Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lối sống của người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 108 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN VĂN TẶNG








TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC











HÀ NỘI - 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN VĂN TẶNG





TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS NGÔ NGỌC THẮNG







HÀ NỘI - 2011
MỤC LỤC
Mở đầu 1
Chƣơng 1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT
LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO 9
1.1. Quá trình hình thành và biến đổi của Nho giáo 9
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc 9
1.1.2. Sự hình thành và biến đổi của Nho giáo 14
1.2. Một số nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo 17
1.2.1. Khái niệm về triết lý 17
1.2.2. Khái niệm về nhân sinh 19
1.2.3. Về cái sống và cái chết 21
1.2.4. Về bản tính con người 23
1.2.5. Về đạo đức 25
1.2.6. Về hình mẫu con người 27
1.2.7. Về sự tự học, trau dồi kiến thức cho bản thân 32

1.2.8. Về sự tự học, trau dồi kiến thức cho bản thân 34
Chƣơng 2. ẢNH HƢỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO ĐỐI
VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM 44
2.1. Con đường du nhập và sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho
giáo 44
2.1.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam 44
2.1.2. Sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho giáo 46
2.2. Một số ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho giáo đối với lối sống
của người Việt Nam 53
2.2.1. Trong quan niệm về cuộc sống, tổ tông và con cháu 53
2.2.2. Trong quan hệ coi trọng sự ổn định cộng đồng, xã hội 57
2.2.3. Trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội 59
2.2.4. Trong tư tưởng “lấy dân làm gốc” 63
2.2.5. Trong quan niệm về nhân ái 66
2.2.6. Trong quan niệm về giáo dục, nuôi dưỡng con người 70
2.2.7. Những hạn chế và tiêu cực của triết lý nhân sinh Nho giáo 74
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP CỦA TRIẾT
LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT
NAM HIỆN NAY 77
3.1. Hướng tiếp cận kế thừa, phát huy những giá trị triết lý nhân sinh Nho
giáo 77
3.2. Một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy những giá trị triết lý
nhân sinh Nho giáo 80
3.2.1. Đề cao tinh thần tự học, coi trọng hiền tài, coi trọng việc dạy và
học theo tinh thần "học không biết chán, dạy không biết mỏi" 80
3.2.2. Đề cao sự tu dưỡng, rèn luyện và trau dồi đạo đức cá nhân 82
3.2.3. Phát huy tư tưởng đề cao đạo đức, giáo dục từ gia đình 83
3.2.4. Phát huy truyền thống yêu nước, thương nòi 85
3.2.5. Cần phải nâng cao kỷ cương phép nước, trú trọng quy ước cộng
đồng 86

3.2.6. Xây dựng mẫu người lý tưởng làm mục tiêu phấn đấu cho mọi người 89
3.2.7. Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở đảm bảo cho các thành
viên trong gia đình bình đẳng với nhau 92
3.2.8. Nâng cao vai trò của pháp luật với việc giáo dục đạo đức trong
đời sống xã hội 94
Kết luận 98
Danh mục tài liệu tham khảo 100



1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc là một nước lớn, có lịch sử văn hóa lâu đời và ảnh hưởng
sâu, rộng trên thế giới. Nền văn hoá Trung Hoa cổ đại là chiếc nôi của nền
văn minh phương Đông, nó còn hàm chứa bao giá trị tinh thần bí ẩn, độc đáo
và hữu ích. Những giá trị tiềm tàng ấy đã, đang và sẽ thu hút sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu văn hoá không những ở nước ta mà còn trên phạm vi cả
thế giới. Ngày nay, đã có nhiều cuộc Hội thảo bàn về triết lý nhân sinh Nho
giáo và ảnh hưởng của nó được tổ chức nhiều ở các nước, như: Trung Quốc,
Nhật Bản, Singapo, Việt Nam Các ấn phẩm về triết lý nhân sinh Nho giáo
Trung Hoa cổ đại được dịch và phát hành rộng rãi ở nhiều quốc gia, như:
Anh, Pháp, Nga, Mỹ Tựu trung lại, mục tiêu của việc này là nhằm nghiên
cứu và đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của triết lý nhân sinh Nho
giáo trong các học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại với quá trình phát triển
nhân loại trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế, có những diễn biến thuận, nghịch vô cùng phức tạp trên mọi mặt
của đời sống xã hội. Trước những vấn đề lối sống, đạo đức đang diễn ra phức
tạp trong xã hội ta hiện nay lại đặt ra những câu hỏi, phải chăng chúng ta có
một thời kỳ quá coi nhẹ những giá trị nhân sinh truyền thống; đã gạt bỏ đi

nhiều những nhân tố tốt đẹp mà nếu biết sáng tạo và phát huy đã có thể góp
phần củng cố cuộc sống gia đình, hoàn thiện các quan hệ xã hội, phát huy sức
mạnh cộng đồng để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng rất lâu đời và sâu sắc của nền
văn hoá Trung Hoa cổ đại. Đặc biệt là triết lý nhân sinh Nho giáo đã được
những nhà lãnh đạo, quản lý sử dụng như là tư tưởng chủ đạo trong kiến trúc
thượng tầng xã hội suốt thời kỳ phong kiến và cho đến hôm nay, nó vẫn còn
tồn tại hiện hữu và tiếp tục tác động trên mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày

2
nay, chúng ta tìm hiểu những triết lý nhân sinh Nho giáo không phải chỉ để
thấy được sự vĩ đại của những triết gia mà mục đích thiết thực hơn là để "Coi
trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, lòng
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hoá, lịch
sử dân tộc và bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người và
tiền đồ của đất nước, bồi dưỡng ý thức và năng lực phát huy giá trị văn hoá
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại" [10, tr.55] trong thời kỳ hội nhập
kinh tế quốc tế.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng - văn hoá Việt Nam người ta thường nói
đến sự du nhập và vai trò của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong lịch sử tư
tưởng, văn hoá của dân tộc. Nhưng về cội nguồn của sự gắn bó, giao thoa, ảnh
hưởng của ba đạo mới chỉ là những nhận định, nghiên cứu mang tính chất
tổng quan. Vì vậy, nghiên cứu triết lý nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại
để tiếp tục làm rõ những nhận định này sẽ giúp cho chúng ta có hướng tiếp
thu, kế thừa, phát huy văn hoá truyền thống một cách đúng đắn hơn.
Những năm gần đây, các học viên cao học ở Trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng giảng viên lý luận chính trị, phần lớn là giảng viên các trường đại học,
cao đẳng, trung cấp Khi giảng dạy cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn
trong việc giảng dạy môn Lịch sử triết học, trong đó có phần triết học phương
Đông, cụ thể là những triết lý nhân sinh trong các học thuyết triết học Trung

Hoa cổ đại chưa được hệ thống hoá thành chuyên khảo và nghiên cứu ảnh
hưởng của nó đối với văn hoá nước ta, đặc biệt là đối với lối sống của con
người trong thời kỳ hội nhập. Các phạm trù: trung, hiếu, đức, nhân, tâm, lợi
đã xuất hiện khá phổ biến trong cuộc sống hàng ngày, trên nhiều lĩnh vực
nhưng nội hàm những giá trị và sự tiếp biến của nó còn ít người hiểu một cách
tường tận và sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả nghiên cứu và giảng dạy phần lịch sử phương Đông, đánh giá đúng
giá trị tiềm ẩn trong kho tàng văn hoá truyền thống và để góp phần vào xây

3
dựng lối sống, nếp sống mới mang đậm đà bản sắc dân tộc. Cho nên, tôi chọn
vấn đề triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lối sống của
người Việt Nam làm đề tài để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trung Quốc là quê hương của những tư tưởng đặc sắc, uyên thâm và bí
ẩn mà cho đến nay, nhân loại vẫn đầy ngưỡng mộ và khâm phục. Vì vậy, vấn
đề tư tưởng - văn hóa Trung Hoa cổ đại nói chung, triết lý nhân sinh Nho giáo
nói riêng đã thu hút nhiều sự tranh luận, quan tâm nghiên cứu của nhiều học
giả.
Trên thế giới một số nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo nhưng vẫn đạt
được một số kết quả khả quan về ổn định xã hội và phát triển kinh tế do biết
phát huy những mặt tích cực của Nho giáo, từ công cuộc đổi mới đất nước
hiện nay đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn và phát huy những truyền thống văn
hóa của dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu về Nho giáo ở
Việt Nam, nêu ảnh hưởng của nó trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính
trị, xã hội, giáo dục… Và đặc biệt những vấn đề của Nho giáo được đem ra
bàn luận, như: Vì sao Nho giáo lại có sức sống dai dẳng hàng ngàn năm ở các
nước Phương Đông; Nho giáo là học thuyết chính trị - xã hội hay là học
thuyết về đạo đức, nhân sinh; Về trung - hiếu - lễ và ảnh hưởng của nó đối với
lối sống như thế nào… Liên quan đến lĩnh vực này có các công trình của

những tác giả:
Cuốn: Triết lý nhân sinh của Lê Kiến Cầu. Tác giả đã trình bày một
cách logic, khoa học, phân tích khá cụ thể các vấn đề nhân sinh, ý nghĩa nhân
sinh trên các bình diện khác nhau, như ý nghĩa nhân sinh, vấn đề nhân sinh và
nhân sinh quan, qua đó giúp cho độc giả có thể rút ra những suy nghĩ, cách
giải quyết vấn đề của bản thân một cách hiệu quả. Tuy nhiên, tác giả đề cập
vấn đề nhân sinh qua các câu hỏi nhỏ rồi tự trả lời các câu hỏi đó dưới dạng
thảo luận vấn đề.

4
Cuốn: Nho giáo, ảnh hưởng của nó - vấn đề của ngày xưa và ngày nay
ở nước ta của cố Phó Giáo sư Trần Đình Hượu. Trong đó tác giả đã hệ thống
hoá quá trình hình thành và phát triển của Nho giáo một cách khái quát, phân
tích những giá trị truyền thống ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân, chỉ ra
những mặt tích cực cũng như hạn chế của Nho giáo. Từ đó đưa ra những nhận
định đối với sự tồn tại của Nho giáo trong trong lịch sử.
Cuốn: Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam
của Đào Duy Anh. Đây là công trình nghiên cứu công phu, trong đó tác giả đã
phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo trên bình diện chính trị, văn hoá, xã
hội và từ đó đưa ra nhận định riêng về ảnh hưởng của những giá trị Nho
giáo đối với văn hóa nước ta.
Cuốn Bàn về Nho giáo của Nguyễn Khắc Viện, trong đó tác giả đã nêu
những mặt tích cực cũng như hạn chế của Nho giáo; Bàn về những điều tâm
đắc của mình khi nghiên cứu, tìm hiểu Nho giáo, đánh giá cao đạo làm người
và vấn đề đối nhân xử thế của Nho giáo.
Ngoài ra còn phải kể đến: Nguyễn Đăng Duy với Nho giáo với văn hóa
Việt Nam; Vũ Khiêu với Nho giáo và đạo đức, Nho giáo và sự phát triển ở
Việt Nam; Nguyễn Tài Thư với Nho học và Nho học ở Việt Nam và vấn đề
con người trong Nho học sơ kỳ; Nguyễn Hùng Hậu với triết lý trong văn hóa
phương Đông; Vũ Khiêu với Nho giáo và gia đình; Quang Đạm với Nho giáo

xưa và nay; Hà Thúc Minh với Đạo Nho và văn hóa Phương Đông; Trần Thị
Hồng Thúy với Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa yêu nước Việt
nam truyền thống.
Bên cạnh việc phân tích những ảnh hưởng của Nho giáo, nhiều tác giả
còn đặt ra vấn đề kế thừa và phát huy những giá trị tích cực, khắc phục tiêu
cực, góp phần xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.
Bài viết của Tiến sĩ Cung Thị Ngọc (1997) "Vấn đề nhận thức trong
triết lý nhân sinh của Trang Tử" Tạp chí Triết học, số 11; "Một vài nét về triết

5
lý nhân sinh của Trang Tử trong văn hoá phương Đông" Tạp chí Triết học, số
5 (2001). Trong hai công trình trên tác giả đã phân tích, đánh giá về bản chất,
đạo đức, vai trò của con người trong xã hội, vũ trụ, qua đó chỉ ra sự đồng nhất
và khác biệt giữa triết lý nhân sinh của Trang Tử với hệ thống triết học đương
thời nói riêng và phương Đông nói chung một cách khái quát.
Đề tài khoa học cấp Phân viện (2002): "Ảnh hưởng của Nho giáo đối
với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay" do Tiến sĩ Vũ Trọng Dung làm chủ
nhiệm, trong đó tác giả đã làm rõ những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự
tiếp biến tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam. Tác giả cũng đã chứng minh những
nhận định về ảnh hưởng của Nho giáo đối với nước ta trong quá khứ và hiện
tại. Từ đó đưa ra một hệ thống các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận
đối với việc xây dựng con người mới, văn hoá mới trong sự nghiệp đổi mới
hiện nay.
Luận án tiến sĩ "Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và sự thể hiện
của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX)" của Nguyễn Thanh
Bình, trong đó tác giả đã phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính
trị xã hội. Các vấn đề được tác giả bàn đến như: con người, vai trò của con
người trong xã hội, xã hội lý tưởng, chuẩn mực đạo đức dưới góc độ chính
trị - xã hội.
Đề tài khoa học cấp Cơ sở (2008): "Vấn đề con người trong các học

thuyết Trung Hoa cổ đại và một số ảnh hưởng của nó trong nền văn hoá Việt
Nam" do Tiến sĩ Cung Thị Ngọc làm chủ nhiệm, trong đó tác giả đã trình bày
các tư tưởng về vấn đề con người trong các học thuyết Trung Hoa cổ đại và
đưa ra nhận định để chứng minh sự ảnh hưởng của tư tưởng đó trong nền văn
hoá Việt Nam. Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp để kế thừa, phát huy
những giá trị truyền thống trong xã hội ngày nay.
Bài viết "Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá trị nhân sinh
truyền thống Việt Nam trong cuộc sống xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm

6
đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay" (2008) của Phó Giáo sư, tiến sĩ Lê
Bỉnh. Tác giả đã đưa ra một số các giải pháp nhằm kế thừa và phát huy giá trị
nhân sinh truyền thống Việt Nam một cách khái quát trên luận điểm triết học
Mác - Lênin, trong đó có sự kết hợp phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và công
bằng xã hội; chăm lo giáo dục, đạo đức cách mạng, giáo dục thẩm mỹ làm
trọng tâm. Đây là những giải pháp mang tính vĩ mô mà tác giả đề xuất trong
bài viết của mình.
Bên cạnh đó cần phải kể đến các công trình nghiên cứu của các tác giả
đánh giá rất cao vai trò của Nho giáo cổ đại, trong đó đã đề cập ở mức độ
khác nhau về triết lý nhân sinh và ảnh hưởng của nó đến lối sống con người
Việt Nam, như: Trần Văn Phòng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Lan Hương,
Doãn Chính, Nguyễn Tài Đông, Lê Văn Quán, Nguyễn Bằng Tường, Nguyễn
Hữu Vui, Ngô Ngọc Thắng, Lương Gia Tĩnh, Nguyễn Thị Minh Tâm, Lê Thị
Thuỷ, Vũ Văn Hậu Các công trình nêu trên được tôi kế thừa và sử dụng như
là chất liệu, là những ý kiến gợi mở cho sự nghiên cứu của mình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn
* Mục tiêu của luận văn
Làm rõ những nội dung cơ bản triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên
thủy; Chỉ ra những giá trị, hạn chế và ảnh hưởng của nó; Từ đó đưa ra một số
giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị nhân sinh Nho giáo trong quá trình

xây dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
Một là, hệ thống hoá những triết lý nhân sinh Nho giáo thông qua tư
tưởng Khổng – Mạnh.
Hai là, phân tích, đánh giá và chứng minh những ảnh hưởng của triết lý
nhân sinh Nho giáo trong lịch sử ở nước ta.
Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị nhân
sinh Nho giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay.

7
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Trải qua quá trình phát triển lâu đời, ở Trung Hoa cổ đại đã hình thành
nên hệ thống triết học với nhiều trường phái khác nhau, hàm chứa những giá
trị triết lý nhân sinh rất sâu sắc. Với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ triết
học, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu những nội dung cơ bản về triết lý nhân sinh
Nho giáo
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chủ yếu những triết lý nhân sinh trong Nho giáo
nguyên thủy đến thời Hán Nho.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho việc phân tích, đánh
giá, chứng minh những triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên thủy và mức độ
ảnh hưởng của nó.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác-
Lênin, trong đó chủ yếu vận dụng phương pháp luận duy vật lịch sử. Ngoài ra,
còn sử dụng một số phương pháp khác, như: hệ thống, phân tích, so sánh, đối

chiếu nhằm tái hiện lại một cách chân thực và đánh giá khách quan những
triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên thủy.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức về triết lý nhân sinh Nho
giáo một cách có hệ thống.

8
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc kế thừa, phát huy
những giá trị nhân sinh Nho giáo vào xây dựng con người, gia đình văn hoá
ngày nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên
cứu và giảng dạy về môn Lịch sử triết học - phần lịch sử phương Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 3 chương, 6 tiết:
Chƣơng 1: Quá trình hình thành và nội dung cơ bản của triết lý nhân
sinh Nho giáo.
Chƣơng 2: Ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho giáo đối với lối sống
của người Việt Nam.
Chƣơng 3: Giải pháp phát huy những giá trị tốt đẹp của triết lý nhân
sinh Nho giáo đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay.




9
Chƣơng 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO


1.1. Quá trình hình thành và biến đổi của Nho giáo
1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc
1.1.1.1. Về mặt xã hội
Xuân Thu - Chiến Quốc là hai giai đoạn lịch sử của xã hội Đông Chu
(770 - 221 tr.CN). Lịch sử của nhà Chu được bắt đầu từ sự thắng lợi thôn tính
giữa tộc Chu với nhà Ân - Thương và kết thúc dưới sự kiện Tần Thủy Hoàng
lên ngôi hoàng đế thống nhất Trung Hoa. Vào thế kỷ thứ XI tr.CN, nhà Chu
thừa cơ lúc nhà Ân - Thương suy yếu đã tấn công kinh đô nhà Thương lập lên
nhà Chu. Nhà Chu chia ra làm hai thời kỳ Tây Chu và Đông Chu.
Dưới thời Tây Chu (1135 - 770 tr.CN) tình hình xã hội khá ổn định. Họ
quản lý tổ chức xã hội dựa trên quan hệ huyết thống của dòng họ (tông pháp).
Sau khi chiếm được nhà Ân, vua Tây Chu đã phân chia đất đai, dân, quân
lính cho các anh em trong họ hàng để xây dựng các nước chư hầu xung
quanh nhà Tây Chu. Quyền hành cao nhất dưới chế độ Tây Chu thuộc về nhà
vua, vua được gọi là thiên tử, dưới vua Chu là các nước chư hầu, người đứng
đầu nước chư hầu thường là những quý tộc lớn thuộc tộc Chu và được coi là
ông vua nước nhỏ. Họ có quyền lực, có chính quyền, quân đội riêng ở vùng
đất được vua Tây Chu phân chia. Các nước chư hầu phải cống nạp theo định
kỳ với nhà Chu. Đến cuối thời kỳ Tây Chu, nước suy, các rợ ở xung quanh
thường xâm chiếm bờ cõi. Khi U Vương lên ngôi, ăn chơi trụy lạc, nhà Tây
Chu khủng hoảng kéo dài. Trong khi đó các nước chư hầu có nền kinh tế ngày
càng mạnh và từng bước muốn thoát khỏi sự ràng buộc về quyền lực của nhà
Chu.
Dưới thời Đông Chu (770 - 221 tr.CN), điển hình là Chu Bình Vương
(sau khi quân Tây Nhung vây hãm kinh đô và giết U Vương) lên ngôi do thế

10
và lực không đủ sức chống cự lại sự xâm lược của giặc ngoại tộc Hiểm Doãn
và Tây Nhung, đã dời đô từ Hạo Kinh về Lạc Ấp. Lúc này nhà Chu đã thực sự
suy yếu. Cho nên, nhà Chu không thể giữ được chế độ cai trị các nước chư

hầu như dưới thời Tây Chu. Bên cạnh đó, các nước chư hầu tuy chưa chính
thức không phục tùng mệnh thiên tử của nhà Chu nhưng đã không phục tùng
vương mệnh, không thực hiện cống nạp và lộng quyền xưng danh nhà Chu để
thôn tính lẫn nhau. Thời Tây Chu thì các nước chư hầu có trên một ngàn
nước. Thời Đông Chu, trong đó "Xuân Thu (770 - 403 tr.CN) có hơn một
trăm nước, đến thời Chiến Quốc (403- 221 tr.CN) trái lại chỉ còn có bảy nước
mạnh (thất hùng: Tần, Tề, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Yên)" [15, tr.44]. Tần là
quốc gia hùng mạnh nhất với việc thực thi chính sách pháp trị. Để chống lại
âm mưu xưng bá của nhà Tần, một số nước liên minh với nhau chống lại Tần
và tiêu diệt lẫn nhau. Lúc này cuộc chiến hình thành hai xu hướng:
Thứ nhất, tiến hành hợp tung do Tô Tần đề xướng nhằm liên minh các
nước yếu phía Đông nước Tần, gồm các nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Yên, Tề, Sở
để chống lại nước Tần.
Thứ hai, tiến hành liên hoành do Trương Nghi đề xướng nhằm xưng bá
Tần để dẹp các nước còn lại.
Cuối cùng xu hướng thứ hai đã thực hiện được ý tưởng xưng bá Tần và
thống nhất Trung Hoa vào năm 221 tr.CN.
Những cuộc chiến tranh giữa các thế lực diễn ra liên miên, dẫn đến một
hệ quả xã hội thật tàn khốc. Thời Xuân Thu có 483 cuộc chinh phạt lẫn nhau
giữa các thế lực chính trị. Đó là thời ngũ bá tranh hùng, sang thời Chiến Quốc
là thất bá tranh vương. Những cuộc chiến tranh như vậy đã làm đảo lộn các
thiết chế, nghi lễ truyền thống của nhà Chu, kế tiếp là làm cho xã hội rơi vào
tình trạng loạn lạc, phá hoại sức sản xuất ghê gướm "Bề tôi giết vua của mình
đều có, con giết cha của mình cũng có", "Tranh giành đất đai để đánh nhau,

11
chém giết người đầy đồng, tranh giành thành trì để đánh nhau, chém giết
người đầy thành" [15, tr.44].
1.1.1.2. Về mặt kinh tế, chính trị
Vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc việc sử dụng công cụ bằng sắt và

dùng bò kéo cày phổ biến đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai khẩn đất
hoang và dẫn nước nhập điền trong việc thủy lợi. Trong công xã một bộ phận
nhỏ nông dân do biết tổ chức và quản lý sản xuất đã trở thành địa chủ, còn đa
số đã mất ruộng đất trở thành tá điền, cố nông. Bên cạnh đó, những quý tộc có
quyền thế cũng dần dần chiếm ruộng của công xã thành ruộng tư. Thời Tây
Chu ruộng đất thuộc về vua Chu nhưng do công xã nắm giữ. Trong mỗi công
xã ruộng đất được chia đều cho nông dân canh tác, nộp thuế theo chế độ tỉnh
điền và chỉ được sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định. Đến thời
Xuân Thu - Chiến Quốc chế độ tư hữu ruộng đất được nhà nước thừa nhận và
bảo vệ, còn Thời Tây Chu quyền sở hữu ruộng đất thuộc về vua Chu. Như
vậy, thời Xuân Thu - Chiến Quốc trong lòng xã hội nô lệ đã xuất hiện chế độ
tư hữu, đó là những yếu tố của quan hệ sản xuất phong kiến. Mặt khác, do
việc sử dụng công cụ bằng sắt trong nông nghiệp với việc mở rộng quan hệ
trao đổi sản phẩm lao động trong xã hội dẫn đến thủ công nghiệp và thương
nghiệp rất phát triển. Hàng loạt ngành, nghề mới được phát triển, như: luyện
kim, đúc, rèn kim loại, mộc, xây dựng, thuộc da, nhuộm, gốm… Sự phát triển
của các nghề này không hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của
nhà nước.
Sự thay đổi lớn trong lĩnh vực kinh tế đã tạo ra sự biến động trong quan
hệ đẳng cấp quý tộc nhà Chu và sự phân chia giai tầng trong xã hội. Thời Tây
Chu gồm có: thiên tử, khanh, đại phu, sĩ, trong đó thiên tử có quyền lực cao
nhất, rồi đến khanh, đại phu là quý tộc, sĩ là những quý tộc nhỏ. Vua và quý
tộc được truyền theo tông pháp. Thời Xuân Thu có ba giai tầng chính, đó là:
quý tộc, thường dân và nô lệ, trong đó giai cấp quý tộc có quyền lực cai trị,

12
thường dân là những người lam lũ gắn liền với ruộng đất, còn nô lệ là những
thường dân bị hình phạt và tù binh bị bắt lao động và chịu sự nô dịch của quý
tộc. Thời Chiến Quốc, bên cạnh những giai tầng cũ, thì có nhiều tầng lớp mới
xuất hiện, như trong tầng lớp những người có của, giờ đây xuất hiện bộ phận

quý tộc mới giầu lên do sự buôn bán và tư hữu ruộng đất của công xã. Trong
tầng lớp bình dân, những người có học được gia nhập vào tầng lớp sĩ. Do đó,
những mâu thuẫn xã hội ngày càng nảy sinh, hình thành và trở nên phức tạp.
Sự nảy sinh những giai tầng trong xã hội và sự mâu thuẫn giữa các giai tầng
đó xuất phát từ: Sự phát triển của các ngành, nghề mới dẫn đến sự hình thành
sở hữu tư nhân. Đồng thời sự suy yếu của thế lực chính trị nhà Chu đã khiến
cho các thế lực địa phương thực hiện việc chiếm công vi tư. Một lực lượng
kinh tế tư hữu mới ra đời là một thế lực đối chọi với chế độ công hữu đất đai
nhà Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là lực lượng chính trị mới - Thế
lực địa chủ ở các địa phương thuộc các nước chư hầu nhà Chu. Xu hướng
chính trị của các thế lực mới này là thâu tóm quyền lực, tập trung uy quyền và
mở rộng sự bành trướng thống trị.
1.1.1.3. Về mặt tư tưởng, văn hóa
Văn hóa, tư tưởng thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã góp phần thúc đẩy
đến sự hình thành và biến đổi của các học thuyết triết học, trong đó có triết lý
nhân sinh Nho giáo. Nó thể hiện trên các bình diện sau:
Đặc biệt là trong lĩnh vực văn học và sử học, thời Chiến Quốc đã có
những tác phẩm vĩ đại, như: Kinh thi, Sở từ, Xuân thu, Tả truyện, Quốc
ngữ,… đó là những tác phẩm có giá trị văn hóa lớn mà cho đến nay chúng ta
vẫn trân trọng. Kinh thi gồm 305 bài thơ mang tính tập thể tác giả của nhiều
thế hệ khác nhau, của nhiều tầng lớp khác nhau, nó phản ánh các lĩnh vực
khác nhau trong đời sống xã hội. Sự ra đời của Kinh thi là do thông lệ các vua
Chu hàng năm cho các quan về các làng, xóm để thu, lượm các lời ca, bản
nhạc trong dân chúng vừa để xem các phong tục của từng nơi, đồng thời cũng

13
để xem thái độ của dân chúng với triều đình ra sao Những lời ca, bản nhạc
đó, về sau được Đức Khổng Tử đóng vai trò là người san định và sắp xếp
thành một tác phẩm lớn để giảng dạy cho học trò của mình - đó gọi là Kinh
thi. Bên cạnh Kinh thi đồ sộ còn có bộ Sở từ. Đó là tác phẩm của Khuất

Nguyên - là tập dân ca của nước Sở, trong đó, tác phẩm đã chịu ảnh hưởng
nhiều điểm tích cực, tinh thần phê phán hiện thực của Kinh thi. Tác phẩm đã
phản ánh thời cuộc Chiến Quốc nói chung, đặc điểm của nước Sở nói riêng.
Đồng thời nó cũng thể hiện tình cảm yêu nước thương dân, sự bình dị gần gũi
với nhân dân lao động của Khuất Nguyên. Điều đó đã làm cho Sở từ trở thành
một áng văn bất hủ trong nền văn hóa Trung Hoa. Chính những tri thức về
văn hóa đã trở thành chất liệu xây dựng nên nền móng cho sự nảy nở những
tư tưởng triết học, trong đó có triết lý nhân sinh Nho giáo.
Vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc, trong xã hội đã xuất hiện những
trung tâm, nơi tập trung các kẻ sĩ. Họ đứng trên lập trường của giai cấp mình
để phê phán trật tự xã hội cũ, đề ra những hình mẫu của xã hội tương lai và
tranh luận, đả kích lẫn nhau. Người ta gọi thời kỳ lịch sử này là bách gia
tranh minh. Chính trong quá trình trăm nhà cùng tranh luận, nó đã đẻ ra nhiều
tư tưởng vĩ đại, trên các lập trường của các giai tầng khác nhau. Họ chính là
những người đã hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh và
chặt chẽ trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc mở đầu cho thời kỳ mới. Vậy, bối
cảnh nào dẫn đến hiện tượng bách gia tranh minh. Thời Tây Chu về mặt tư
tưởng, đạo đức đều bị tôn giáo hóa và trở thành phương tiện độc quyền trong
việc thống trị của tầng lớp quý tộc. Ngay cả những hoạt động văn hóa cũng
chỉ phục vụ cho tầng lớp quý tộc. Tôn chỉ của chế độ chuyên chế trong xã hội
thời Tây Chu là lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu. Đến thời Xuân
Thu - Chiến Quốc, do những cuộc biến pháp ở nhiều nước chư hầu mà tình
hình chính trị, văn hóa đã trở nên dân chủ hơn. Quý tộc đã phải chia sẻ những
đặc quyền, đặc lợi cho các giai tầng khác, nhờ đó mà tầng lớp thứ dân được tự

14
do hơn. Sự phổ biến của việc mở trường tư học và phong trào chiêu hiền đãi
sĩ dưới thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã chứng minh cho điều đó. Từ bối cảnh
trên, nó đã góp phần làm gia tăng số người có học trong xã hội và uy thế của
tầng lớp kẻ sĩ. Trong tầng lớp kẻ sĩ và bình dân xuất hiện ngày càng nhiều

những nhân vật có chí và tài thao lược trên các mặt trận khác nhau. Ở đây,
đáng chú ý là kẻ sĩ được tự do, được suy tôn, không lệ thuộc vào bất cứ ai. Họ
không phải đảm nhận các chức vị trong triều đình và được tạo ra những điều
kiện tốt nhất để chuyên tâm nghị luận “Với mục đích ấy đã lập ra học thuyết,
mở trường dạy học, đi chu du khắp nước chư hầu làm thuyết khách, tranh
luận với các học phái khác… mong làm sáng cái đạo của mình trong thiên hạ”
[39, tr.26]. Đó là bối cảnh góp phần hình thành nên hệ thống lý luận của các
nhà tư tưởng Trung Hoa cổ đại.
1.1.2. Sự hình thành và biến đổi của Nho giáo
Trung Quốc cổ đại là quê hương của Nho giáo, cùng với Ấn Độ, Trung
Quốc là nơi nảy nở nhiều trường phái triết học lớn. Trong lịch sử cũng như
trong hiện tại việc đánh giá vai trò của Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với
sự phát triển của các nước, đó là sự Hán hóa vẫn là một trong những vấn đề
mà được nhiều các học giả quan tâm, tìm hiểu. Thế kỷ XVII đến thế kỷ XI
tr.CN trên giải sông Hoàng Hà phía Bắc Trung Quốc đã xuất hiện một liên
minh thị tộc lớn, với một nền nông nghiệp khá phát triển, chữ viết bắt đầu
được sử dụng với hình thức nhà nước trong phôi thai đã dần dần được hình
thành trong trứng nước đó là thời nhà Ân - Thương. Tới thế kỷ XI tr.CN, bộ
lạc du mục nhà Chu từ phía Tây Bắc men theo sông Hoàng Hà tiến vào và
tiêu diệt nhà Ân, lập nên nhà Chu mở đầu cho giai đoạn phát triển mới. Giới
nghiên cứu gọi thời kỳ này là Tây Chu (thế kỷ XI đến thế kỷ VIII tr.CN). Đây
là thời kỳ mà được sử sách ghi chép có sự phát triển về kinh tế, chính trị, xã
hội tương đối ổn định. Thời kỳ này đồ sắt đã xuất hiện, nhưng việc sử dụng
chúng chưa phổ biến như thời Đông Chu. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất

15
và sức lao động được nhà Tây Chu thực hiện chặt chẽ. Điều đó nó thể hiện
nguyên tắc: đất đai, dân chúng đều thuộc về quyền quản lý của nhà vua. Nhà
Tây Chu cũng đã phân chia rõ rệt địa giới hành chính giữa hai khu vực, đó là
khu vực thành thị là nơi cư trú của tầng lớp quý tộc, thị tộc - kẻ thống trị và

khu vực nông thôn là nơi cư trú của những thị tộc bị nô dịch. Đó là sự phân
biệt giữa nông thôn và thành thị. Trên cơ sở đó sẽ dẫn đến sự phân tầng xã
hội, mâu thuẫn giữa hai khu vực dần dần nảy sinh và đối kháng với nhau. Như
vậy, từ sự khái quát sơ lược về bối cảnh nói trên, nó là tiền đề cho sự hình
thành tư tưởng Nho giáo thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Xuân Thu - Chiến Quốc có nhiều các trường phái triết học khác nhau,
như: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia, Nông
gia, Tạp gia, Tung hoành gia.
Trong bối cảnh loạn lạc, sự sa đọa của các thế lực cầm quyền khiến cho
danh và thực không chính và thuận, kỷ cương, phép nước, trật tự xã hội bị
đảo lộn, nhất là nghi lễ truyền thống của nhà Chu. Nhằm duy trì địa vị của
giai cấp quý tộc thống trị và lễ nghĩa của nhà Chu trong xã hội, Nho giáo ra
đời mà Khổng Tử (551 - 479 tr.CN) là người khởi xướng. Đó là một hệ thống
học thuyết, đạo lý bảo vệ và củng cố sự phục hồi chế độ chính trị, kinh tế, văn
hóa của chế độ chiếm hữu nô lệ nhà Chu. Cho nên, nó không phù hợp với tư
tưởng của thế lực mới nổi lên thời Đông Chu. Chính vì thế mà khi lên ngôi
Tần Thủy Hoàng đã đề cao pháp trị và tiêu diệt Nho giáo, loại bỏ Nho giáo ra
khỏi hệ tư tưởng. Song, nhà Tần lại không có biện pháp mềm dẻo thích hợp
để điều chỉnh chính sách cai trị theo cách quản lý của Pháp gia, trái lại nhà
Tần lại áp dụng một cách thoái quá trong việc sử dụng nó, cho nên, nhà Tần
đã sớm đi đến bị diệt vong.
Nhà Tần với việc áp dụng chế độ pháp trị thật hà khắc, nên nhân dân
bất bình, khởi nghĩa của nông nhân lại nổ ra. Lợi dụng thành quả khởi nghĩa
của nông dân, Lưu Bang nổi lên giành chính quyền, lập ra nhà Hán năm 206

16
tr.CN. Trái với nhà Tần, Lưu Bang cần có một học thuyết chính trị mềm dẻo
để điều hành xã hội. Đương thời có nhiều học thuyết, như: Nho giáo, Đạo của
Lão Tử, Kiêm ái của Mặc Tử Các học thuyết đó cùng tồn tại nhưng nhà Hán
đã chọn và sử dụng Nho giáo làm vũ khí tinh thần và nó đóng vị trí, vai trò

cao nhất so với Đạo giáo và Phật giáo. Nho giáo thời kỳ này được nhấn mạnh
ở tư tưởng thiên mệnh, nghĩa, lễ ở tinh thần phục tùng của bề dưới đối với bề
trên.
Dưới triều đại nhà Đường thì Nho giáo không chiếm vị trí trọng tâm
trong xã hội mà nhường chỗ cho Phật giáo. Đến thời nhà Tống Nho giáo lại
chiếm một vị trí cao nhất trong xã hội. Hán Dũ kêu gọi các nhân sĩ trở về với
tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử, đề cao Mạnh Tử và trở thành ngọn cờ tư
tưởng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Từ thế kỷ XII, đời nhà Tống, dòng tư
tưởng này được các nhà Nho phát triển, nổi bật là hai anh em Trình Hạo(1032
- 1085), Trình Di (1033 - 1107). Nho giáo cho đến thời kỳ này đã trở thành
một hệ thống triết học, chính trị, đạo đức, xã hội hoàn chỉnh. Các nhà Nho
thời Tống, bằng học thuyết lý - khí đã hoàn chỉnh các phần hình như thượng
của học phái Nho gia, làm sâu sắc thêm các học thuyết về tâm, tính, đức của
các nhà nho tiền bối; Củng cố thêm hệ thống tam cương, ngũ luân của Hán
nho; Khẳng định thêm vị trí chính thống của Nho giáo trong đời sống tư
tưởng - văn hóa của xã hội phong kiến Trung Quốc.
Dưới triều đại Nguyên Mông thống trị Trung Hoa, Nho giáo vẫn được
suy tôn, được thể hiện ở công việc giảng đạo và thi cử. Đến đời nhà Minh
khoảng thế kỷ XVI thì Nho giáo được phát triển và biến đổi theo hướng duy
tâm cực đoan. Đến đời nhà Thanh, xã hội có nhiều thay đổi, văn hóa Trung
Hoa và văn hóa phương Tây có sự giao thoa, nên Nho giáo không được đề
cao trong xã hội.
Tóm lại, trong suốt hai ngàn năm tồn tại qua các thời kỳ, Nho giáo đã
hình thành và có sự biến đổi khác nhau. Tuy nhiên, Nho giáo có một vị trí và

17
vai trò nhất định trong hệ tư tưởng của các chế độ cầm quyền qua các thời kỳ.
Sự tồn tại của Nho giáo trong triều đại sau lại có điểm mới so với triều đại
trước, nhưng những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo thì triều
đại nào cũng phải giữ lấy. Vì vậy, Nho giáo - một hệ tư tưởng chính thống

của giai cấp phong kiến thống trị đã ăn sâu vào đời sống tinh thần của xã hội
và những giá trị tích cực của nó vẫn tồn tại trong xã hội ngày nay.
1.2. Một số nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Nho giáo
1.2.1. Khái niệm về triết lý
Theo tác giả Nguyễn Tất Thịnh thì triết lý được hiểu là những điều
được rút tỉa bởi trải nghiệm, như một quan niệm nền tảng, cốt lõi trên cơ sở
nhìn nhận điều gì là nguồn cội tâm thế, giá trị tinh thần, sức mạnh ứng xử
được phát biểu ngắn gọn, xúc tích - Như một tín điều, làm kim chỉ nam cho
cách xử thế, hành động hay lối sống của một cá nhân hay một cộng đồng”
[43, tr.1].
Triết lý "là thái độ sống, một lập trường, ý thức hay không ý thức, của
mỗi con người trước những hoàn cảnh của cuộc đời". Nó chính là cách sống
cho đúng thân phận, đúng với giá trị đời người. Triết lý có thể mang những
dáng vẻ chẳng có gì là triết cả, như K.Jaspers nói, "triết lý cũng xuất hiện
dưới khuôn mặt khác nhau: chính trị, văn chương, thơ ca, kịch, tôn giáo
Nhưng triết lý vẫn có đó, ở trong những thực tại khác nhau của con người và
vẫn hướng dẫn cuộc sống của mỗi người. Triết lý, tự nó và cách thiết yếu,
không phải là vấn đề của riêng những nhà chuyên môn, mà là vấn đề của con
người. Một cách nào đó, triết lý là chính cuộc sống con người dưới khía cạnh
ý nghĩa khác nhau. Triết lý bộc lộ ở khả năng suy tư của con người, nó thể
hiện ở khía cạnh sau:
Thứ nhất, con người có sự suy tư duy nhất trong mục đích của mình.
Nếu như nhu cầu suy tư không vị lợi, nếu những nhu cầu cần biện minh lý do
sống hay nhu cầu gặp gỡ là những điều thực sự của con người, thì nó không

18
thể không ảnh hưởng trên cuộc đời con người, làm cho cuộc sống của con
người thêm phong phú hay hủy hoại cuộc sống đó. Khả năng suy tư làm cho
con người trở nên cao cả, nhưng đồng thời cũng là một gánh nặng, bởi vì con
người không còn có thể sống hồn nhiên như cây cỏ, sống đơn giản với bản

năng như con vật. Cuộc sống của con người gắn liền với một ý nghĩa mình
lựa chọn và lựa chọn đó kéo theo một vận mạng, hoặc thành công, hoặc thất
bại, chứ không thể dửng dưng.
Thứ hai, con người biết suy tư, đó là niềm tự hào của nhân loại. Với lý
trí biết suy tư, chúng ta có thể xoay sở để đạt tới những sức mạnh mà thiên
nhiên không ban sẵn cho thân xác yếu đuối như thân xác con người. Với lý trí
biết suy tư, chúng ta có thể chế ngự cả những sức mạnh kinh hồn của thiên
nhiên và của các sinh vật khác để trở nên kẻ làm chủ vũ trụ. Với lý trí biết suy
tư, con người tự thấy mình cao cả hơn tất cả các sự vật khác, như lời Pascal
nói: “Dẫu vũ trụ có đè bẹp nó đi nữa, con người vẫn còn cao quý hơn cái đã
giết hại nó, bởi vì con người biết mình chết, còn thắng lợi của vũ trụ đối với
con người thì vũ trụ lại không biết gì cả”.
Thứ ba, sự bế tắc của con người trong suy tư. Đây không phải chỉ là
những bế tắc tạm thời hay những khó khăn trong chốc lát, mà là bế tắc của cả
một vận mạng đời người. Thế giới nhân loại đã hơn một lần kinh nghiệm sự
bế tắc đó. Chẳng hạn qua hai cuộc đại thế chiến, con người nhận ra rằng
không thể dùng lý trí khôn ngoan để xây dựng cuộc sống tốt đẹp cho mình.
Chẳng hạn, khi con người cảm thấy chính những tầng sâu tâm hồn con người
luôn vượt khỏi sự nắm bắt và làm chủ của chính mình. Cá nhân mỗi người
cũng đã từng kinh nghiệm sự bế tắc đó, khi mà người ta, một bên mang theo
nỗi khát khao vô biên, bên khác cứ phải chạy đuổi theo những giải quyết có
tính cách hữu hạn, tương đối và rồi lại cảm thấy trống rỗng từ thâm sâu trong
chính hữu thể của mình. Chính bế tắc lại thúc bách gay gắt con người phải
suy tư triệt để hơn, sâu sắc hơn. Người ta có thể tìm giải đáp bằng ngã đường

19
tự vượt thoát trong chính khi bế tắc, nghĩa là con người biết suy tư vẫn luôn
cao cả cho dù bị nghiền nát dưới những thất bại. Người ta cũng có thể xoay
những suy tư của mình vào những tìm tòi làm tăng thêm khả năng của con
người trước các thế lực thiên nhiên.

Con người suy tư để đi vào nẻo đường gặp gỡ với thiên nhiên, tha nhân
và để nhận ra nẻo đường phải đi của chính cuộc đời mình. Nếu cho rằng
chúng ta có thể tìm ra một con đường để xác định câu hỏi một cách chính xác
hơn thì lúc ấy lập tức phát khởi một sự phản đối nghiêm trọng đối với chủ
luận cuộc tương thoại của chúng ta. Khi chúng ta hỏi "Triết lý là gì?” lúc ấy
chúng ta đang nói về triết lý. Khi hỏi bằng đường lối này, hiển nhiên là chúng
ta vẫn còn đang đứng vị thế ở trên, nghĩa là, bên ngoài triết lý. Nhưng chủ
đích câu hỏi của chúng ta là đi vào trong triết lý, lân la trú ngụ trong đó, xử sự
ăn ở trong đường lối ấy, nghĩa là “làm triết lý”, “sống triết lý”, “ăn ở triết lý”.
Do đó, con đường của sự tương thoại với chúng ta chẳng phải có những con
đường hướng rõ ràng, mà đường hướng này đồng thời phải bảo đảm cho
chúng ta đang di động trong lòng triết lý; chứ không phải bên ngoài triết lý và
chung quanh triết lý.
1.2.2. Khái niệm về nhân sinh
Hằng ngày, con người phải đối mặt với nhất những vấn đề của cuộc
sống như sự thật và giả, thiện và ác, nghĩa và lợi, trung và hiếu, đạo đức và lối
sống… Chúng ta thường đặt ra câu hỏi phải xử sự ra sao đối với các vấn đề
đó và phải làm thế nào để bản thân, xã hội sống vui vẻ, thoải mái, có trên, có
dưới đó là ý nghĩa của nhân sinh. Tác giả Lê Kiến Cầu cho rằng “Nhân sinh
không chỉ bao gồm cuộc sống của con người và sinh mệnh của con người mà
gồm cả nhân tính nữa” [5, tr.24]. Theo cách giải thích của Lê Kiến Cầu thì
nhân sinh bao gồm những mặt sau:
Thứ nhất, về mặt sinh mệnh của con người. Đó chính là yếu tố cơ bản
duy trì sự sinh tồn của con người. Sinh mệnh con người là do hai yếu tố vật

20
chất và tinh thần hợp thành. Cho nên, trong sinh mệnh vật chất của mình, con
người phải nhờ vào nguồn tài nguyên vạn vật để duy trì sự phát triển của sinh
mệnh. Cũng vậy, trong sinh mệnh tinh thần của con người nếu không có món
ăn tinh thần để duy trì sự sinh tồn của sinh mệnh tinh thần thì nó sẽ chết. Nuôi

dưỡng sinh mệnh tinh thần là nuôi dưỡng lý tưởng của một người, nuôi dưỡng
tri thức và phẩm hạnh. Do đó, muốn sinh mệnh được phát triển hoàn mỹ thì
phải làm cho cả hai mặt vật chất và tinh thần có một cơ sở tốt.
Thứ hai, cuộc sống của con người. Mục đích của cuộc sống không chỉ
là làm tốt cho mình mà còn làm cho cả nhân loại sống tốt hơn. Cuộc sống ở
đây là cuộc sống nội tâm và cuộc sống ngoại tâm, cũng có thể gọi là đời sống
tinh thần và đời sống vật chất. Đời sống nội tâm chính là thái độ xử sự của
bản thân mỗi người khi đối mặt với chính mình, thái độ đó có được sau khi đã
suy tư. Đời sống ngoại tâm chính là những hành vi cụ thể đã nảy sinh sau khi
dựa vào những sự phản tỉnh và suy tư đó. Đời sống nội tâm có thể toàn là tinh
thần, đời sống ngoại tâm có cả tinh thần và vật chất. Mục đích cuối cùng của
chúng ta là làm cho cuộc sống hiện thực đạt được như ý, đạt được sự mỹ mãn,
không những cho mình mà còn làm cho người khác nữa. Đó là là mục đích
của cuộc sống và kết quả mà con người mong muốn. Trên thực tế cuộc sống
của con người, mọi người chỉ cần cố gắng làm cho cuộc sống của bản thân,
cuộc sống của mọi người tiến lên, điều đó tất yếu sẽ thu được kết quả mỹ
mãn.
Thứ ba, phương hướng của con người. Đó chính là hướng về một mục
tiêu nhất định. Phương hướng của con người không chỉ dừng lại ở cuộc sống
hiện thực “Cuộc sống của con người có hạn, còn tri thức thì không có giới
hạn”. Điều đó có nghĩa là con người sống trên đời đều phải học tập, nhưng
học tập không chỉ là phương hướng duy nhất của một con người, nếu chỉ có
học tập mà không có phương hướng thì ý nghĩa của sinh mệnh sẽ thiếu đi sự
thi vị. Con người có phương hướng cũng như người nhận rõ con đường đi, có

21
thể yên tâm vững bước tiến lên phía trước. Phương hướng của con người chỉ
cho con người thấy rằng không thể đem sinh mạng giới hạn vài chục năm
dùng làm tiêu chuẩn cho ý nghĩa của nhân sinh, mà nên đem sinh mệnh không
giới hạn dùng làm cái nút cuối cùng của ý nghĩa nhân sinh, nếu không phương

hướng con người sẽ trở nên khiếm khuyết. Phương hướng của con người chỉ
có thể dựa vào sinh mệnh tinh thần giành được trong đời sống tinh thần. Đó là
ý nghĩa tích cực có trong con người sống tích cực, chủ động trong sinh mệnh
tinh thần, nhân sinh từ đó mới có phương hướng. Ý nghĩa chân chính của
nhân sinh là sau khi chúng ta nhìn rõ cái tích cực, cái chủ động đi tìm những
mục tiêu có thể hành động, con người có thể cố gắng. Nhưng, những chủ
trương chỉ nhấn mạnh mặt nhân sinh không thể thực hiện, đó là cái mà không
phải nhân sinh theo đuổi, nhân sinh đáng quý ở chỗ thấy rõ cái theo đuổi đó
không thể làm mà vẫn làm, đó mới chính là viễn cảnh của nhân sinh.
Tóm lại: triết lý nhân sinh là sự suy tư, hành động của con người về
cuộc sống để đạt được mục đích cuối cùng là xây dựng một xã hội tốt đẹp
không chỉ cho mình mà còn cho cả nhân loại.
1.2.3. Về cái sống và cái chết
Khi nói về vấn đề sống, chết Nho giáo chỉ bàn về sự sống chứ không
quan tâm đến cái chết. Phan Bội Châu đã nhận định về Đức Khổng Tử như
sau: “Không bảo người ta tin mà người ta tự tin, không bảo người ta theo mà
người ta tự theo, chỉ nói đạo lý mà không nói báo ứng, chỉ nói lúc đương sống
mà không nói lúc đã chết rồi, mọi việc đều rõ ràng minh bạch như mặt trời
giữa ban ngày, như bể rộng núi cao, giản dị mà thú vị, đạm bạc mà sâu sắc,
khiến cho người ta có thể trông thấy mà không thể đến nơi được, có thể theo
mà không chán” [33, tr.3].
Đương nhiên, đạo Khổng là triết lý nhân sinh chứ không phải triết lý
nhân tử. Nếu cho rằng đạo Khổng chỉ nói lúc đương sống mà không nói lúc
đã chết rồi thì e rằng chưa chọn vẹn. Sách Luận ngữ, thiên Tiến chép rằng khi

×