đó như mục đích sống.
Vấn đề về người phụ nữ trong Nho giáo không được bàn luận nhiều và không có
hệ thống. Có thể nói trung tâm của vấn đề này chính là phạm trù “Tam tòng”, “Tứ
đức”, nó được coi là chuẩn mực cơ bản để xây dựng hình ảnh người phụ nữ trong xã

hội phong kiến.
1.2. Quan niệm về“Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
1.2.1 Nội dung của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
Nho giáo đặt ra một loạt những nguyên tắc lễ nghĩa như: “Tam cương”, “Ngũ
thường”, “Tam tòng”, “Tứ đức” để làm chuẩn mực cho mọi người trong xã hội thực
hiện nhằm đạt tới mục đích an sinh xã hội. Trong khi “Tam cương”, “Ngũ thường” là
chuẩn mực đạo đức mà người đàn ông, người quân tử phải theo, thì “Tam tòng”, “Tứ
đức” là cái lẽ đạo đức người phụ nữ dù muốn hay không muốn cũng phải thuận theo.
“Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức”được chép trong sách nghi lễ đời Hán mới xuất hiện”
[23; tr.227]
Tam tòng là: - Tại gia tòng phụ
- Xuất giá tòng phu
- Phu tử tòng tử
Có thể hiểu: người phụ nữ khi còn là con gái ở trong nhà phải thuận theo cha; khi
lấy chồng thì phải theo chồng; khi chồng chết thì phải theo con (con trai trưởng).
Tứ đức là: Công – Dung – Ngôn – Hạnh.
- Công là nữ công gia chánh, tề gia nội trợ. Chữ “công” đã bao gồm cả giới hạn và
phạm vi công việc mà người phụ nữ được tham gia đó là công việc gia đình. Người
phụ nữ phải khéo léo, biết làm việc một cách tỉ mỉ, có rèn luyện đến điệu nghệ.
- Dung là vẻ đẹp hình thức, là dung mạo, dáng điệu, nét mặt, cách đi đứng, nói
cười kết hợp với cách lựa chọn trang phục, trang điểm.
- Ngôn là lời ăn tiếng nói, nói năng phải có ý tứ, nhã nhặn, kín đáo, âm thanh của
lời nói phải nhỏ nhẹ, dễ nghe, thể hiện sự lịch sự lễ phép.
12
- Hạnh là hạnh kiểm, đức hạnh, phẩm giá, là sự nết na, hành vi theo mực thước của
người phụ nữ, lòng nhân ái, sự tuân theo những lễ giáo, hiếu đễ với cha mẹ, giữ trọn
trinh tiết với chồng.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại mà “bá đạo” (đạo của các nước chư hầu) lấn át
“vương đạo” (đạo của nhà Chu), trật tự lễ nghĩa của nhà chu bị đảo lộn. Trước tình
hình đó, đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong tầng lớp quý tộc cũ, Khổng

Tử chủ trương lập lại kỉ cương cũ của nhà Chu. Khổng Tử tập trung xây dựng mẫu
người quân tử với chủ trương “đức trị”, là mẫu người lý tưởng để người đàn ông trong
xã hội phong kiến phấn đấu. Về người phụ nữ, ông cũng cho rằng họ là một lực lượng
đông đảo để xây dựng xã hội, sự ổn định trật tự xã hội cũng một phần nào nhờ vào họ,.
Nhưng do quan niệm “trọng nam khinh nữ” nên ông hầu như không chú tâm xây dựng
mẫu người phụ nữ cụ thể cho xã hội đương thời. “Tam tòng”, “Tứ đức” là những quan
niệm cơ bản nhất về người phụ nữ của ông. Lý giải vấn đề này ta có một logic nhất
định, vì người đàn ông được coi trọng, được xem là trụ cột của gia đình và xã hội, nên
người phụ nữ luôn phải phụ thuộc vào họ. Nếu người đàn ông tu dưỡng đức tài để trở
thành những bậc thánh nhân quân tử, những bậc đại trượng phu, thì tất yếu ở vị trí phụ
thuộc người phụ nữ phải đi vào khuôn phép.
Mặt khác Khổng Tử luôn xem gia đình là tế bào của xã hội,”dục trị kí quốc giả,
tiên tề kì gia”dịch là “muốn sửa trị việc nước, trước hết phải sắp xếp nhà cửa cho
chỉnh đã” [4; tr.8-9]. Ông xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình
“phụ phụ, tử tử, huynh huynh, đệ đệ, phu phu, phụ phụ, nhi gia chính đạo” dịch là “
cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ” [18; tr.267].
Con cái trong nhà, đặc biệt là con gái thì phải hết lòng tuân phục người cha, như thế
mới được coi là có hiếu kính với cha mẹ. Việc “tòng cha” của người con trai thì lại có
những điều khác với người con gái. Với người con trai, “tòng cha” là phải chăm chỉ
học tập kinh sách để biết điều phải trái, cái đáng làm và cái không đáng làm để có lúc
khuyên can người cha, đó mới gọi là đạo hiếu. Còn đối với người con gái việc “tòng
cha” phải là hoàn toàn tuân phục, nghe lời, không có ý kiến gì xen vào quyết định của
người cha đối với mọi công việc trong gia đình và ngoài xã hội. Khi đi lấy chồng rồi
thì người phụ nữ phải phục tùng chồng mình. Mạnh Tử trong Đằng công văn thượng
có đoạn: “ Phụ tử hữu thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự,
bằng hữu hữu tín”. Có nghĩa là: “ cha con có thân, vua tôi có nghĩa, vợ chồng có khác,
13
già trẻ có tôn ti, bạn bè có niềm tin” [4; tr.168]. Trong đó, “phu phụ hữu biệt” có nghĩa
là sự khác biệt giữa vợ và chồng, người phụ nữ phải thuận theo chồng. Sự vinh hoa,
giàu sang, địa vị của họ chỉ dựa vào chồng con.

Xuất phát từ cơ sở xã hội với tư tưởng coi trọng huyết thống và từ thái độ coi
khinh phụ nữ khi xếp đàn bà và tiểu nhân cùng thuộc vào một hạng người khó nuôi
dạy, thì người phụ nữ chỉ biết sống ngoan ngoãn bên cạnh chồng, không có số phận
nào khác. Nếu như người đàn ông có “năm thê bảy thiếp” thì người đàn bà không thể
có hai chồng được ví như kẻ trung thần không được thờ hai vua “trung thần bất sư nhị
quân, liệt nữ bất giá nhị phu” [18; tr.269]. Nếu chẳng may người chồng mất đi thì
người phụ nữ phải ở vậy nuôi con, nếu không như vậy sẽ bị coi là thất tiết, và bị xã hội
khinh rẻ. Như vậy, theo đạo “Tam tòng” người phụ nữ trong suốt cuộc đời mình phải
phụ thuộc vào những người đàn ông đó là người cha, người chồng, người con (con trai
trưởng).
“Tứ đức” là những khuôn mẫu để từ đó người phụ nữ rèn luyện bản thân vào
khuôn phép, tự biết kiềm chế, tước bỏ mọi ham muốn cá nhân, chịu thuần dưỡng để
vâng lời, để nhường nhịn, để kiên nhẫn chịu chịu đựng và hi sinh vô điều kiện. Trong
bốn đức nêu trên, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh đức “hạnh”. Theo ông, người phụ nữ
đạt đến đức hạnh điều căn bản là phải có tấm lòng “hiếu” nhưng phải dựa trên cơ sở
“ái”, “kính”. Người có hiếu trước hết phải là người chăm sóc cha mẹ, chăm sóc nhưng
phải “kính”, không “kính” là bất hiếu. Trong đạo hiếu, Khổng Tử nhấn mạnh hai điều
“vô vi”, “vô cải”. Vô vi là cách đối nhân xử thế với cha mẹ trong hoàn cảnh bình
thường, thờ cha mẹ không trái lễ. Vô cải là cách đối xử với cha mẹ trong cảnh biến,
không thay lòng đổi dạ. Với hai điều này, Khổng Tử muốn nhấn mạnh đến chữ “tòng”
đối với cha mẹ của người con nói chung và của người phụ nữ nói riêng.
Từ thời Mạnh Tử trở đi Nho giáo tồn tại ngang với Lão giáo, Mặc giáo, cuối thời
Chiến Quốc, Nho giáo có phần suy tàn. Đến cuối đời Tây Hán, Nho giáo dần dần thịnh
và chiếm vị trí độc tôn. Hán Nho có công sưu tầm những kinh sách cũ, giải thích các ý
nghĩa và sắp đặt ra các kinh truyện lưu truyền ở đời. Nhưng Hán Nho lại thiên về cái
học chương cú huấn hỗ, bỏ mất cái nghĩa lý sâu xa, thành thử tinh thần ban đầu của
Nho giáo đã bị sai lệch đi rất nhiều.
Một đại biểu tiêu biểu của Hán Nho là Đổng Trọng Thư (180 – 105 trước Công
nguyên), dưới danh nghĩa là tiếp thu tư tưởng của Nho giáo nhưng trên thực tế Đổng
14

Trọng Thư đã khuếch trương những yếu tố duy tâm, thần bí trong học thuyết của
Khổng Tử. Tư tưởng triết học của Đổng Trọng Thư được coi như là hệ tư tưởng chính
thống, là khuôn mẫu đạo đức xã hội cho các triều đại phong kiến Trung Quốc. Tư
tưởng triết học và tư tưởng chính trị của ông thể hiện mục đích phục vụ cho vương
quyền của chế độ phong kiến. Cũng như những danh nho đời trước, Đổng Trọng Thư
cũng cho rằng trong quan hệ giữa con người với con người có ba mối quan hệ cơ bản:
vua tôi, cha con, vợ chồng, với “tam cương, ngũ thường”, “tam tòng, tứ đức”, nhưng
ông đã tước đi yếu tố nhân văn, nhân ái, tiến bộ của Khổng Tử và thay vào đó là
những quan niệm có tính nghiệt ngã, cứng nhắc, những quy tắc phi đạo đức:
“Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung
Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” [16; tr.394]
Từ đây có thể suy ra rằng, tình thế của người phụ nữ là phải tuyệt đối tuân lệnh,
người chồng nói dù đúng dù sai thì người phụ nữ không có quyền tham gia bình luận
hay phản kháng. Đạo lý làm người đã trở thành quy định khắt khe, bề tôi phải trung
với vua, con phải hiếu với cha mẹ, vợ phải giữ đạo tòng với chồng. Người phụ nữ lại
càng phải phục tùng một cách tuyệt đối hơn nữa với người cha, người chồng của mình;
giam mình trong vòng cương tỏa của “ Tam tòng, tứ đức” mà rèn luyện nhân cách, rèn
luyện kĩ năng, rèn luyện tính nhẫn nhục, chịu đựng để làm một người con có hiếu, một
người vợ biết phục tùng, một người mẹ biết chăm lo cho gia đình, con cái. Đó chính là
thiên chức thiêng liêng định sẵn cho người phụ nữ.
“ Tam tòng”, “Tứ đức” là hai pham trù cơ bản, là chuẩn mực để xây dựng mẫu
người phụ nữ phong kiến của Nho giáo, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ không thể
tách rời. Điểm chung giữa hai phạm trù này là chúng đều là những quy tắc, lễ nghĩa,
chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Hoa. Cả hai
phạm trù này đều được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng ngày một triệt để như
một công cụ đắc lực để giáo hóa người phụ nữ với mục đích: ổn định xã hội, bảo vệ
quyền lợi của giai cấp thống trị và chế độ phụ quyền.
Tuy nhiên, giữa chúng cũng có nét khác biệt ở phạm vi, đối tượng đề cập. Phạm
trù “Tam tòng” chỉ mối quan hệ giữa người phụ nữ với nam giới trong gia đình đó là
mối quan hệ với người cha, người chồng và người con trai. Nó đề cao sự phục tùng

một chiều, sự chung thủy của họ với người đàn ông. Còn phạm trù “Tứ đức” lại chú
trọng và sự tu dưỡng của chính bản thân người phụ nữ. Tu dưỡng công, dung, ngôn,
15
hạnh để đạt được “Tam tòng”, đó chính là điều kiện cần có để thực hiện tốt đạo tòng
cha, tòng chồng và tòng con. Ngược lại, “Tam tòng” lại là minh chứng cho “Tứ đức”,
cho phẩm hạnh của người phụ nữ. Trong bản thân phạm trù “Tứ đức”, các yếu tố cũng
có mối quan hệ với nhau; đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. “Hạnh” là nội
dung, “công, dung, ngôn” là hình thức. Một người phụ nữ biết học hỏi chăm chỉ để
làm việc, biết sửa soạn cho nhan sắc gọn gàng, thanh lịch, biết nói ra những lời lẽ tao
nhã, ý nghĩa, đó chính là những điều kiện để cho đức “hạnh” của người ấy được vẹn
toàn. Cả bốn yếu tố của “Tứ đức” bổ sung cho nhau và được thể hiện thông qua nhau.
Khi hiểu được mối quan hệ giữa các phạm trù, cũng như mối quan hệ của các yếu
tố trong một phạm trù, chúng ta sẽ có được thái độ khách quan, biện chứng khi xem
xét ảnh hưởng của chúng đối với người phụ nữ Việt Nam.
1.2.2 Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo ở Việt Nam.
Nho giáo có vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đạo Nho được
truyền bá vào Việt Nam không phải bằng con đường giao lưu văn hóa, cũng không
phải bằng con đường di cư của người bản xứ mà bằng con đường xâm lược của phong
kiến phương Bắc vào thế kỉ thứ II sau Công nguyên, tức là ngay từ thời Tây Hán. Việc
hai thái thú Tích Quang và Nhâm Biên dựng học hiệu để dạy lễ nghĩa ở Giao Chỉ đã
đánh dấu sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam. Nho giáo du nhập vào Việt Nam
thời Bắc thuộc không còn là Nho giáo của thời nguyên sơ mà là Nho giáo đã được Hán
Nho, trước nhất là Đổng Trọng Thư cải tạo cho thích hợp với chế độ phong kiến trung
ương tập quyền. Nho giáo thời kì đó vừa phục vụ cho trật tự của bộ máy quan liêu, vừa
được thần học hóa để kết hợp với Đạo giáo và dễ lợi dụng yếu tố mê tín của nhân dân.
Nho giáo lúc này là công cụ của bọn xâm lược mang theo nhằm mục đích đồng hóa,
thống trị lâu dài dân tộc ta. Sự áp đặt này mâu thuẫn gay gắt với thế giới quan chất
phác, với truyền thống cộng đồng và ý thức độc lập tự chủ của người Việt Nam. Vì
vậy bên cạnh việc chống áp bức bóc lột của bọn xâm lược, người Việt còn phải chịu sự
thống trị về mặt tư tưởng. Nhìn tổng thể thì trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, mặc

dù chính quyền phong kiến phương Bắc ra sức truyền bá đạo Nho nhưng Nho giáo vẫn
chưa có vai trò gì đáng kể trong xã hội Việt Nam. Từ đời nhà Hán, người nước ta học
tập Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo như bên Trung Quốc, nhưng Nho giáo vẫn chưa
thâm nhập sâu được ở trong dân gian vì Nho giáo gắn liền với gót chân của những kẻ
xâm lược. Hơn nữa, đạo Nho rất khó học vì phải biết chữ Hán; còn Phật giáo và Đạo
16
giáo với những triết lý bình dị, đứng về phía quần chúng đau khổ nên ưu thế vẫn thuộc
về phía Phật giáo và Đạo giáo.
Khi quân xâm lược bị đánh đuổi, nền độc lập được xây dựng, giai cấp phong kiến
Việt Nam bắt đầu củng cố nền thống trị trên mọi lĩnh vực. Cùng với việc thiết lập nhà
nước phong kiến với bộ máy quan lại rộng khắp, giai cấp phong kiến Việt Nam cũng
đã bắt đầu chú tâm vào việc tổ chức lại nền giáo dục, truyền bá cả Nho giáo, Phật giáo
và Đạo giáo. Chế độ phong kiến ngày càng được củng cố và phát triển, nhà nước
phong kiến cần những người có năng lực để phục vụ cho nó. Phật giáo và Đạo giáo
không thể đảm nhiệm được việc ấy. Nho giáo với cả một hệ thống tư tưởng tuyên
truyền và cổ vũ cho việc tôn thờ nhà vua mới có tác dụng tích cực bảo vệ chế độ
phong kiến và tôn ti trật tự của nó. Chính vì thế, các đời vua chúa tiếp theo mới dần
dần quan tâm đặc biệt và tích cực phát triển Nho giáo hơn. Từ thời nhà Lý, Trần trở đi
Nho giáo được coi trọng và và có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Ở triều Lý, năm 1070
vua Lý Thánh Tông (1034 – 1072) đã xây dựng văn miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và
72 người học trò của Khổng Tử. Quốc Tử Giám được thành lâp để làm nơi học tập cho
con em của tầng lớp quý tộc, quan lại, nền đại học Việt Nam bắt đầu được hình thành
từ đó. Năm 1096, Lý Nhân Tông (1073 – 1127) mở khoa thi tam trường để lựa chọn
hiền tài.
Sang đời nhà Trần, do yêu cầu củng cố chế độ phong kiến, bộ máy nhà nước cần
được tăng cường để củng cố quyền lực, Nho giáo đã được giai cấp quý tộc phong kiến
phát triển coi như là hệ tư tưởng chính thống. Đại bộ phận quan lại trong bộ máy nhà
nước đều xuất thân từ giới nho sĩ. Cuối đời Trần, xu thế Tống Nho đã thể hiện khá rõ ở
những nhà Nho như Chu Văn An, Trương Hán Siêu…
Đầu thế kỉ XV, khi Lê Lợi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, thành lập nhà

nước phong kiến triều Lê sơ thì chế độ phong kiến Việt Nam đã đi vào giai đoạn phát
triển cao nhất. Nho giáo chiếm địa vị độc tôn trong thượng tầng kiến trúc phong kiến.
Trên cơ sở thuyết chính danh và đạo “nhân” của Nho giáo, nhà nước phong kiến đời
Lê sơ đã ra sức ổn định và củng cố các quan hệ phong kiến với những thứ bậc, tôn ti
chặt chẽ. Đặc biệt ở đời vua Lê thánh Tông, đạo Nho đã đạt đến điểm cực thịnh.
Những tư tưởng của Nho giáo thời kì này vừa mang sắc thái của đạo Nho, vừa thấm
nhuần chủ nghĩa yêu nước, đây là nét đặc sắc trong truyền thống tư tưởng của dân tộc
Việt Nam.
17
Từ thế kỉ XVI trở đi, xã hội Việt Nam có nhiều biến động, Nho giáo từ đó cũng
bộc lộ những yếu kém và tiêu cực. Trước sự bất lực của Nho giáo trong việc lãnh đạo
đất nước, nhà nước phong kiến Việt Nam đã viện đến Phật giáo, Đạo giáo, tạo nên cái
thế “Tam giáo đồng nguyên” như là một sự bổ trợ cho sự phát triển của Nho giáo.
Sang thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh lật đổ chính quyền Tây Sơn lập nên triều Nguyễn, đây
cũng là thời kì chiến tranh liên miên, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân cực khổ. Để duy
trì bộ máy thống trị phong kiến, nhà Nguyễn đã chủ trương độc tôn Nho giáo, coi Nho
giáo là một công cụ đắc lực trong việc cai trị. Nhưng lúc bấy giờ Phật giáo và Đạo
giáo đang phát triển rất mạnh, cộng thêm sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của Thiên
Chúa giáo đã làm cho ý định này không thể thực hiện được. Thực dân Pháp xâm lược
nước ta và thiết lập nền thống trị của chúng, Nho giáo bị gạt sang một bên với dấu mốc
là việc chấm dứt thi cử từ năm 1917. Nhưng sau đó, thực dân Pháp lại tiếp tục sử dụng
Nho giáo nhằm ràng buộc nhân dân ta bằng trật tự và lễ giáo phong kiến.
Nho giáo đã đi cùng với lịch sử nước ta trên một chặng đường dài, trên chặng
đường ấy, Nho giáo đã để lại những ảnh hưởng rất sâu đậm đến tư tưởng của dân tộc
Việt Nam. Điều đáng chú ý là ở Việt Nam trong suốt thời kì phong kiến, mặc dù Nho
giáo chiếm một vị trí quan trọng, có khi là vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần, tư
tưởng nhưng chưa bao giờ Nho giáo là rập khuôn, thuần túy như trên quê hương đã
sản sinh ra nó, mà nó mang đậm màu sắc Việt Nam.
Để giữ vững vị tri thống trị của mình, vấn đề đầu tiên mà nhà nước phong kiến đặt
ra là xây dựng con người phục vụ cho xã hội phong kiến Việt Nam độc lập. Để làm

được điều này, nhà nước phong kiến Việt Nam đã sử dụng Nho giáo làm hệ tư tưởng
thống trị, làm công cụ giáo huấn nhân dân và đối với người phụ nữ thì quan niệm
về”Tam tòng, tứ đức” chính là cái chuẩn mực để cho họ làm theo. Đây chính là cơ sở
xã hội, là điều kiện cơ bản nhất để cho quan niệm về “Tam tòng, tứ đức” tồn tại được
trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên ở Việt Nam, quan niệm này được tiếp thu, vận dụng
một cách sáng tạo chứ không phải bê nguyên xi nội dung của “Tam tòng”, “Tứ đức”
trong Nho giáo của Trung Quốc.
Nhân dân Việt nam có truyền thống tôn trọng phụ nữ, ngay từ buổi hồng hoang
của dân tộc ta, người phụ nữ đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong xã hội. Điều đó
được thể hiện hết sức đậm nét trong kho tàng thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ca dao,
tục ngữ Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều ghi nhớ huyền thoại về tổ tiên, gốc
18
gác của mình đó là truyền thuyết con rồng, cháu tiên với cha là Lạc Long Quân, mẹ là
Âu Cơ. Từ đó có biết bao nhiêu sự tích, truyền thuyết đều có nói đến người phụ nữ với
tấm lòng tôn kính. Người anh hùng làng Gióng có mẹ mà “không cần” có cha, Sọ Dừa
cũng chỉ biết mẹ… Sau đó, hình ảnh người cha xuất hiện nhưng vẫn không thể vượt
qua được vai trò của người mẹ. Khi chuyển từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ, các
thế hệ người Việt vẫn kế thừa và bảo lưu truyền thống tốt đẹp này. Tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt Nam đâu cũng có. Đó cũng là những minh chứng xác đáng để
chứng minh cho việc người Việt Nam rất coi trọng người phụ nữ dù họ ở cương vị nào
Nho giáo được truyền vào Việt Nam với tất cả những tư tưởng về triết học, chính
trị, đạo đức của nó. Mặc dù, những tư tưởng thống trị có phần khắc nghiệt đó không ăn
sâu vào trong dân gian Việt Nam nhưng nó cũng đã có phần ảnh hưởng vào đời sống
văn hóa của dân tộc ta. Nội dung quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” ở Việt Nam
nhìn chung không có gì khác biệt so với nội dung quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức”
ở Trung Quốc.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến Trung Quốc ở vào địa vị phụ thuộc trong
sản xuất xã hội. Họ luôn ở địa vị phục tùng và bị chi phối, là tầng lớp thấp nhất trong
xã hội, trở thành những người bị chà đạp, ức hiếp và đáng thương. Trong xã hội phong
kiến Việt Nam địa vị của người phụ nữ cũng vô cùng thấp kém. Nhưng nếu so với xã

hội phong kiến Trung Quốc, việc thực thi quan niệm “Tam tòng”, “Tứ đức” trong xã
hội Việt Nam vẫn có những điều khác biệt.
Một là, do tác dụng của người phụ nữ Việt Nam không chỉ đóng khung trong nội
bộ gia đình. Họ có thể tham gia một số hoạt động kinh tế xã hội và sản xuất kinh
doanh như: mở hiệu buôn, mở hàng ăn, làm xưởng gia công … Việc chợ búa, buôn
bán phần nhiều do phụ nữ đảm nhiệm nên kinh tế gia đình phần nhiều do phụ nữ quản
lý. Trong sản xuất nông nghiệp lại càng không thể thiếu phụ nữ. Có thể thấy phụ nữ
Việt Nam không đứng ngoài hoạt động xã hội.
Hai là, trong gia đình, người phụ nữ Việt Nam không phải mọi việc đều nghe lời
nam giới. Trái lại họ có quyền có tiếng nói trong công việc gia đình; đối với những
công việc trọng đại, cả vợ lẫn chồng đều cùng nhau bàn bạc. Tục ngữ Việt Nam có
câu: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
Ba là, trong việc hôn nhân, người phụ nữ Việt Nam có chút bình đẳng hơn so với
người phụ nữ Trung Quốc. Hay trong việc thừa kế, quyền lợi của người phụ nữ Việt
19
Nam cũng được bảo vệ. Trong Bộ luật Hồng Đức có những điều luật cụ thể quy định
rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của người phụ nữ.
Ngoài ra, trong xã hội phong kiến Việt Nam, phụ nữ thuộc tầng lớp xã hội nào
chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho gia càng lớn thì thì sự trói buộc của lễ giáo phong kiến
mà cụ thể là quan niệm “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với họ càng nặng nề, như trong các
gia đình hoàng tộc, quan lại, nho sĩ. Còn người phụ nữ trong các gia đình bình dân do
chịu ảnh hưởng tu tưởng Nho gia tương đối ít, nên sự trói buộc của lễ giáo phong kiến
đối với họ cũng tương đối ít.
Hơn nữa, bản thân người phụ nữ Việt Nam từ xưa đã thực hiện rất tốt những yêu
cầu trong nội dung của “Tam tòng”, “Tứ đức” nên việc tiếp thu cũng trở nên nhanh
chóng, còn việc thực hiện thì thiên về tính tự nguyện nhiều hơn. Với truyền thống tôn
trọng người phụ nữ có từ lâu đời thì nội dung của “Tam tòng”, “Tứ đức” khi đi vào
thực hiện trong xã hội Việt Nam đã bớt phần khắt khe hơn.
Tuy nhiên, ta cũng không thể không kể đến những hệ lụy mà Nho giáo để lại sau
hàng nghìn năm phong kiến Trung Quốc đô hộ nước ta. Đó là việc nảy sinh ra các

quan niệm, phong tục cổ hủ, lạc hậu trong xã hội gây ảnh hưởng không nhỏ đến người
phụ nữ. Có thể kể đến những tư tưởng như “trọng nam khinh nữ”, “nam tôn nữ ty”,
“nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “trai năm thê bảy thiếp”. Từ đó mới sinh ra các
hủ tục lạc hậu như tục tảo hôn, cưỡng hôn, đa thê. Người phụ nữ không thể tham gia
khoa cử, không thể làm quan, không thể tham gia các hoạt động cúng tế. Có thể thấy
những quan niệm, phong tục lạc hậu này vốn không có trong xã hội Việt Nam mà do
ảnh hưởng từ những tư tưởng trong Nho giáo du nhập vào Việt Nam, nó đã để lại
nhiều hậu quả đáng buồn và đè nặng lên tâm lý người phụ nữ Việt Nam, tạo nhiều bất
công đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Ngày nay, chúng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nho giáo
không còn giữ vai trò chi phối trong hệ tư tưởng của người dân Việt Nam, nhưng nó
vẫn còn ảnh hưởng trong sinh hoạt và nếp nghĩ của người Việt Nam; cụ thể đối với
người phụ nữ là quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức”. Xuất phát từ những cơ sở trên
chúng ta sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng”,”Tứ đức” đối với
người phụ nữ Việt Nam hiện nay để có được cái nhìn tổng thể, có thái độ khách quan
trong việc đánh giá về giá trị tích cực cũng như hạn chế của nó.
20
21
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Ảnh hưởng của “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay
2.1.1. Ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng” đối với người phụ nữ giai đoạn
từ phong kiến Việt Nam độc lập đến năm 1945.
Dân tộc ta từ lâu đời đã xây dựng những tình cảm sâu sắc và thủy chung giữa cha
mẹ với con cái và trong tình nghĩa vợ chồng, anh em bè bạn. Đó là những tình cảm tự
nhiên, bình đẳng và lành mạnh. Nhưng từ khi Nho giáo thâm nhập vào những mối
quan hệ đó thì truyền thống đạo đức của nhân dân ta đã bị cải biến đi nhiều và nhiều
lúc nó trở thành xiềng xích nô lệ. Từ khi bước lên vũ đài lịch sử, các triều đình phong
kiến Việt Nam đã dần dần áp dụng triệt để những quy tắc, những chuẩn mực trong nội

dung của Nho giáo để từng bước ổn định trật tự xã hôi, phục vụ cho công cuộc thống
trị của mình đối với xã hội. Chủ trương duy trì đạo “Tam tòng” đối với người phụ nữ
là để duy trì quyền lực của người đàn ông, đảm bảo tôn ti trật tự từ trong gia đình ra
ngoài xã hội.
Người con gái khi chưa lấy chồng, khi còn được ở nhà với cha mẹ thì phải nghe
lời cha mẹ. Trong chuyện hôn nhân, nhân dân ta vốn có truyền thống lành mạnh “trai
khôn tìm vợ, gái lớn gả chồng”. Tuy nhiên, từ khi lễ giáo Nho học thâm nhập vào cuộc
sống của nhân dân, với tư tưởng “nam nữ thụ thụ bất thân” người phụ nữ không có
quyền tự do yêu đương, lựa chọn bạn đời mà phải phụ thuộc vào sự quyết định của cha
mẹ, thế nên mới xảy ra những cảnh ngang trái:
“Thân em mười sáu tuổi đầu
Cha mẹ gả ép làm dâu nhà người
Nói ra sợ chị em cười
Năm ba chuyện thảm, chín mười chuyện cay”
Khác với lễ giáo phong kiến, quan hệ vợ chồng ở Việt Nam trước kia là quan hệ
bình đẳng “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, họ là những người bạn
chiến đấu đồng tâm đồng ý với nhau, họ là những người hợp tác với nhau trong sản
xuất:
“Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”
22
Dưới ách thống trị hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, lễ giáo phong kiến
cũng có những tác động vào suy nghĩ của nhân dân ta, địa vị của người phụ nữ cũng vì
thế mà dần dần bị hạ thấp. Người phụ nữ phải chịu rất nhiều đau khổ. Nhưng họ vẫn là
những người vợ thủy chung, hình tượng “hòn vọng phu” và câu chuyện về nó là một
minh chứng cụ thể nhất.
Từ khi Việt Nam trở thành một nước độc lập, các triều đình phong kiến Việt Nam
đã từng bước đưa Nho giáo vào làm hệ tư tưởng chính thống để cai trị đất nước. Quan
niệm về “Tam tòng” được coi là lý tưởng sống của những người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Cả cuộc đời họ phải sống phụ thuộc vào người đàn ông, đây cũng chính là

một trong những cách để giữ cho xã hội trật tự, ổn định. Các triều đình phong kiến
luôn có những quy định rất chặt chẽ để đảm bảo mỗi người phụ nữ trong xã hội phải
làm tròn đạo “tòng” và bảo vệ quyền của người đàn ông. Pháp luật phong kiến cho
phép người chồng có thể bỏ vợ nếu như người vợ phạm vào một trong bảy tội “thất
xuất” là: không có con, dâm dật, không thờ cha mẹ chồng, lắm miệng, trộm cắp, ghen
tuông, có ác tật [2; tr.12]. Lễ giáo phong kiến có những hình phạt rất dã man nếu
người phụ nữ lỡ phạm tội; lễ giáo ấy cạo đầu bôi vôi những người con gái trót không
chồng mà chửa, đóng bè chuối thả trôi sông những người vợ ngoại tình, trong khi
người chồng “năm thê bảy thiếp” lại là việc bình thường và được pháp luật bảo vệ.
Người đàn bà có chồng chết thì cứ phải ở vậy, đi lấy chồng khác là thất tiết và sẽ bị xã
hội chê cười. Giai cấp phong kiến đã nâng chữ “tòng tử” thành một nguyên tắc, chuẩn
mực để đánh giá phẩm chất của người phụ nữ. Người phụ nữ nào suốt đời ở vậy thờ
chồng, nuôi con thì sẽ được phong tặng cho bốn chữ “Tiết hạnh khả phong”. Dư luận
xã hội đối với những người phụ nữ đó là kính trọng, là ngưỡng mộ. Điều này đã hình
thành nên thói quen tâm lý rất lớn trong việc đánh giá tiết hạnh của người phụ nữ trong
xã hội Việt Nam
Tuy nhiên, khác với các triều đại phong kiến Trung Quốc, ở Việt Nam đặc biệt là
ở triều Lê trong bộ Luật Hồng Đức đã có những điều luật bênh vực bảo vệ quyền lợi
của người phụ nữ. Điều 322 trong bộ Luật Hồng Đức quy định: con gái hứa gả chồng
mà chưa thành hôn, nếu người con trai có ác tật hay phạm tội hay phá tán gia sản thì
cho phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ [26; tr.126]. Điều luật này đã đảm
bảo cho người phụ nữ khi hứa hôn không bị ràng buộc, nhất là khi người đàn ông đó
không thể đảm bảo hạnh phúc cho người vợ sau này.
23
Khi đã thành hôn, mặc dù xã hội cũ người đàn ông có quyền “năm thê bảy thiếp”
nhưng điều 308 của luật Hồng Đức quy định: Phàm chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng
không đi lại (vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng) thì mất vợ, nếu vợ
đã có con thì cho hạn một năm. Vì việc quan phải đi xa thì không theo luật này. Nếu
đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm. [26; tr.122]. Quy định
này không có trong bất cứ bộ luật nào của Trung Quốc cũng như các văn bản cổ luật

trước và sau triều Lê.
Trong quyền thừa kế tài sản, con gái cũng có phần như con trai. Điều 388 của luật
Hồng Đức viết: cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư mà anh chị em
tự chia nhau thì lấy 1/20 số ruộng đất là hương hỏa, giao cho người con trai trưởng
giữ, còn lại thì chia nhau. Còn điều 373 – 374 quy định: người phụ nữ có quyền sở hữu
về tài sản, gặp trường hợp phải phân chia tài sản giữa vợ và chồng thì luật pháp công
nhận cho người phụ nữ có quyền sở hữu với tài sản riêng của mình do cha mẹ cho khi
đi lấy chồng và có quyền hưởng thụ bình đẳng, chia đôi với tài sản do hai vợ chồng
chung sức gây dựng nên. [26; tr.139]. Ở điều 310 quy định: ngay cả khi người vợ
phạm vào tội “thất xuất”, người chồng cũng không thể bỏ vợ khi ở trong một trong ba
trường hợp sau: người vợ đã để tang nhà chồng ba năm, khi lấy nhau nghèo mà bây
giờ giàu có, khi lấy nhau vợ còn họ hàng mà khi bỏ nhau lại không có bà con để trở
về. [26; tr.123]
Như vậy, bộ Luật Hồng Đức đã có những điều luật hết sức tiến bộ để bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ trong phạm vi của “Tam tòng”, điều này thể hiện sự áp
dụng có sáng tạo, đổi mới lễ giáo phong kiến của Trung Quốc vào nước ta.
Trong bộ Luật Gia Long của triều đình nhà Nguyễn cũng có một số điều quy định
phần nào chú ý đến quyền lợi và thân phận của người phụ nữ. Luật Gia Long nghiêm
cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa gạt để kết hôn. Quyển 7 Hộ luật
hôn nhân điều 12 Cưỡng chiếm lương gia thê nữ viết rằng : cưỡng đoạt vợ, con gái nhà
lành bán cho vương phủ, cho nhà huân công hào thích thì đều bị xử giam chờ thắt cổ.
Hay điều 15 Xuất thê viết rằng: nếu chồng bỏ vợ đi biệt ba năm, trong thời gian ấy
không báo quan biết rồi bỏ đi thì phạt 80 trượng, tự ý cải giá thì phạt 100 trượng [15;
tr.56].
Quan niệm về “Tam tòng” và việc thực thi nó trong thực tế xã hội phong kiến đã
cho thấy chế độ phục tùng được nhà nước phong kiến ra sức củng cố bằng pháp luật,
24
luân lý, dư luận xã hội. Cái thòng lọng gia trưởng, phụ quyền đó ngày càng được thắt
chặt đối với người phụ nữ, làm cho họ trở thành những người bị áp bức nhất trong
những người bị áp bức. Các triều đại phong kiến của Việt Nam một mặt đưa ra những

điều luật để bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, mặt khác lại phổ biến sâu rộng lễ giáo
phong kiến nhằm đạt được mục đích ổn định xã hội để dễ bề cai trị.
2.1.2. Ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng” đối với người phụ nữ giai đoạn
từ năm 1945 đến nay.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đánh đổ chế độ thực dân xâm lược của thực
dân Pháp và chế độ phong kiến đã tồn tại hàng trăm năm, đưa đất nước đi theo con
đường mới, con đường xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội phong kiến, mà trong đó Nho
học làm nền tảng tư tưởng đã không còn cơ sở để tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của Nho giáo nói chung và quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức”nói riêng vẫn
còn tồn tại và có thể phát huy tác dụng tích cực trong việc xây dựng hình mẫu người
phụ nữ trong thời kì mới.
Sau cách mạng tháng Tám và sự sụp đổ của thành trì phong kiến, người phụ nữ
được giải phóng, họ được đưa lên địa vị làm chủ xã hội, có quyền bình đẳng với nam
giới và có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ năm
1945 đến năm 1975, đất nước ta vẫn còn chìm trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, đạo
“Tam tòng” đối với người phụ nữ trong thời chiến đã mang những nội dung mới, nổi
bật là tấm lòng thủy chung chờ đợi của họ. Nhiều người phụ nữ hết tiễn chồng rồi lại
tiễn con vào chiến trường. Từ đó, cuộc đời họ là những tháng ngày chờ đợi mòn mỏi.
Sự gặp gỡ và hạnh phúc của người phụ nữ với chồng với con của họ có khi chỉ được
tính bằng giờ, bằng phút. Triệu triệu người phụ nữ Việt Nam đã hi sinh tất cả tuổi trẻ,
tình yêu, niềm hạnh phúc và cả những khát vọng của bản thân cho sự bình yên của Tổ
quốc như vậy. Người phụ nữ luôn bị coi là phái yếu, luôn cam chịu, an phận. Nhưng
trong hoàn cảnh đất nước đang bị quân thù giày xéo, mỗi làng quê trên đất nước Việt
Nam là một pháo đài, thì mỗi người phụ nữ cũng trở thành một người chiến sĩ, họ
tham gia vào lực lượng thanh niên xung phong, phá đá, mở đường, tải đạn, đóng góp
sức mình giành lại độc lập cho đất nước. Có những tấm gương những người phụ nữ đã
trở thành huyền thoại như: mười cô gái thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc,
nữ anh hùng lưc lựng vũ trang Nguyễn Thị Chiên, Trần Thị Lý … Nhà thơ Tố Hữu đã
có những vần thơ ca ngợi sự anh dũng của người phụ nữ:
25

×